Top 10 # Biện Pháp Giáo Dục Nghề Nghiệp Trong Chương Trình Vật Lý 2018 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Định Hướng Xây Dựng Chương Trình Giáo Dục Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới

ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC VẬT LÝ TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI

Thứ năm – 10/08/2017 01:09

 

 

 

Trong thời đại ngày nay, thế giới đang có sự biến đổi sâu sắc về mọi mặt. Thành quả của các cuộc cách mạng công nghiệp, nhất là cuộc cách mạng lần thứ tư, đang mang lại những cơ hội phát triển nhanh chóng và cũng đặt ra những thách thức không nhỏ, nhất là đối với các nước còn chậm phát triển. Mặt khác, môi trường sống tự nhiên cũng như xã hội của con người đang biến đổi nhanh chóng.

logo HVL anh nen

Chúng ta đang chứng kiến những biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống trên phạm vi toàn thế giới, mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt; ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trầm trọng; chính trị, xã hội đang có nhiều biến động. Đứng trước những thách thức của thời đại, không có con đường phát triển nào tốt hơn là con đường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho các thế hệ tương lai nền tảng văn hóa vững chắc và năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thiên nhiên và xã hội để bảo đảm phát triển bền vững. Thách thức của thời đại buộc phải đổi mới giáo dục, đó là nhu cầu cấp thiết và là xu thế tất yếu toàn cầu. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu đổi mới được quy định rõ trong Nghị quyết 88/2014/ QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của moi học sinh”. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, “chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học, tạo môi trường học tập và rèn luyện giúp người học phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần; trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động có văn hóa, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới” [2]. Chúng ta đều biết rằng, mục tiêu tối thượng của giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng là phát triển năng lực của con người. Biểu hiện của năng lực là kỹ năng giải quyết một tình huống có ý nghĩa, chứ không phải ở việc tiếp thụ một lượng tri thức rời rạc. Để có thể “góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh” thì việc dạy học tích hợp là một cách thức rất hữu hiệu. Vì thế, tuân theo xu thế phát triển của giáo dục thế giới và điều kiện Việt Nam, bên cạnh việc sử dụng những cách thức giáo dục khác, chương trình giáo dục phổ thông mới đã có những bước đi ban đầu về dạy học tích hợp. Là một chương trình môn học của Chương trình giáo dục phổ thông, ^ chương trình môn Vật lý quán triệt đầy đủ quan điểm phát triển, đồng thời góp phần đắc lực vào việc thực hiện các mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông dưới góc độ vật lý. Nội dung giáo dục vật lý được phân bố ở cả hai giai đoạn giáo dục, với các mức độ khác nhau. Ở giai đoạn giáo dục cơ bản được thực hiện qua môn Tìm hiểu tự nhiên (cấp Tiểu học) và môn Khoa học tự nhiên (cấp Trung học cơ sở). Ở giai đoạn giáo dục hướng nghiệp được thực hiện qua môn Vật lý (cấp Trung học phổ thông). Ở giai đoạn giáo dục cơ bản, thông qua môn Khoa học tự nhiên, giáo dục vật lý giúp học sinh hình thành một cách có hệ thống các khái niệm, nguyên lý cơ bản của thế giới tự nhiên, góp phần vào việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh, làm nền tảng cho việc học tập ở các mức độ tiếp theo hoặc có thể áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Ngoài việc góp phần cùng với các môn học khác để phát triển các năng lực chung, môn học này còn nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực chuyên môn: i) nhận thức kiến thức khoa học tự nhiên, ii) tìm tòi và khám phá thế giới tự nhiên, iii) vận dụng kiến thức khoa học tự nhiên vào thực tiễn, iv) ứng xử với tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc chú trọng xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực, chương trình môn học cũng tính đến điều kiện cơ sở trang thiết bị và đặc biệt là tính đặc thù của đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở nên việc tích hợp được thực hiện sao cho các mạch nội dung được cấu trúc một cách khoa học, đồng thời đảm bảo thuận tiện cho việc tổ chức dạy học. Vì thế, chương trình đã được thiết kế để có thể soạn sách giáo khoa, hay bài giảng của giáo viên được thuận tiện cho mỗi phân môn Vật lý, Hóa học và Sinh học. Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, ở cả ba lớp: 10, 11 và 12, Vật lý là môn học độc lập, được học sinh lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân. Nội dung môn học được thiết kế thành các bài học và các chuyên đề để vừa bảo đảm phát triển tri thức và kỹ năng thực hành trên nền tảng những năng lực chung và năng lực tìm hiểu tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông góp phần giúp học sinh củng cố vững chắc các phẩm chất, kỹ năng phổ thông cốt lõi, hoàn thiện dần các phẩm chất, năng lực đã được định hình trong giai đoạn giáo dục cơ bản, tạo điều kiện để học sinh bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường của bản thân, có thái độ tích cực đối với môn học. Trên cơ sở nội dung nền tảng đã trang bị cho học sinh trong giai đoạn giáo dục cơ bản, chương trình lựa chọn phát triển những vấn đề thiết thực nhất, mang tính ứng dụng cao đối với học sinh trong việc định hướng ngành nghề sau khi hoàn thành Trung học phổ thông. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông một mặt kế thừa và phát huy ưu điểm của chương trình hiện hành và mặt khác, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chương trình môn học của các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, đồng thời tiếp cận được với những thành tựu của khoa học giáo dục và khoa học Vật lý phù hợp với trình độ nhận thức và tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh phổ thông. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông gắn lý thuyết với thực hành, gắn nội dung môn học với thực tiễn nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lý vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống. Do những yêu cầu khách quan nói trên nên cấu trúc nội dung chương trình môn Vật lý có những thay đổi so với cấu trúc chương trình môn Vật lý hiện hành. Chương trình môn Vật lý Trung học phổ thông chú trọng đến việc đổi mới phương pháp giáo dục, nhằm góp phần phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh học môn Vật lý. Như chúng ta đã biết, mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đạt chuẩn của chương trình và sự tiến bộ của học sinh để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, hoạt động quản lý và phát triển chương trình, nhằm bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục. Căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được quy định trong chương trình tổng thể và chương trình môn học. Phạm vi đánh giá bao gồm toàn bộ các môn học mà học sinh học. Đối tượng đánh giá là sản phẩm và quá trình học tập, rèn luyện của học sinh. Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kỳ ở cơ sở giáo dục, các kỳ đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kỳ đánh giá quốc tế. Kết quả các môn học tự chọn được sử dụng cho đánh giá kết quả học tập chung của học sinh trong từng năm học và trong cả quá trình học tập. Việc đánh giá thường xuyên do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, dựa trên kết quả đánh giá của giáo viên, của phụ huynh học sinh, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong nhóm, trong lớp. Việc đánh giá định kỳ do cơ sở giáo dục tổ chức. Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương do tổ chức kiểm định chất lượng cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức để phục vụ công tác quản lý các hoạt động dạy học, phát triển chương trình và nâng cao chất lượng giáo dục. Phương thức đánh giá bảo đảm độ tin cậy, khách quan, phù hợp với từng lứa tuổi, từng cấp học, không gây áp lực lên học sinh, hạn chế tốn kém cho ngân sách nhà nước, gia đình học sinh và xã hội. Ở Việt Nam, sự thành bại của một chương trình giáo dục phụ thuộc rất mạnh vào việc quan niệm và tổ chức các “kỳ thi”. Chính các “kỳ thi” hiểu không đúng đã góp phần làm méo mó các mục tiêu của kiểm tra, đánh giá trong giáo dục ở nước ta. Nếu không trả lại đúng ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá thì các đổi mới trong giáo dục rất khó đạt được mục tiêu mong muốn.

