Top 12 # Biện Pháp Giáo Dục Học Sinh Yếu Kém Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Biện Pháp Giáo Dục Học Sinh Yếu

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMBIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH YẾUI. ĐẶT VẤN ĐỀ: Trong chúng ta ai cũng biết bậc tiểu học là bậc học nền tảng là viên gạch đầu tiên xây dựng nên nền móng tri thức và đạo đức của con người. Đặt biệt là lớp 1 tâm hồn các em như tờ giấy trắng nếu chúng ta giảng dạy tốt thì các em sẽ có vốn kiến thức để học tốt hơn nữa. Nếu giảng dạy không tốt học sinh sẽ không nắm vững được kiến thức, sẽ là gánh nặng cho các lớp trên nếu không nói là học sinh yếu, kém. Học sinh học yếu không chỉ yếu về mặt kiến thức mà còn yếu về mặt nhận thức.Vì lẽ đó, ở trường tiểu học giáo viên dạy lớp 1 có nhiệm vụ dạy cho học sinh biết đọc biết viết, biết tính toán, biết dùng từ và phát triển vốn từ cho học sinh 1cách có hệ thống có phương pháp để hình thành và phát triển năng lực học tập cho học sinh. Bên cạnh đó giáo viên phải giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo dục cho học sinh biết cách học, khơi dậy ở các em lòng ham hiểu biết, tìm tòi học hỏi, tạo cho học sinh động cơ học tập, có nhu cầu học tập để tiếp thu kiến thức mới. Khi có hứng thú học tập các em sẽ tham gia hoạt động sôi nổi, tích cực và hào hứng. Hứng thú với học tập là một yếu tố quan trọng và cần thiết giúp các em học tập có kết quả cao , sẽ hạn chế được tình trạng học sinh học yếu. Học sinh yếu ảnh hưởng đến chất lượng đại trà và ảnh hưởng đến công tác phổ cập chống mù chữ, ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế ở địa phương.

Học sinh yếu thường mất tự tin, chán học, thường kèm theo một số biểu hiện tiêu cực làm ảnh hưởng đến lớp học. Vì thế giáo viên không chỉ bù đắp những kiến thức còn thiếu mà còn uốn nắn những sai sót của học sinh, dần dần xóa bỏ mặc cảm tự ti thích đến trường khắc phục được tình trạng học sinh bỏ học. Để giúp học sinh yếu nắm được kiến thức và theo kịp bạn bè thì đòi hỏi người giáo viên phải nắm bắt được tâm sinh lý của từng đối tượng học sinh, hiểu học sinh 1thiếu những gì? cần gì? để kịp thời bù đắp. Muốn như thế giáo viên phải không ngừng đổi mới phương pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh. Đồng thời đề ra biện pháp giáo dục phù hợp, với phương châm: ” Dạy điều học sinh cần chứ không phải dạy điều mình biết”. Do đó với mong muốn làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học, giúp học sinh yếu học có hiệu quả tôi chọn đề tài: ” Biện pháp giáo dục học sinh yếu” làm đề tài nghiên cứu. II. NỘI DUNG: 1. Thực trạng của học sinh yếu lớp 1: 1.1. Thực trạng của học sinh yếu lớp 1 nói chung: Học sinh yếu là nỗi lo nỗi trăn trở của người làm giáo dục. Do đó để giúp học sinh yếu học có kết quả, nhiều chuyên đề, nhiều phương pháp đặt ra nhằm đưa chất lượng giáo dục ngày một đi lên. Nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu, học sinh yếu vẫn tồn tại ở các trường. Hiện nay vẫn còn một số giáo viên ngại khó, không thích dạy lớp yếu, cảm thấy mệt mỏi chán nản khi được phân công lớp yếu dẫn đến chất lượng chưa được như mong muốn. 1.2. Thực trạng của học sinh yếu lớp 1 ở trường Tiểu học Phong Tân- Giá Rai Qua thực tế giảng dạy lớp 1.Tôi nhận thấy rằng: Nhìn chung các em học chưa tốt: Các em chưa có nền nếp học tập, Không chú ý trong giờ học, không chịu đọc bài, lười viết bài, không thích ngồi yên, không muốn trả lời câu hỏi, nếu có thì nói rất nhỏ. Cá biệt có vài em không nghe lời thích làm theo ý mình gây mất trật tự lớp học, ảnh hưởng đến các em khác. Việc dạy của giáo viên vẫn bám vào phương pháp rập khuôn, chưa tìm ra phương pháp để đổi mới nhằm nâng cao kết quả giờ học. Giáo viên hầu hết chỉ dạy theo phân phối chương trình chưa mạnh dạn đổi mới, chưa kiểm soát hết chỗ hỗng kiến thức của HS, chưa tìm hiểu nguyên nhân của học sinh học yếu nên không kịp 2thời sửa sai. Đây là nguyên nhân làm cho học sinh hoạt động không tích cực nhàm chán và học yếu. *Về chương trình sách giáo khoa: Lớp 1 có 6 môn học bắt buộc: Tiếng Việt, Toán, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội,

