Top 15 # Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Bài Chị Em Thúy Kiều Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Phân Tích Bút Pháp Ước Lệ Trong Đoạn Trích Chị Em Thúy Kiều

Phân tích bút pháp ước lệ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

Mở bài:

Quan niệm về cái đẹp của người xưa chính là cơ sở thẩm mỹ của tính ước lệ trong văn chương trung đại. Thời trung đại, con người có tinh thần sùng cổ và quan niệm rằng ở  người xưa có những lý tưởng thẩm mỹ không thể nào đạt tới. Những gì cao đẹp của người xưa đều đạt đến chuẩn mực, đáng tôn thờ, học hỏi. Vì vậy, nắm bắt cái xưa, phục cổ đã trở thành một thói quen, một khuôn sáo cho nếp nghĩ, cách sống của con người thời trung đại. Tính ước lệ trong văn thơ bắt đầu từ đó.

Thân bài:

Bút pháp ước lệ là thủ pháp nghệ thuật miêu tả có tính quy ước biểu trưng, có tính chất khuôn mẫu trong biểu hiện nghệ thuật. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng không thể vượt khỏi ảnh hưởng của đặc trưng thi pháp ấy. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” thể hiện rất rõ đặc điểm ấy.

Đoạn trích là những vần thơ tuyệt bút, là bức tranh con người được vẽ bằng ngôn ngữ Tiếng Việt đạt đến mức hoàn chỉnh. Chỉ 24 câu thơ lục bát Tố Như đã miêu tả trọn vẹn và hoàn hảo tài năng, sắc đẹp, đức hạnh của chị em Thuý Kiều, Thuý Vân, hai tuyệt thế giai nhân, bằng tất cả tấm lòng cảm mến và sự nâng niu, trân trọng.

Nói đoạn thơ là bức tranh, bởi lẽ ngôn từ trong văn bản không chỉ tác động đến cảm xúc, mà nó còn gợi nên hình ảnh sống động về con người một cách rõ nét. Gấp trang sách lại, người đọc hình dung được Thuý Kiều, Thuý Vân từ dáng vẻ bên ngoài đến tâm hồn bên trong.

Trong họa pháp cổ điển, chuẩn mực của nghệ thuật cốt ở cái tinh. Cho nên nhà họa sĩ thường chú trọng đến cái thần của tác phẩm. Khi vẽ rồng nhất định chú ý đến đôi mắt, vẽ mùa thu nhất thiết phải có lá vàng… Người xưa lấy thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp. Cái đẹp của thiên nhiên vượt lên mọi giới hạn, bất biến với thời gia, là cơ sở để con người nghĩ về cái đẹp, nói về cái đẹp.

Nguyễn Du tả Thuý Kiều, Thuý Vân trên cơ sở bút pháp ước lệ cổ điển nhưng được soi chiếu và trình diễn đạt đến độ vi diệu. Chất liệu của nó không phải là màu sắc và âm thanh mà bằng ngôn từ. Qua bàn tay tài hoa của Nguyễn Du ta có cảm giác các con chữ vừa được đánh bóng lại và thổi vào đó sức sống mới.

Bốn câu thơ đầu là lời giới thiệu, khái quát chung về hai cô gái đầu lòng của nhà Viên ngoại họ Vương:

“Đầu lòng hai ả tố nga Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười”.

Hình ảnh mang ý nghĩa ước lệ, tượng trưng, kết hợp với phép ẩn dụ: hai nàng có “cốt cách” thanh cao như mai, “tinh thần” trong trắng như tuyết. Miêu tả như thế cho thấy sự nâng niu, quý trọng của nhà thơ với các nhân vật. Họ đẹp một cách lộng lẫy, đẹp “mười phân vẹn mười”. Thật khó để nói được vẻ đẹp riêng của hai ả tố nga nhà họ Vương. Chỉ có thể nói là vẻ đẹp của họ đã đạt đến bực hoàn hảo.

Nếu quan niệm đoạn trích là một bức tranh, thì đây là phần nền của hai bức chân dung chị em Thuý Kiều. Chưa tả nhưng hai nàng hiện lên thật nổi bật. Đó là cái tài đặc biệt của Nguyễn Du: giới thiệu nhưng mang yếu tố tả, kể nhưng như vẽ.