 

Tác giả bài viết: PGS. TS Nguyễn Văn Khánh

Nguồn tin: Hội Vật Lý

Chương Trình Môn Vật Lý Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Có Gì Mới?

Tích hợp ở giai đoạn giáo dục cơ bản, phân hóa ở THPT

Theo chúng tôi Nguyễn Văn Khánh, Chủ biên chương trình môn Vật lý, chương trình mônVật lý được phân bố ở cả ba cấp học với các mức độ khác nhau, thông qua các môn học: Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, lớp 2 và lớp 3); Khoa học (lớp 4 và lớp 5); Khoa học tự nhiên (Trung học cơ sở); Vật lý (trung học phổ thông).

Các phương pháp giáo dục của môn Vật lý góp phần phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học, nhằm hình thành năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ vật lý (năng lực vật lý) cũng như góp phần hình thành các phẩm chất và năng lực chung được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.

Chương trình coi trọng việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức vật lý vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống; vừa bảo đảm phát triển năng lực trên nền tảng những năng lực chung và năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên đã hình thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số ngành nghề cụ thể.

Sách giáo khoa phải thể hiện được tinh thần đổi mới

Trong nội dung, hình thức và phương pháp kiểm tra đánh giá phát triển năng lực học sinh, chương trình tạo điều kiện để chú trọng tập trung đánh giá các thành phần của năng lực vật lý. Bên cạnh đánh giá kiến thức, coi trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm, các kỹ năng thực hành và năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn.