nghệ thuật, thể dục. Đối với học sinh yếu chỉ cần chú trọng 2 môn: Tiếng việt, Toán. Bởi vì nếu học sinh biết đọc, biết viết sẽ học tốt các môn khác. *Về giáo viên và học sinh: Trong thực tế hiện nay, ở trường Tiểu học việc dạy lớp yếu, bên cạnh những thành công, còn nhiều hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa biết đọc, chưa biết viết, chưa biêt làm toán, phương pháp giúp HS phát âm chuẩn, viết đúng, viết đẹp cũng ít được quan tâm. Qua tìm hiểu tôi rút ra được một số nguyên nhân sau: – Phần lớn học sinh chưa qua lớp mẫu giáo, nên chưa có nền nếp học tập. – Một số ít phụ huynh cho con vào học muộn so với tuổi quy định, việc tiếp thu kiến thức chậm hơn rất nhiều so với các em cùng lứa tuổi khác. – Gia đình học sinh ở xa các điểm trường, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, không có điều kiện đưa rước nên học sinh thường xuyên nghỉ học, dẫn đến tiếp thu kiến thức bị gián đoạn. – Cha mẹ li hôn buộc phải ở với người thân, ông bà, thiếu sự quan tâm chăm sóc, từ đó ảnh hưởng đến kết quả học tập. – Học sinh chưa có ý thức tự giác học tập, gia đình lại không quan tâm nhắc nhở con em học ở nhà nên kết quả học tập chưa cao. – Một số em có trí nhớ kém, không bền vững, học trước quên sau. – Một phần là do năng lực phát triển trí tuệ của các em dễ nhớ mau quên, ham chơi, biếng học, chưa có ý thức trách nhiệm trong học tâp. – Công tác phối hợp giữa gia đình nhà trường còn hạn chế, phụ huynh coi việc học tập của con em mình là nhiệm vụ của thầy cô giáo, cũng một phần là do giáo 3viên thiếu kinh nghiệm dạy lớp yếu. – Do nhận thức của phụ huynh về việc hoc tập của con còn hạn chế nên thường cho con nghỉ học, kiến thức tiệp thu không đầy đủ dẫn đến học yếu.Bảng 1: Chất lượng khảo sát học sinh lớp 1:LớpTổng số HSSố em khá giỏi Số em trung bình Số em yếu SL % SL % SL %1B 36 0 0 5 26,6 31 60

Một Số Biện Pháp Rèn Học Sinh Yếu Kém

Đối với học sinh yếu kém, gv nên coi trọng tính vững chắc của kiến thức, kĩ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức và tăng cường luyện tập vừa sức.Trong những tiết học đồng loạt, việc luyện tập được thực hiện theo trình độ chung, nhiều khi không phù hợp với khả năng học sinh yếu kém. Vì vậy khi làm việc riêng với nhóm học sinh yếu kém, cần dành thời gian để các em tăng cường luyện tập vừa sức mình. Và lưu ý những điều sau đây:

-Đảm bảo học sinh hiểu đầu bài tập: Học sinh yếu kém nhiều khi vấp ngay từ bước đầu tiên, không hiểu bài toán nói gì đó đó không thể tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy, giáo viên nên lưu ý giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần tìm, tạo điều kiện cho các em vượt qua sự vấp váp đầu tiên đó.

– Gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và mức độ: Để hiểu một kiến thức, rèn luyện một kĩ năng nào đó, học sinh yếu kém cần những bài tập cùng thể loại và mức độ với số lượng nhiều hơn so với các em khá giỏi và trung bình. Phần gia tăng này được thực hiện trong những tiết làm việc riêng với nhóm học sinh yếu kém toán. Chẳng hạn giáo viên có thể ra cho học sinh rất nhiều bài tập cộng trừ nhân chia , tính giá trị biểu thức,…

Được bước theo những bậc thang vừa sức với mình, học sinh yếu kém sẽ đỡ bị hẫng, bị hụt, bị ngã từ đó có nhiều khả năng leo hết các nấc thang dành cho họ để chiếm lĩnh được kiến thức, kĩ năng mà chương trình yêu cầu. Những nấc thang đầu dù có thấp, những bước chuyển bậc dù có ngắn nhưng khi học sinh thành công sẽ tạo nên một yếu tố tâm lý rất quan trọng: các em sẽ tin vào bản thân, tin vào sức mình, từ đó có đủ nghị lực và quyết tâm vượt qua tình trạng yếu kém.

7.Biện pháp thứ bảy: Giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực.Ví dụ: + Thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. + Dùng các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: ” Biết giúp đỡ người khác”, ” Thái độ nhiệt tình và tích cực”… + Khen thưởng bút, vở qua mỗi lần thi định kì thấy em đó có tiến bộ rõ rệt nhằm khuyến khích em cố gắng hơn.

Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Học Sinh Yếu Kém

Vấn đề mà ngành giáo dục cũng như toàn xã hội quan tâm hiện nay là nâng cao chất lượng học sinh (HS) yếu kém. Lăn lộn với phong trào giáo dục ở những vùng khó khăn, tôi thấy sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị quá lớn.

Ở nông thôn vừa thiếu thốn cơ sở vật chất vừa không có phong trào học tập. Với những người không thực sự tâm huyết với nghề thì việc phụ đạo HS yếu, kém chỉ mang tính hình thức chứ không có tác dụng gì. Việc dạy cho HS yếu, kém vất vả chẳng khác gì bồi dưỡng HS giỏi. Để một HS yếu kém hiểu được thực chất vấn đề rất khó khăn. Những em vì lơ là học tập mà học yếu thì “chữa” rất dễ nhưng những em có “chỉ số IQ” thấp thì một tiết dạy phải dành thời gian gấp đôi, gấp ba người thường.

Nhiều năm phụ đạo cho HS yếu kém, bản thân tôi đã rút ra một số điểm quan trọng. Trước hết giáo viên phải tìm hiểu hoàn cảnh của từng HS. Có em vì điều kiện mưu sinh nhưng cũng có em vì bạn bè rủ rê hàng quán, chơi điện tử, bi da… mà xa rời học tập. Có những em bố mẹ li dị, rượu trà, đánh đập nhau làm cho con cái chán học. Khi ta biết chia sẻ, giải quyết được tận gốc thì mới hòng vực dậy được các em đó. Người dạy lúc đó phải nắm xem HS hổng chỗ nào để bổ sung kiến thức. Có lúc phải hủy giáo án đã chuẩn bị để chuyển theo hướng khác cho phù hợp với kiến thức HS còn thiếu hoặc hiểu sai. Có khi ta phải quay lại dạy những kiến thức sơ đẳng từ tiểu học như cộng, trừ, nhân, chia hay bắt học thuộc lòng bản cửu chương.