Trên cái phong nền ấy đại thi hào lần lượt cho các nhân vật của mình xuất hiện hết sức tự nhiên, đầy thần thái. Sau lời giới thiệu chung, là bức chân dung của Thuý Vân :

“Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười, ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”.

Vẫn bút pháp ước lệ, kết hợp với hệ thống từ ngữ chọn lọc, Thuý Vân hiện lên với những gì đẹp đẽ nhất, đặc sắc nhất, thiêng liêng nhất của tinh hoa đất trời: Hoa, trăng, ngọc, mây, tuyết. Đó là sự quy tụ của vẻ đẹp trời đất, của thiên nhiên. Đó cũng là chuẩn của vẻ đẹp con người cần hướng đến trong thi pháp văn học trung đại. Mỗi câu thơ, là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân. Cử chỉ, dáng đi đứng rất trang trọng, quý phái. Cách xử sự rất đúng mực, đoan trang. Đây là vẻ đẹp toàn bích của một thiếu nữ trong sáng, dịu hiền, không vướng một chút bụi trần.

Tác giả miêu tả khuôn mặt của Thuý Vân đầy đặn, sáng trong như khuôn trăng tròn vành vạnh. Tiếng nói trong như ngọc. Miệng cười tươi như hoa. Tóc mềm bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng làm cho tuyết phải “nhường”. Rõ ràng, ở nàng Vân là cái đẹp phúc hậu, đoan trang, cái đẹp chinh phục được xung quanh.

Nhưng nhà họa sĩ hình như không dụng công nhiều trong miêu tả Thuý Vân . Bút lực của ông chủ yếu khắc họa cho nhân vật Thuý Kiều . Tưởng Vân là một trang quốc sắc thiên hương không ai sánh kịp nữa, nào ngờ đâu, sau đó Thuý Kiều xuất hiện thì Thuý Vân chỉ làm nền tôn thêm vẻ đẹp của Kiều. Bằng cách tạo dựng tình huống theo kiểu đòn bẫy, Nguyễn Du chứng tỏ mình là bậc thầy trong việc miêu tả nhân vật. Thuý Vân đã đẹp đến mức thiên nhiên cũng nhường bước nhưng Kiều còn đẹp hơn thế:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Nếu vẻ đẹp của Vân là thuần phác, dịu hiền, đằm thắm, thì Kiều hiện lên với sự sắc sảo, mặn mà hiếm có. Vẻ đẹp này rất đài các, kiêu sa. Nó không thuộc về đời thường, chỉ để dành chiêm ngưỡng, ngước nhìn mà thôi. Khi miêu tả Thuý Kiều, theo tôi tác giả đặc tả đôi mắt. Người ta thường nói : đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn là vì nói đến đôi mắt là nói đến thế giới quan, nhân sinh quan của con người. Mắt đẹp là tự thân mang vẻ đẹp của tâm hồn. Cái thần của bức chân dung Thuý Kiều nằm ở chỗ này. Người đọc truyện Kiều tinh ý sẽ thấy được, Nguyễn Du không chú ý tả vẻ đẹp hình thức của Thuý Kiều. Ông chỉ dùng hai hình ảnh có giá trị biểu trưng : làn thu thuỷ, nét xuân sơn. Mắt nàng Kiều xanh trong như nước mùa thu, lông mày thanh tú như dáng vẻ, nét núi mùa xuân. Thế là đủ cho một tuyệt sắc. Trong nhân tướng học Trung Hoa, phàm ai có đôi mắt vậy thì rất đa đoan và nặng tình. Chính “làn thu thủy” ấy đã dự cảm cho số phận nghiệt ngã của nàng Kiều trong suốt 15 năm trời lưu lạc sau này.

Nói vậy, bởi quan sát kĩ chân dung hai chị em Thuý Kiều, tôi thấy hình như khi tả Thuý Vân, Nguyễn Du không hề miêu tả đôi mắt. Đây là điểm nhấn quan trọng để thấy dụng ý xây dựng nhân vật, tài năng của nhà thơ. Sách giáo khoa và nhiều tài liệu cho rằng “ nét ngài” trong câu tả Thuý Vân “ Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” là nói đến đôi lông mày đậm, thanh tú như con bướm tằm. Rõ ràng, “ngài” ở đây là người . “Nét ngài nở nang” là muốn nói bề ngoài của Vân đẫy đà, căng tràn sức sống. Điều này phù hợp với quan niệm của cụ Nguyễn Du với thuyết tướng pháp. Sự đầy đặn về ngoại hình của Thuý Vân cũng như định báo trước một cuộc đời mĩ mãn , bằng phẳng “ Phong lưu phú quý ai bì”.