Do hình thức trắc nghiệm khách quan không phù hợp cho đánh giá kỹ năng thực hành nên chương trình quan tâm hợp lý đến việc sử dụng cách đánh giá qua các sản phẩm thực hành của học sinh (ví dụ sản phẩm của các dự án học tập) cũng như các đánh giá mang tính tích hợp (ví dụ STEM).

Chương trình có cấu trúc nội dung cũng như yêu cầu cần đạt về cơ bản là giống nhau cho tất cả các vùng, miền. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện những kỹ năng cơ bản trong tìm tòi, khám phá đối tượng vật lý, giáo viên có thể chủ động tổ chức cho học sinh hoạt động trải nghiệm và thực hành một số nội dung mang sắc thái riêng của địa phương mình.

Chương trình có định hướng phát triển năng lực và định hướng dạy học phân hóa. Do vậy, sách giáo khoa phải được biên soạn có cấu trúc thể hiện rõ yêu cầu cần đạt ở những mức độ khác nhau (theo thang nhận thức và mức độ kỹ năng) hướng tới phát triển phẩm chất và năng lực đã được đề cập trong chương trình và phải tạo cho người dạy thuận tiện trong việc tổ chức dạy học cho các đối tượng khác nhau.

Giáo Dục Hướng Nghiệp Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới

Trong Chương trình GDPT mới, GDHN có vai trò quan trọng trong hình thành năng lực định hướng nghề nghiệp cho học sinh và được tích hợp trong một số môn học, hoạt động giáo dục:

1. Công nghệ

Giáo dục công nghệ phổ thông chuẩn bị cho học sinh học tập và làm việc hiệu quả trong môi trường công nghệ ở gia đình, nhà trường và xã hội; hình thành và phát triển các thành phần năng lực công nghệ: nhận thức, giao tiếp, sử dụng, đánh giá công nghệ và thiết kế kỹ thuật; chuẩn bị cho học sinh tri thức, kĩ năng nền tảng để lựa chọn ngành nghề thuộc các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ. Giáo dục hướng nghiệp trong môn Công nghệ được triển khai chủ yếu ở các lớp cuối cấp THCS và toàn bộ giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp.

– Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, môn Công nghệ trang bị cho học sinh tri thức nền tảng và các năng lực cốt lõi phù hợp với sự lựa chọn ngành nghề thuộc một trong hai định hướng công nghiệp hoặc nông nghiệp sau khi tốt nghiệp THPT.

2. Môn Tin học

Trong bối cảnh của cuộc cách mạng 4.0, có nhiều ngành nghề và việc làm mới xuất hiện đòi hỏi kiến thức, kỹ năng tin học chuyên sâu. Môn Tin học có cơ hội góp phần giúp học sinh định hướng nghề nghiệp tương lai hoặc ra đời khởi nghiệp, lập nghiệp trong lĩnh vực tin học. Do vậy, Chương trình môn Tin học rất coi trọng giáo dục hướng nghiệp.

3. Môn Giáo dục công dân

Giáo dục hướng nghiệp cũng thể hiện rõ trong môn Giáo dục công dân, Giáo dục kinh tế và pháp luật.

4. Môn Nghệ thuật

Môn Nghệ thuật là một môn học ghép, gồm hai môn là Âm nhạc và Mỹ thuật.

– Từ lớp 1 đến lớp 9, bên cạnh việc hình thành và phát triển các năng lực âm nhạc cơ bản, thông qua các hoạt động học tập âm nhạc đa dạng và phong phú như hát, đọc nhạc, nghe nhạc, chơi nhạc cụ và thưởng thức âm nhạc, học sinh còn được tạo điều kiện để nhận ra sở trường và phát huy năng khiếu âm nhạc của bản thân và bước đầu có ý thức về nghề nghiệp.

– Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, Chương trình môn Âm nhạc giúp học sinh nâng cao năng lực âm nhạc và kĩ năng thực hành, mở rộng hiểu biết về âm nhạc trong mối tương quan với các yếu tố lịch sử, văn hoá và xã hội; giúp học sinh phát huy tiềm năng hoạt động âm nhạc, có định hướng nghề nghiệp phù hợp với khả năng của bản thân…

4.2. Mỹ thuật

Trong môn Mỹ thuật, nội dung giáo dục hướng nghiệp được thực hiện qua mạch Mỹ thuật ứng dụng. Ở cấp tiểu học, chương trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu và làm các sản phẩm thủ công, như đồ chơi, đồ dùng học tập, đồ dùng cá nhân, đồ lưu niệm, đồ gia dụng, đồ trang trí nội thất bằng vật liệu sẵn có; thông qua đó, giúp học sinh làm quen với các nghề thủ công phổ biến ở địa phương, góp phần giáo dục hướng nghiệp.