HS yếu thường ngại học, ngại hỏi nên giáo viên phải chủ động đề ra kế hoạch kiểm tra mà mình nghi ngờ HS hiểu sai hoặc không hiểu. Ví dụ: Khi cộng các phân số khác mẫu số có nhiều em lấy tử cộng tử, mẫu cộng mẫu. Khi bình phương, lập phương, lũy thừa một số, có nhiều HS lấy số đó nhân với số mũ.

Trong việc phụ đạo HS yếu, giáo viên không nên đưa ra kiến thức cao quá, hoặc đòi hỏi mẹo mực làm ức chế học sinh. Những bài toán, bài văn đưa ra mang tính chất vận dụng khắc sâu lý thuyết. Ví dụ: Định lý Ta-lét thì giáo viên nên đưa ra bài toán áp dụng trực tiếp tìm một hạng tử khi biết sẵn 3 hạng tử trong tỷ lệ thức được thiết lập từ định lý chứ không nên lắt léo qua nhiều khâu trung gian. Khi HS trả lời đúng, giáo viên phải biết động viên khen ngợi, khi trả lời sai thì nhẹ nhàng gợi ý để tìm ra chân lý.

Giáo viên cho HS làm đi làm lại nhiều lần một dạng bài tập tại lớp để thuộc bài. Những kiến thức cần khắc sâu phải được lặp lại trong tiết học chính khóa và tiết tự chọn. Về dạy một trường miền núi của tỉnh Quảng Bình, tôi đã đề xuất với ban giám hiệu chọn HS yếu mỗi khối xếp vào một lớp cho giáo viên dạy khối đó trực tiếp phụ đạo, nhờ đó chất lượng bộ môn đã được cải thiện. Việc nâng cao chất lượng giáo dục vẫn còn gay cấn. Tiêu chí “hai không” tưởng chừng mâu thuẫn với tiêu chí “phổ cập” trong nhà trường. Đánh giá thực chất quá làm nhiều HS bỏ học nên một số nhà trường đã đặt ra mẹo này mẹo khác để đạt tiêu chí trường tiên tiến, trường chuẩn quốc gia. Nhiều nhà trường đã cho những HS bỏ học vào danh sách HS chuyển trường theo cha mẹ đi làm ăn nơi khác, hoặc “khai tử” cho HS.

Giải Pháp Giúp Học Sinh Yếu Kém Học Tốt Môn Toán

A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.Về lý luận.

Yêu cầu của công tác giảng dạy đó là trang bị cho học sinh kiến thức và xây dựng, hoàn thiện các phẩm chất đạo đức cho học sinh. Tuy nhiên, tùy vào hoàn cảnh hay khả năng tiếp thu nhanh hay chậm của mỗi học sinh khác nhau sau một thời gian tạo ra các đối tượng học sinh là: khá-giỏi, trung bình, yếu kém.Mỗi đối tượng học sinh lại cần những phương pháp giáo dục riêng đòi hỏi người giáo viên phải xây dựng cho mình cách thức giáo dục thích hợp. Ở đề tài này, tôi sẽ đề cập đến cách học sinh yếu kém môn toán

Học sinh yếu kém về toán là những học sinh có kết quả về môn toán thường xuyên dưới mức trung bình. Đối với diện học sinh này, giáo viên thường gặp rất nhiều khó khăn do càng là học sinh yếu kém thường lại là các học sinh cá biệt, vì một thời gian lâu dần các em chưa thể xây dựng cho mình phương pháp học tập thích hợp, dẫn đến tình trạng chán học , lười học. Do đó việc giúp đỡ lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng cần thiết đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức và thời gian hơn so với những học sinh khác.

Về mặt lý luận, người thầy phải nắm vững các đặc điểm tâm sinh lí, cũng như năng lực tiếp thu kiến thức của học sinh yếu kém ,để từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán của học sinh.

2. Thực tiễn.

Cũng như việc bồi dưỡng học sinh giỏi toán, việc giúp đỡ học sinh yếu kém phải được tiến hành ngay cả trong những tiết dạy học đồng loạt bằng các biện pháp phân hoá nội tại thích hợp.

Tuy nhiên, trong thực tế dạy học việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp để giúp đỡ học sinh yếu kém người thầy vẫn cần có sự giúp đỡ tách riêng đối với nhóm học sinh yếu kém (thực hiện chủ yếu ngoài giờ chính khoá).

Lứa tuổi học sinh lớp 7 là khoảng thời gian mà học sinh có những biến đổi tâm lí rõ nét, các em đã mạnh dạn hơn trong các mối quan hệ bạn bè, có nhu cầu trong việc tìm hiểu thế giới bên ngoài,nếu bài học không thú vị, khó hiểu hoặc không phù hợp với trình độ rất dễ gây nên tình trạng chán học,lười học dẫn đến đạt kết quả kém trong học tập.

Trên địa bàn mà trường tôi trực thuộc, học sinh đa số là con em nông thôn, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên việc đầu tư về vật chất cũng như thời gian cho con cái học tập chưa cao, ngoài giờ đến lớp các em còn phải giúp đỡ bố mẹ các công việc gia đình, không có thời gian để tự học. Sự quan tâm kèm cặp con cái của phụ huynh còn hạn chế, hơn nữa hoàn cảnh gia đình một số em do làm ăn không chăm lo con cái , thường không ở nhà kèm cặp. Ý thức học tập của một số em chưa cao, phương pháp học tập chưa phù hợp, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn yếu vì thế hầu hết các em sợ học môn toán.

3.Tính cấp thiết:

Trong quá trình giảng dạy đối tượng học sinh yếu kém là một trong những đối tượng thường hay gặp phải, đòi hỏi người thầy phải có những bước đi thích hợp nhanh chóng nhằm khắc phục những thiếu sót về mặt kiến thức, cũng như xây dựng cho học sinh phương pháp học tập ngay từ đầu năm để tránh xảy ra vấn đề bị tụt hậu về mặt kiến thức.