Chính vì điều đó, nên vẻ đẹp của Thuý Kiều không bình thường chút nào, đẹp đến mức “hoa ghen”, “liễu hờn”. Thế thì không cần nói nhiều, người đọc cũng có thể thấy được sự khác biệt trong nét vẽ của cụ Nguyễn Tiên Điền với hai nhân vật chính của thiên truyện bất hủ này.

Miêu tả Thuý Vân với chỉ 4 câu thơ, song nói về Thuý Kiều tác giả dành 12 câu để nói về tài sắc của nàng. Nhà thơ dùng nhiều câu kiến trúc theo lối tiểu đối nhằm khắc họa nhân vật đạt mức độ tới hạn của vẻ đẹp :

“Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm. Cung thương lầu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.

Các từ ngữ tả Kiều đã được tuyệt đối hoá: sắc sảo, mặn mà, phần hơn, ghen, hờn, đòi một, họa hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân. Hình ảnh thơ đối chọi với nhau đã tạo nên nhịp thơ trang trọng, càng tôn thêm vẻ đẹp của nàng Kiều .

Nàng không chỉ đẹp về hình thức mà nàng còn hội tụ vẻ đẹp của sự thông minh “vốn sẵn tính trời”, cho nên các môn nghệ thuật : cầm, kì, thi, họa nàng rất sành điệu, điêu luyện “lầu bậc”, “ăn đứt” thiên hạ. Theo tôi, không những thiên nhiên “ghen”, “hờn” mà trước tài năng của nàng loài người cũng khó chấp nhận, Kiều phải lâm vào kiếp đoạn trường như là một điều dễ hiểu. Các cụ xưa đã dạy chẳng sai chút nào:

“Một vừa hai phải ai ơi, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.

Chính Nguyễn Du cũng phải thừa nhận sắc, tài sẽ là ngọn roi quất xuống đời Kiều, làm cho nàng bầm dập, đớn đau không tránh khỏi những lụy hệ cuộc đời :

“Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan , Vô duyên là phận hồng nhan đã đành. Lại mang lấy một chữ tình, Khư khư mình buộc với mình vào trong”.

Thiên lý “ bỉ sắc tư phong” như định sẵn ,chờ chực để đọa đày , vùi dập Kiều dù rằng nàng là một trang quốc sắc thiên hương , vừa có sắc – tài – tình – mệnh theo quan niệm của Tố Như :

“Có đâu thiên vị người nào. Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai”.

Như vậy, khi tả Thuý Kiều Nguyễn Du không chỉ nói đến nhan sắc khuynh nước khuynh thành, tài hoa trí tuệ, mà còn nói đến trái tim đa sầu đa cảm, tâm hồn vô cùng phong phú của nàng. Chính cung đàn bạc mệnh do Kiều soạn là tiếng lòng của nàng, trong đó có sự thương cảm sâu sắc của nhà thơ làm rung động đến tất cả mọi nhân vật trong truyện, kể cả tên mặt sắt Hồ Tôn Hiến. Dưới ngòi bút thiên tài Tố Như, Kiều càng đẹp bao nhiêu, có tài, có tình bao nhiêu thì số phận nàng càng oan nghiệt bấy nhiêu . Đứng trước chân dung của Thuý Kiều, nhà thơ Chế Lan Viên đã thổn thức xót xa :

“Chạnh thương cô Kiều như cuộc đời dân tộc Sắc tài sao mà lắm truân chuyên Bỗng quý Kiều như cuộc đời dân tộc Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường”.

Kết bài:

Miêu tả nhân vật là một trong những biệt tài của Nguyễn Du. Có lẽ ngàn năm sau cũng chưa nói hết cái hay, cái đẹp ngòi bút của đại thi hào. Chúng ta chỉ biết rằng, tài năng của nhà thơ trong việc khắc họa chân dung nhân vật như một giếng nước trong càng khơi càng trào ra những dòng nước mát ngọt ngào. Hy vọng rằng, với những suy nghĩ còn nông cạn trên, bạn đọc sẽ tìm được những điều bổ ích, dẫu rằng nó có thể “mua vui cũng được một vài trống canh”.