Ở cấp THCS, chương trình lớp 8, lớp 9, mỗi lớp dành khoảng 10% tổng thời lượng của chương trình cho nội dung giáo dục hướng nghiệp.

Nội dung hoạt động hướng nghiệp gồm:

– Tìm hiểu nghề nghiệp (Ý nghĩa, đặc điểm và yêu cầu của nghề. Tìm hiểu yêu cầu về an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp. Tìm hiểu thị trường lao động);

– Hoạt động rèn luyện phẩm chất, năng lực phù hợp với định hướng nghề nghiệp (Tự đánh giá sự phù hợp của bản thân với định hướng nghề nghiệp. Rèn luyện phẩm chất và năng lực phù hợp với định hướng nghề nghiệp);

– Hoạt động lựa chọn hướng nghề nghiệp và lập kế hoạch học tập theo định hướng nghề nghiệp (Tìm hiểu hệ thống trường trung cấp, cao đẳng, đại học và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp khác của địa phương, Trung ương. Tham vấn ý kiến của thầy cô, người thân và chuyên gia về định hướng nghề nghiệp. Lựa chọn cơ sở đào tạo trong tương lai và lập kế hoạch học tập phù hợp với định hướng nghề nghiệp).

7 Giải Pháp Đột Phá Trong Giáo Dục Nghề Nghiệp

* 2019 được xem là năm thành công đối với GDNN. Ông có thể điểm lại những dấu ấn nổi bật của công tác GDNN trong năm qua? *Gắn kết đào tạo với doanh nghiệp là hoạt động trọng tâm. Năm 2019 ngành đã đẩy mạnh các chương trình ký kết hợp tác với doanh nghiệp, ông đánh giá thế nào về kết quả của hoạt động này?

– Năm 2019, nhiều chính sách, pháp luật về GDNN tiếp tục được hoàn thiện, tạo hành lang, cơ chế cho đổi mới nâng cao chất lượng GDNN. Nổi bật là một số chính sách, quy định được cụ thể hóa trong Luật Giáo dục sửa đổi và Bộ luật Lao động (sửa đổi)…Tổ chức thành công Diễn đàn quốc gia “Nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam” – Skilling up Việt Nam; hội thảo quốc gia VEC 2019 “Phát triển giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hội nhập quốc tế”. Tham gia kỳ thi tay nghề thế giới lần thứ 45 năm 2019 được tổ chức từ ngày 16 đến 28/8/2019 tại Kazan Liên bang Nga. Kết quả, đoàn Việt Nam lần đầu tiên giành 1 Huy chương Bạc và được trao 8 Chứng chỉ nghề xuất sắc. Năm 2019, chất lượng GDNN tăng 13 bậc theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF); tuyển sinh đạt 2.338 nghìn người, đạt 103,5% kế hoạch năm, bằng 105,8% so với năm 2018; trong đó: trình độ cao đẳng, trung cấp khoảng 568 nghìn người; trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác khoảng 1.770 nghìn người. Đây là năm thứ 3 liên tiếp kể từ khi hệ thống GDNN được thống nhất quản lý về Bộ LĐ-TB&XH, ngành đạt vượt chỉ tiêu về tuyển sinh. Trên 85% học sinh, sinh viên tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng có việc làm, có trường, có nghề đạt tỷ lệ 100% với mức thu nhập từ 7 – 10 triệu đồng/tháng…Truyền thông GDNN lan tỏa tích cực, thu hút ngày càng nhiều người học và sự quan tâm của doanh nghiệp, của xã hội; ứng dụng CNTT trong quản lý và kết nối doanh nghiệp được tăng cường.Hội thi thiết bị đào tạo tự làm lần thứ 6 năm 2019 diễn ra từ 8 đến 12/9/2019 tại thành phố Huế (tỉnh Thừa Thiên – Huế). Có 58 tỉnh, thành phố trên cả nước tham gia Hội thi, với 396 thiết bị của 216 cơ sở GDNN… Hội thi được đánh giá đạt tiêu chuẩn của một “sản phẩm” theo đúng nghĩa sản phẩm thương mại có thể sản xuất đại trà và bán ra thị trường…Triển khai thành công chương trình đào tạo chất lượng cao với 12 chương trình đào tạo chuyển giao từ Úc. Tiếp cận các chương trình đào tạo tiên tiến trên thế giới là một trong nhiều nội dung góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN. Sinh viên sau tốt nghiệp được cấp 2 bằng của Việt Nam và của Úc có đủ năng lực làm việc tại các doanh nghiệp FDI, hoặc tham gia vào các chương trình xuất khẩu lao động kỹ sư hoặc liên thông lên đại học ở nước ngoài…Tăng cường hợp tác quốc tế cũng là một trong nhiều nhiệm vụ trọng tâm của ngành GDNN. Việc tăng cường hợp tác với nhiều quốc gia có hệ thống GDNN tiên tiến, nghiên cứu vận dụng có chọn lọc các mô hình đào tạo nghề từ các quốc gia đó vào điều kiện thực tế tại Việt Nam là hướng đi đúng đắn của ngành GDNN trước yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế…