Học sinh yếu kém môn toán ở khối lớp 7 thường gặp phải các vấn đề cơ bản là thiếu kĩ năng tính toán,kĩ năng vẽ hình và suy luận vấn đề một cách logic dẫn đến không thể giải các bài toán thuộc kiến thức chuẩn của bộ môn và bài kiểm tra đạt điểm thấp .

Trong việc áp dụng các biện pháp giáo dục,người thầy phải dựa trên sự phát triển của tâm sinh lí và lứa tuổi cũng như kiến thức chuẩn kĩ năng mà bộ giáo dục đã ban hành,cùng với hoàn cảnh thực tiễn địa phương và gia đình.

4.Lý do về mặt năng lực nghiên cứu:

Qua quá trình giảng dạy, gặp nhiều đối tượng học sinh có những trình độ năng lực khác nhau. Tôi nhận thấy rằng, học sinh yếu kém là một trong những vấn đề quan trọng mà nhiều giáo viên hay lúng túng hoặc có nhiều giáo viên đưa ra một số phương pháp giáo dục song kết quả thu được chưa đáp ứng được mong muốn.

Là một giáo viên cũng đã trải qua rất nhiều khó khăn khi tiếp xúc với bộ môn toán thời còn đi học. Tôi rất hiểu và thông cảm trước những khó khăn của các em. Bởi vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn học hỏi đồng nghiệp và tìm tòi những phương pháp thích hợp để giúp các em học sinh yếu, kém yêu thích và học tốt môn toán.Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học môn toán ở trường THCS và qua thực tế dạy học tôi đã tìm tòi áp dụng một số giải pháp bước đầu đã đem lại thành công nhất định. Vì thế tôi chọn đề tài: “giải pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán “.

II. MỤC ĐÍCH- NHIỆM VỤ – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 1. Mục đích:

Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì mong muốn tìm được một phương pháp tối ưu nhất, để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống những phương pháp khoa học, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức và từng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát huy, khơi dậy khả năng sử dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn toán, đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay.

2. Nhiệm vụ.

2.1. Khảo sát chất lượng học sinh về môn toán nhằm xác định đối tượng học sinh yếu kém.

2.2. Tìm hiểu nguyên nhân gây ra sự yếu kém môn toán ở học sinh.

2.3. Phân loại đối tượng học sinh từ đó lựa chọn các biện pháp phù hợp và lập kế hoạch khắc phục hiện trạng yếu kém đó.

2.4. Thực hiện kế hoạch khắc phục yếu kém trong học sinh về môn toán.

2.5. Đúc rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy đối tượng học sinh yếu kém toán.

3. Phương pháp.

Đề tài này được hoàn thành trên phương pháp thống kê tổng hợp, quan sát, phân tích nguyên nhân và phương pháp thực nghiệm sư phạm.

III. PHẠM VI – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU-KẾ HOẠCH

Kiến thức môn toán bậc THCS như đã trình bày đóng vai trò nền tảng. Vì thế khắc phục tình trạng yếu kém môn toán ở bậc THCS là vấn đề không chỉ của riêng một cá nhân giáo viên dạy toán nào.

Tuy nhiên, để đạt hiệu quả rõ ràng trong việc nghiên cứu và thể nghiệm trong đề tài này tôi chủ yếu tập trung đi sâu vào phương pháp dạy học toán cho học sinh yếu, kém thuộc lớp 7A của trường tôi đang công tác vào các giờ học luyện tập, tự chọn, các buổi học phụ kém, các giờ học ngoại khóa…..Các bài toán được đề cập đến trong đề tài thuộc phạm vi SGK, SBT đảm bảo tính vừa sức đối với các em.

Thời gian nghiên cứu là bắt đầu ngay từ khi tiếp nhận lớp ngay từ đầu năm học đến khi kết thúc năm học 2016-2017. Nghiên cứu trong một năm học

IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM:

Học sinh lớp 7A mà tôi đang giảng dạy.

Qua việc nghiên cứu và thực tế giảng dạy cho thấy việc thực hiện đề tài thu được những kết quả khả quan. Chất lượng môn Toán được nâng lên rõ rệt thể hiện qua sổ điểm. Hơn nữa chất lượng học sinh khá cũng tăng lên. Học sinh tỏ ra quan tâm yêu thích học toán hơn trước đây.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận

Như đã đề cập ở trên học sinh yếu kém môn toán là học sinh có kết quả học tập môn toán thấp thể hiện qua sổ điểm, học bạ môn toán

Lứa tuổi THCS là lứa tuổi có bước chuyển biến tâm lý lớn trong đời người, các em có nhu cầu tìm hiểu về thế giới xung quanh, bản chất của hiện tượng mà các em gặp phải, những kiến thức cần và đủ để áp dụng vào cuộc sống đối với môn toán đó là kĩ năng tính toán, suy diễn logic,trí tưởng tượng , khả năng giải quyết vấn dề đây là vấn đề đã được đề cấp rất nhiều trong các sách về giáo dục, tâm lí.

Việc giáo dục và đào tạo học sinh là toàn diện. Người thầy không chỉ giáo dục học sinh về mặt kiến thức mà còn xây dựng cho các em phương pháp chiếm lĩnh lĩnh hội tri thức đồng thời hoàn thiện nhân cách,giúp các em hiểu biết về thế giới bên ngoài và bước vào cuộc sống với sự chuẩn bị tốt nhất.

Học sinh được chia làm 3 đối tượng chủ yếu : khá-giỏi, trung bình, yếu_ kém. Việc phân chia như vậy dựa vào năng lực, kết quả học tập của học sinh, người thầy có thể có những phương pháp giáo dục cho từng đối tượng thích hợp.

II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu

Kết quả tìm hiểu vấn đề thông qua kết quả học tập lớp dưới, kiểm tra khảo sát đầu năm tôi cho làm thấy phần lớn học sinh lớp 7A ở diện yếu kém, số học sinh khá trung bình thấp: 60% học sinh thuộc diện yếu kém, chỉ có không đến 40% học sinh ở mức trung bình và khá, không có học sinh giỏi. Đây là vấn đề đáng báo động thúc đẩy tôi nghiên cứu vấn đề này.