Bố Cục, Biện Pháp Nghệ Thuật Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá

Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận là bài thơ trong chương trình Văn 9 em hãy tìm bố cục bài thơ và nêu một số biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ đó.

1. Bố cục bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá có thể chia làm 3 phần:

– Hai khổ đầu: Quang cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi một ngày đang kết thúc.

– Bốn khổ tiếp theo: Quang cảnh đoàn thuyền đánh cá hoạt động trong một đêm trăng.

– Khổ thơ cuối cùng: Cảnh đoàn thuyền đánh cá quay về là lúc bình minh bắt đầu lên, một ngày mới bắt đầu.

2. Biện pháp nghệ thuật bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Mỗi đoạn thơ trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đều có những biện pháp nghệ thuật riêng.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa”

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm với gió khơi”

Tác giả tạo ra các hình ảnh gắn kết các sự vật, hiện tượng lại với nhau đó là câu hát, cánh buồm và gió khơi. Người đánh cá căng buồm cất câu hát lên nhà thơ có cảm giác như chính câu hát đó làm căng cánh buồm. Câu hát mang theo niềm vui cho người lao động, chính câu hát đã biến thành sức mạnh kết với với gió biển làm căng cánh buồm giúp con thuyền lướt sóng ra khơi trong đêm.

“Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”  tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa, tiếng thở của đêm chính là nhịp thở của thủy triều và tiếng rì rào của sóng biển. Những ngôi sao trên bầu trời phản chiếu xuống mặt nước được sóng biển nâng lên hạ xuống một cách hùng vĩ.

Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật bao gồm so sánh, nhân hóa, ẩn dụ. Chính điều này làm nổi bật hình ảnh những người đánh cá ra khỏi thật hùng vĩ.

Lớp 9 –

Đặc Sắc Nghệ Thuật Trong Bài Thơ Khi Con Tu Hú Của Nhà Thơ Tố Hữu

Khi con tu hú là bài thơ kết tinh được tài năng và tấm lòng lớn của nhà thơ Tố Hữu. Thành công của bài thơ không chỉ được làm nên bởi nội dung mới mẻ mà còn bởi nghệ thuật đặc sắc. Trình bày đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Khi con tu hú của nhà thơ Tố Hữu.

I. Dàn ý bài viết

1. Mở bài

 Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ “Khi con tu hú”: Bài thơ “Khi con tu hú” của nhà thơ Tố Hữu là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất được ra đời trong thời gian tác giả bị giam tù.

2. Thân bài

-Giới thiệu về đặc sắc nghệ thuật của bài thơ:

+ Tố Hữu là một nhà thơ lớn của Việt Nam, thơ văn của ông có sức ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn học nước nhà.

+ Trong thơ của Tố Hữu, ẩn chứa những nét riêng độc đáo của một thi nhân nổi tiếng Việt Nam

+ Bài thơ “Khi con tu hú” của ông với những đặc sắc nghệ thuật đã phần nào thể hiện được phong cách và nghệ thuật thơ của Tố Hữu.

-Nghệ thuật miêu tả và trí tưởng tượng của nhà thơ:

+ Cách tưởng tượng của nhà thơ cho thấy sức sống và sinh khí của mùa hè đang trỗi dậy mãnh liệt,

+ Không hề thấy bóng dáng của người tù bị giam cầm trong nhà lao mà chỉ thấy hình ảnh con người đứng giữa trời đất bao la, khoáng đạt tận hưởng không gian rộng lớn.

-Nghệ thuật kết hợp không gian:

+ Dưới ngòi bút và sự tưởng tượng của nhà thơ, bức tranh mùa hè có tiếng ve râm ran, có sân ngô phơi vàng, bầu trời xanh cao rộng và tiếng sáo diều vi vu.