*Năm 2020, ngành sẽ thực hiện những giải pháp đột phá nào để tiếp tục phát triển GDNN?

– Có thể nói chuyển biến rõ nét nhất trong công tác tuyển sinh những năm qua là sự thay đổi trong nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, địa phương và của toàn xã hội về vấn đề học nghề, lập nghiệp, qua đó tác động đến công tác tuyển sinh của các trường TC, CĐ trong hệ thống chúng tôi nhiên, công tác tuyển sinh trong năm qua cũng còn gặp khó khăn, đó là: Tuyển sinh trình độ đại học khá dễ (số lượng các trường ĐH lớn, chỉ tiêu tuyển sinh ngày càng tăng, điểm chuẩn hạ thấp, thời gian tuyển sinh kéo dài cả năm nên thu hút phần lớn học sinh tốt nghiệp THPT vào học đại học) tạo áp lực cho cơ sở GDNN trong công tác tuyển sinh; nhiều địa phương quá tập trung đầu tư cho học sinh tốt nghiệp THCS vào học THPT, tốt nghiệp THPT vào đại học; đầu tư cho GDNN còn hạn chế; công tác hướng nghiệp, phân luồng trong các trường THCS, THPT chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao; chất lượng đầu vào của học sinh vào GDNN mặc dù đã có nhiều thay đổi nhưng nhìn chung còn thấp; năng lực đào tạo của một số cơ sở GDNN còn hạn chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành chưa được chú trọng đầu tư; có những cơ sở GDNN chưa hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp trong quá trình tuyển sinh, tổ chức đào tạo, giới thiệu việc làm cho HSSV sau tốt nghiệp.Để thực hiện tốt công tác tuyển sinh trong thời gian tới, Tổng cục GDNN đã chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể sau: Tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông về GDNN; tổ chức tốt công tác tuyển sinh tại các địa phương, cơ sở GDNN; gắn kết tuyển sinh, đào tạo với thị trường lao động, việc làm; hoàn thiện chính sách pháp luật về GDNN, tạo thuận lợi cho công tác tuyển sinh, đào tạo…

*Xin trân trọng cảm ơn Tổng cục trưởng, chúc ngành GDNN năm mới tiếp tục gặt hái nhiều thành công!

– Để tiếp tục phát triển GDNN, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và xã hội theo hướng bền vững, hội nhập, Tổng cục GDNN, Bộ LĐ-TB&XH triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Cụ thể: Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng nhất là các điều kiện về chương trình, về nhà giáo, cán bộ quản lý; về cơ sở vật chất, thiết bị phù hợp với đặc thù Việt Nam và tiếp cận các nước trong ASEAN-4 và các nước phát triển trong nhóm G20; gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững và tăng cường sự tham gia của hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động trong hoạt động GDNN; nâng cao chất lượng hoạt động dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực, việc làm và nhu cầu đào tạo; trao quyền tự chủ cho các cơ sở GDNN gắn với trách nhiệm giải trình, đánh giá độc lập, sự kiểm soát của nhà nước, giám sát của xã hội; đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về GDNN, trong đó tập trung hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về GDNN; xây dựng các chiến lược, chương trình, đề án phát triển GDNN; hoàn thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN, theo đó rà soát, sắp xếp cơ sở GDNN theo hướng chuẩn hóa, giảm đầu mối, tăng quy mô tuyển sinh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; phát triển hệ thống quản lý và bảo đảm chất lượng GDNN, triển khai mô hình quản lý, quản trị nhà trường theo hướng hiện đại, tinh gọn, chuyên nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin; nâng cao năng lực về quản lý và bảo đảm chất lượng; phát triển hệ thống đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động….

Thiều Văn Lý (thực hiện)