III. CÁC GIẢI PHÁP

1. Khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh để tìm đối tượng yếu, kém.

Thông qua học bạ lớp dưới, thông qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm mà tôi cho, kiểm tra vấn đáp những kiến thức cơ bản, trọng tâm mà các em đã được học thông qua kiểm tra bài cũ. Qua đó giúp tôi nắm được những đối tượng học sinh yếu kém và những ”lỗ hổng” kiến thức của các em. Trên cơ sở đó tôi phân lớp thành nhiều nhóm gọi là nhóm ” Tương đồng về kiến thức “. Rồi tìm hiểu nguyên nhân và lập kế hoạch khắc phục.

2. Tìm hiểu và phân loại các nguyên nhân

Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu đó là:

2.1 Học sinh có nhiều “lỗ hổng” về kiến thức cũng như kỹ năng do:

* Nguyên nhân khách quan:

– Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện học tập thiếu thốn về cả vật chất cũng như thời gian, dẫn đến kết quả học tập theo đó bị hạn chế.

– Do học sinh bị ảnh hưởng hoàn cảnh gia đình dẫn đến chán nản học tập.

-Do diễn biến tâm lí tuổi mới lớn.

* Nguyên nhân chủ quan:

– Kiến thức bị hổng do học sinh lười học, phụ huynh thiếu quan tâm kèm cặp.

2.2 Do khả năng tiếp thu chậm. 2.3 Do thiếu phương pháp học tập phù hợp. 2.4 Do giáo viên chưa thật sự tìm ra phương pháp dạy học thích hợp với đối tượng.

3. Lập kế hoạch thực hiện ( Xác định thời gian nội dung chương trình)

4. Thực hiện các biện pháp khắc phục yếu, kém.

4.1. Trước hết, tôi chú trọng khắc phục các yếu tố khách ảnh hưởng đến kết quả học tập của những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với tinh thần trách nhiệm của một người thầy giáo bộ môn toán.

4.1.1. Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn :

– Ví dụ như các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập. Ngoài các buổi đến lớp các em phải làm phụ giúp kinh tế gia đình ảnh hưởng đến thời gian để học tập. Sau khi tìm hiểu biết được hoàn cảnh của các em tôi kết hợp với giáo viên chủ nhiệm đã có ý kiến đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một phần nào các khoản đóng góp có thể được, giảm bớt gánh nặng về sự thiếu thốn vật chất cho các em. Ngoài ra tôi cũng thường xuyên nói chuyện tâm sự với các em để động viên , khích lệ tinh thần vượt lên hoàn cảnh khó khăn để vươn tới thành công trong học tập.

4.1.2. Với đối tượng học sinh gặp sự cố bất thường về tinh thần. 4.1.3Đối với đối tượng nguyên nhân do diễn biến tâm lí:

– Ví dụ như bố mẹ đi làm ăn kinh tế ở xa, hay những trường hợp có những cú sốc về tình cảm trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng, có một số em phải ở với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm và sự chăm sóc của bố mẹ…Thông qua học sinh và phụ huynh tôi thường xuyên trò chuyện thân mật riêng với các em , động viên an ủi để các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, góp phần nào giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn.

4.1.4 Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học.

– Độ tuổi học lớp 7 là lứa tuổi có những biến động tâm lí , ở tuổi này các em đã có một thời gian học cùng nhau , làm quen với nhau , với các thầy cô giáo trong nhà trường đồng thời đã có sự phân biệt nam nữ trong các mối quan hệ.Vì vậy, tôi phải thường xuyên quan tâm giúp đỡ uốn nắn các em,giúp các em xây dựng tinh thần trong sáng phù hợp với lứa tuổi,tập trung vào học tập.

Trong khi dạy học tôi thường xuyên lồng ghép cách tiếp cận kiến thức, cách suy luận, tìm hiểu đề bài từ đó đưa ra phương pháp giải bài tập làm toán,đồng thời giải đáp thắc mắc của học sinh,hướng dẫn học sinh xây dựng phương pháp học tập phù hợp với khả năng của mình.

Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt.

4.2. Khắc phục các yếu tố chủ quan: 4.2.1 Trước hết cần đảm bảo cho học sinh có trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp.

Qua kinh nghiệm giảng dạy tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy kiến thức mới trong điều kiện nền tảng kiến thức cũ rất yếu kém của học sinh. Đây là một nỗi niềm trăn trở day dứt hàng ngày gặm nhấm trái tim nghề nghiệp của tôi, thôi thúc tôi phải làm một điều gì đó để có thể giúp đỡ các em.Và tôi đã thay đổi cách nghĩ và cách làm trong công tác giảng dạy để giúp đỡ các em yếu, kém học tốt môn toán hơn qua các biện pháp cụ thể sau:

Để tiết học trên lớp có kết quả thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về trình độ kiến thức, kỹ năng sẵn có của học sinh. Đối với diện học sinh yếu kém thì thiếu hẳn tiền đề này. Vì thế cần giúp nhóm học sinh này có đủ tiền đề dảm bảo trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp đạt hiệu quả.

Trước hết, tôi nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, vạch rõ khối lượng tri thức và những kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát thông qua SGK, SGV, chuẩn chương trình …

Sau đó, phân tích mức độ,năng lực tri thức kỹ năng có sẵn ở học sinh ở trình độ nào (qua quá trình tìm hiểu, quan sát ở học sinh trên lớp, qua các bài kiểm tra, …)

Chẳng hạn: Ví dụ 1:

Tiếp đến, tôi tập trung vào việc tái hiện những tri thức và tái tạo những kỹ năng cần thiết một cách tường minh thông qua việc cho học sinh ôn tập những tri thức, kỹ năng trước khi dạy nội dung mới vào các buổi học ngoài giờ chính khoá.

Bài tập1: Đổi các số thập phân sau ra phân số:

0,6 v à 2,25

HS: ;

Bài tập2: Tính :

Hỏi: Em có nhận xét gì về mẫu số của hai phân số?

Muốn thực hiện phép cộng trên trước hết ta phải làm gì?

(HS: Phải qui đồng mẫu các phân số)

Hỏi: Tiếp theo cộng như thế nào?

(HS: Tử cộng tử, giữ nguyên mẫu)

Hỏi: Nhắc lại cách cộng hai số nguyên?

(HS: Nêu cách cộng hai số nguyên và tiến hành cộng)

Bài tập 3: Tìm x, biết: a)

Hỏi: Vai trò của x trong phép toán trên?

Vậy muốn tìm x ta làm thế nào?

Hoặc giáo viên có thể gợi ý cách 2 về quy tác chuyển vế

GV: Hãy nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z

(HS: Nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z)

GV: Tương tự trong Q ta cũng có qui tắc chuyển vế

(HS: Vận dụng qui tắc chuyển vế và thực hiện bài toán

(Theo qui tắc chuyển vế)

x

Vậy:

Tiếp đó tôi đưa ra thêm 1 ví dụ nữa nhằm hướng dẫn, luyện tập cho các em cách làm bài ( hướng dẫn thật chi tiết)

b) ( tương tự câu a áp dụng quy tắc chuyển vế)

Sau khi làm các bài tập co bản trên có thể tiến hành hướng dẫn làm các bài tập nâng cao hơn nữa cho học sinh :

Bài tập có thêm hệ số :

GV : thứ tự thực hiện phép tính trong dãy tính toán ?

(nhấn mạnh yếu tố tìm kết quả của phép tính 2x)

Sau khi học sinh làm thành thạo có thể nâng cao hơn khi cho các dạng bài tập tìm x:

Khi ra đề bài cần đảm bảo tính vừa sức kết hợp vừa có tính nâng cao để học sinh phải chủ động suy nghĩ, đảm bảo tính đa dạng tổng quát vận dụng nhiều kiến thức trong bài tập, ra bài tập vừa đủ không quá nhiều gây tâm lí e ngại khi làm bài.

-Như vậy trong buổi phụ đạo học sinh đã nắm được những kiến thức tiền đề của bài mới. Đảm bảo trình độ xuất phát cho tiết học chính khoá giúp các em tiếp thu bài một cách chủ động và hứng thú hơn, phát biểu xây dựng bài sôi nổi hơn. Hiệu quả giờ học được nâng lên rõ rệt.

Trong bài học mới khi đưa ra yêu cầu thực hiện phép tính

–+ 2,25.

Chỉ với gợi ý nhỏ: Mọi số hữu tỉ đều có thể viết được dưới dạng phân số với a,b Z, b 0. Là học sinh phát hiện được hướng giải quyết vấn đề nhờ bài học phụ đạo đã nắm vững.

*Rèn luyện tính chất giao hoán kết hợp :

Ví dụ : Tính

Với các phép tính và số lượng thành phần ít trong phép tính giúp học sinh dễ dàng nhận ra cách thay đổi vị trí các hạng tử, để hực hiện phép tính một cách đơn giản và nhanh nhất.Sau ki thành thạo hơn ta có thể dưa ra các bài tập đòi hỏi tư duy nhiều hơn. Chẳng hạn :

Bài tập :a)

b)

Đối với tính chất phép nhân phân phối phép cộng: đây là một tính chất khó học sinh rất hay thường nhầm lẫn hoặc lung túng khi được yêu cầu áp dụng vào tính toán

Ví dụ : thực hiện phép tính một cách hợp lí

Học sinh thường mắc sai lầm khi tính toán như sau :

Vì vậy cần nhấn mạnh tính xuất hiện giữa các hạng tử

Ví dụ 2:

Trước khi dạy khái niệm ” đường trung trực của đoạn thẳng” giáo viên cần cho học sinh ôn tập lại các kiến thức, kỹ năng cũ như trung điểm của đoạn thẳng, cách vẽ trung điểm của đoạn thẳng , vẽ đường thẳng vuông góc với đoạn thẳng cho trước qua một điểm cho trước đã được học ở lớp 6, rèn kỹ năng cho học sinh sử dụng thước và ê ke thành thạo thông qua các bài tập sau:

Điền vào chỗ (…) trong phát biểu sau để có định nghĩa đúng.

“Trung đểm của đoạn thẳng AB là …”

Vẽ đoạn thẳng AB dài 4 cm. Vẽ điểm M là trung điểm của đoạn thẳng AB.

Cho M là trung điểm của đoạn thẳng AB. Qua M vẽ đường thẳng xy vông góc với đoạn thẳng AB.

Như vậy khi học sinh đã nắm được khái niệm và kỹ năng nói trên thì việc tiếp thu bài mới không mấy khó khăn.

Trong thực hiện việc tạo tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cần chú ý:

* Mỗi bài toán phải được thực hiện qua nhiều bước, hướng dẫn và yêu cầu cách thực hiện thành thạo từng bước một.

* Tổ chức phân dạng bài tập một cách khoa học, chi tiết, cung cấp cho học sinh các dạng bài tập một cách có hệ thống.

* Soạn thêm nhiều bài tập đơn giản và tương tự cho từng dạng để các em tự làm, qua đó các em được lặp lại nhiều lần, giúp các em dễ khắc sâu kiến thức.

Sau khi kiến thức lớp dưới đã được bù đắp và bằng cách hạ thấp yêu cầu đến mức tối thiểu ở các dạng bài tập tôi nhận thấy các em học sinh đã xích lại gần nhau hơn, tiếp thu bài mới tốt hơn, yêu thích học môn toán hơn.

4.2.2. Thực hiện biện pháp lấp “lỗ hổng” về kiến thức và kỹ năng cho học sinh

Ngoài ra do việc bố trí kiến thức, lúc bình thường các em chủ yếu làm bài tập chỉ áp dụng một hay hai đơn vị kiến thức, cho nên khi gặp những bài toán yêu cầu kết hợp nhiều đơn vị kiến thức học sinh thường cảm thấy lúng túng, không biết bắt đầu trình bày từ đâu, như thế nào cái nao nói trước cái nào nói sau. Vì vậy trong quá trình giảng dạy của mình tôi thường xuyên đưa ra các bài tập ở dạng tổng hợp, hướng dẫn học sinh cách trình bày logic theo thứ tự thích hợp.

Qua tìm hiểu thực tế cho thấy: Kiến thức có nhiều “lỗ hổng” là một “bệnh ” phổ biến của học sinh yếu kém toán. Vai trò của việc đảm bảo trình độ xuất phát là cần thiết nhưng chỉ để phục vụ cho nội dung sắp học . Còn việc lấp lỗ hổng về kiến thức kỹ năng là nhiệm vụ cần thiết nhưng mang tính tổng quát không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp tới.

Trong quá trình dạy học người thầy cần quan tâm phát hiện những lỗ hổng về kiến thức, kỹ năng của học sinh. Tìm ra những “lỗ hổng” điển hình đối với học sinh yếu kém mà ở trên lớp vì điều kiện thời gian chưa khắc phục được để có kế hoạch tiếp tục giúp đỡ.

Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy ở học sinh yếu kém toán lớp 7 thường bị hổng kiến thức ở những mặt sau

*Đại số:

-Phần tập hợp số nguyên, các kỹ năng như thực hiện các phép tính trên số nguyên, quy đồng mẫu các phân số…. ở số học nguyên nhân của nó rất đơn giản ,và thường gây bất ngờ với rất nhiều giáo viên đó là các em phụ thuộc quá nhiều vào viêc sử dụng máy tính, dẫn đến khi tính toán rất hay nhầm lẫn sai xót. Tóm lại các em thiếu kỹ năng tính toán.

– Nguyên nhân thứ hai là các em thiếu năng trình bày lời giải dẫn đến khi trình bày lời giải chưa logic hoặc khi trình bày lời giải do trình bày vắn tắt dẫn đến sai xót do chủ quan.

Ví dụ : khi thực hiện phép tính:

(sai do tính toán và trình bày vắn tắt mà chưa thành thạo trong tính toán)

Hoặc

ở đây học sinh ra đến kết luận bài toán nhưng lại không thực hiện nốt phép tính, bài toán là minh chứng cho việc học sinh chủ quan,cẩu thả trong khi làm bài.

*Hình học:

– Học sinh thường vẽ hình theo diễn đạt còn kém. các khái niệm về trung điểm của đoạn thẳng,tia phân giác của góc còn chưa nắm vững…thiếu kĩ năng vẽ hình

– Chưa biết sử dụng kí hiệu toán học để thay thế lời nói trong khi giải bài tập hình

Bởi thế tôi tập trung thời gian và sức lực cho việc bù đắp những lỗ hổng này cho các nhóm học sinh vào các buổi học phụ kém và cả giao bài về nhà.a

Ở các buổi học phụ kém, tôi đã hệ thống hoá những kiến thức, kỹ năng còn hổng cho học sinh và đặc biệt chú ý đến hệ thống các bài tập chứa đựng nội dung kiến thức và kỹ năng cần bù đắp.

Chẳng hạn:

-Với nhóm học sinh yếu về kỹ năng cộng trừ số nguyên thì một mặt ở giờ học phụ kém tôi giúp các em nhớ lại cách thực hiện đồng thời cho các em thực hành nhiều lần với bài tập đơn giản vừa sức để các em mau chóng lấy lại được kiến thức và kỹ năng cơ bản. Mặt khác tôi giao bài tập về nhà và phân công học sinh khá kiểm tra giúp đỡ, hướng dẫn thêm cho nhóm.

Ở các nhóm khác tôi cũng tiến hành tương tự.

4.3 Giúp học sinh yếu kém luyện tập đảm bảo vừa sức

Ngoài ra, thông qua quá trình học lí thuyết và làm bài tập của học sinh tôi đã cố gắng tập cho học sinh có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của mình và biết cách tra cứu sách vở, tài liệu để tự mình lấp những “lỗ hổng” đó.

Đối với học sinh yếu kém, thầy giáo nên đặt quan điểm đảm bảo tính vững chắc của kiến thức lên hàng đầu. Việc luyện tập theo trình độ chung sẽ không phù hợp với học sinh yếu kém, vì vậy nhóm này cần nhiều thời gian luyện tập hơn.

Trước hết phải làm cho các em hiểu rõ đề bài: Đề bài cho biết cái gì? yêu cầu cái gì?

Nếu học sinh không hiểu đề bài thì không thể tiếp tục quá trình giải toán để đưa lại kết quả đúng được. Do đó giáo viên cần dành nhiều thì giờ giúp các em vượt qua được vấp váp đầu tiên này.

Để rèn một kiến thức hay kỹ năng nào đó thì số lượng bài tập cùng mức độ cùng thể loại đối với các em yếu kém cần nhiều hơn bình thường, cùng mức độ . Do đó giáo viên cần chú ý gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại . Ngoài ra các bài tập phải được phân bậc với mức độ gần nhau (phân bậc mịn)

Khi dạy bài : “Cộng, trừ số hữu tỉ “. Phần bài tập về nhà cho đối tượng học sinh yếu, kém tôi ra các dạng như sau:

a) ;

b) ;

a) ;

b) ;

Bài 3: Tìm x, biết

a) ;

b) ;

Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu , kém không nên ra quá nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra, chấm, chữa và cho điểm để động viên, khuyến khích các em.

Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức với mình, các em yếu kém sẽ tự tin hơn, không còn cảm giác bị hụt hẫng và sợ ngã. Sự tự tin giúp các em có thể tự leo hết các nấc thang dành cho mình. Từ đó dần dần chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng cơ bản cần thiết. Các bậc thang dù có thấp song sự kiên trì và nghị lực mới là điều quan trọng giúp các em vượt qua tình trạng yếu kém hiện tại.

4.4. Giúp đỡ học sinh rèn luyện .kỹ năng học tập,có phương pháp học tập phù hợp.

Trong quá trình dạy học tôi cho rằng việc dạy nhiều bài tập chưa chắc đã hiệu quả hơn bằng việc dạy một số ít bài, có trọng tâm và dành nhiều thời gian nhất cho học sinh có thể tự làm được hiểu được bài, kết hợp với việc lồng ghép chơi các trò chơi toán họcgiúp học sinh không bị gò bó nhàm chán trong tiết học,

Một thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như thế nào cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa học kỹ, thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập, đọc chưa kỹ đề đã đặt bút vào làm bài, trong khi làm bài các em thường vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn…Vì thế việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.

Trước hết cần nói rõ yêu cầu sơ đẳng của việc học tập toán:

– Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập.

-Trước một bài tập cần đọc kỹ đầu bài, vẽ hình rõ ràng, viết nháp cẩn thận.

– Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức (tốt nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học tập.

IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

Trong quá trình giảng dạy, tôi thường xuyên giới thiệu cho các em một số cách ghi nhớ kiến thức cơ bản : dùng sơ đồ tư duy dể ghi nhớ hoặc hệ thống hóa kiến thức. Hướng dẫn các em tự thiết lập cho mình cách học phù hợp với trình độ cũng như lối tư duy, cách sử dụng một số dụng cụ học tập hiệu quả nhanh chóng như : sử dụng máy tính cầm tay,sử dụng phần mềm vẽ hình sketpad, cách sử dụng thước compa sao cho hiệu quả.

Quá trình thực hiện nêu trên đối với học sinh lớp 7 ở trường mà tôi đang giảng dạy đã đạt kết quả đáng lưu tâm.

Khi năm học mới bắt đầu lớp có tới 60% học sinh yếu, kém. Nhưng với cách làm này cuối năm học chỉ còn 5% học sinh học. yếu, không có học sinh học sinh học kém.

Hơn thế nữa qua cách làm này, các em rất hứng thú và yêu thích môn toán hơn, tự tin hơn trong học tập.

Bảng so sánh:

Kết quả kiểm tra 2016-2017

Học kì

Điểm dưới 4

Điểm từ 4đến dưới 5

Điểm trên 5

Biểu đồ điểm kiểm tra 2016-2017 :

%

55

40

20

5

Điểm trên 5 Điểm từ 4 đến dưới 5 Điểm dưới 4 Học kì I Học kì II

Kết quả học tập 2016-2017

Học kì

Kém

Yếu

Trung bình

Khá giỏi

I

0%

15%

45%

40%

II

0%

5%

45%

55%

Biểu đồ kết quả học tập 2016-2017:

Học kì I học kì II 5 Yếu Khá giỏi C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Trung bình 15

%

55

45

40

Học kì I Học kì II

Sau một thời gian áp dụng đề tài , rôi đã thu đuợc những kết quả khả quan và đạt được những mục tiêu nhất định ,học sinh thấy hứng thú , yêu thích môn học,khả năng học và tự học tiến bộ hơn. Cụ thể thông qua bài khảo sát mà cá nhân tôi thực hiện như sau

Điểm dưới 4 Điểm trên 5 Điểm từ 4 đến dưới 5

Học kì

Điểm dưới 4

Điểm từ 4đến dưới 5

Điểm trên 5

Biểu đồ điểm khảo sát :

II. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

60 %

45

40

35

15

5

Tài liệu tham khảo 1.2.3. Hoàng Ngọc Diệp- Thiết kế bài giảng Toán 7 tập 1,2- NXBHN 4. Nhóm tác giả: Lê Văn Hồng – Phạm Đức Quang – Nguyễn Thế Thạch – Nguyễn Duy Thuận – Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III ( 2004 – 2007), NXB Giáo dục, 2007. DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Phan Đức Chính – Tôn Thân-SGV Toán 7 tập 1 – NXBGD Phan Đức Chính – Tôn Thân-SGK Toán 7 tập 1 – NXBGD

Như vậy việc giúp đỡ học sinh yếu , kém học tốt môn toán là việc làm rất khó khăn lâu dài đòi hỏi giáo viên phải có tình thương, một chút hy sinh và tinh thần trách nhiệm.

Việc sắp xếp thời gian thích hợp ngoài giờ lên lớp để bổ trợ kiến thức bị hổng cho học sinh yếu, kém đó là một khó khăn không phải ai cũng làm được. Mà phải có sự tận tâm hy sinh cao cả của người thầy tất cả vì tương lai các em. Do vậy rất cần đến sự chia sẻ từ phía lãnh đạo và các cấp ngành giáo dục.

Mỗi người thầy có một cách làm riêng, song với cách làm nêu trên với thành công ban đầu thiết nghĩ đó là kết quả đáng phấn khởi đối với người thầy dạy toán. Việc làm này không dễ thành công trong ngày một ngày hai mà phải là sự cố gắng bền bỉ và tận tuỵ thì mới mong mang lại kết quả tốt.

Với vốn kiến thức của mình còn hạn hẹp, bề dày kinh nghiệm còn khiêm tốn, nên không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuýêt. Vậy rất mong hội đồng xét duyệt góp ý, `bổ sung để kinh nghiệm giảng dạy của chúng tôi ngày càng phong phú và hữu hiệu hơn.

Để thực hiện đề tài có hiệu quả cần:

– Nhà trường cần tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm để xác định đối tượng học sinh yếu kém.

– Có kế hoạch phụ kém kịp thời.

– Nâng cao chất lượng đại trà của các khối lớp bằng các buổi học ngoài giờ chính khoá và đặc biệt tăng cường các buổi phụ đạo cho học sinh yếu kém.

– Tăng cường phối hợp giữa gia đình với nhà trường, giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm để tạo ra một sức mạnh tổng hợp.

– Phát động các đợt thi đua học tập trong công tác Đội. Tổ chức các câu lạc bộ giúp nhau học tập….

Nội dung viết tắt

Ý nghĩa

Thuộc