+ Đó là một bức tranh có cảnh gần – xa, cảnh cao – thấp và tràn ngập màu sắc, âm thanh. Đó quả là những vần thơ đẹp, đầy mộng tưởng tình tứ

3. Kết bài

Ý nghĩa của đặc sắc nghệ thuật đối với bài thơ: Hai khung cảnh với những cảnh vật khác nhau đã tạo ra sự dồn nén, đẩy niềm khát khao tự do của người tù cộng sản lên đỉnh điểm. Bài thơ để lại những tiếng kêu vang vọng trong lòng người đọc, đó chính là tiếng chim tu hú và tiếng thân uất hận của nhà thơ

II. Bài tham khảo

Bài thơ “Khi con tu hú” của nhà thơ Tố Hữu là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất được ra đời trong thời gian tác giả bị giam tù. Bài thơ ra đời là tiếng lòng và tâm trạng của người chiến sĩ cộng sản khao khát cuộc sống tự do, tung hoành ngang dọc. Bài thơ đã cho người đọc cảm nhận một bức tranh mùa hè tươi sáng và rực rỡ sắc màu, âm thanh, đồng thời là tình yêu thiên nhiên, cuộc đời của tác giả.

Có thể nói, Tố Hữu là một nhà thơ lớn của Việt Nam, thơ văn của ông có sức ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn học nước nhà. Chính vì vậy trong thơ của Tố Hữu, ẩn chứa những nét riêng độc đáo của một thi nhân nổi tiếng Việt Nam. Bài thơ “Khi con tu hú” của ông với những đặc sắc nghệ thuật đã phần nào thể hiện được phong cách và nghệ thuật thơ của Tố Hữu.

“Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”

Tác giả tuy đang ở trong tù nhưng lại vẽ ra một cảnh tượng như đang đứng ở đầu làng quê yên bình, có cánh đồng lúa và có vườn cây trái. Có thể thấy, cách tưởng tượng của nhà thơ cho thấy sức sống và sinh khí của mùa hè đang trỗi dậy mãnh liệt, có tiếng chim nô nức gọi nhau, có lúa đang chín vàng cánh đồng và có mùi thơm của hoa trái. Không hề thấy bóng dáng của người tù bị giam cầm trong nhà lao mà chỉ thấy hình ảnh con người đứng giữa trời đất bao la, khoáng đạt tận hưởng không gian rộng lớn.

“Vườn râm dậy tiếng ve ngân…

Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không”

Dưới ngòi bút và sự tưởng tượng của nhà thơ, bức tranh mùa hè có tiếng ve râm ran, có sân ngô phơi vàng, bầu trời xanh cao rộng và tiếng sáo diều vi vu. Đó là một bức tranh có cảnh gần – xa, cảnh cao – thấp và tràn ngập màu sắc, âm thanh. Đó quả là những vần thơ đẹp, đầy mộng tưởng tình tứ.

“Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!”

Câu thơ đã phản ánh rõ thực tại trong nhà tù của tác giả, mùa hè tươi đẹp bỗng biến mất, chỉ còn lại mùa hè oi bức, ngột ngạt khiến cho tác giả muốn “đạp tan phòng”. Đến lúc này, tâm trạng nhà thơ đã bị biến đổi, uất ức và bực dọc vì phải chịu cảnh giam cầm, chưa khoát khỏi được chốn lao tù:

“Ngột làm sao, chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”

Tóm lại có thể thấy, mọi cảm xúc và tâm trạng của nhà thơ đều được bắt nguồn từ tiếng chim tu hú kêu, ở những thời điểm khác nhau, tiếng chim đã khiến tâm trạng tác giả có những biến chuyển khác nhau. Và nghệ thuật đặc sắc của bài thơ chính là sự kết hợp hài hòa của không gian, giữa bên trong và bên ngoài lao tù. Hai khung cảnh với những cảnh vật khác nhau đã tạo ra sự dồn nén, đẩy niềm khát khao tự do của người tù cộng sản lên đỉnh điểm. Bài thơ để lại những tiếng kêu vang vọng trong lòng người đọc, đó chính là tiếng chim tu hú và tiếng thân uất hận của nhà thơ.

Mách Chị Em Cách Vắt Khô Quần Áo Bằng Máy Giặt Lg

Công nghệ vắt khô thông minh của máy giặt LG

Với nhiều chị em phụ nữ, họ không tin vào khả năng giặt sạch của máy như giặt tay, mà lại yêu thích chức năng vắt khô chuyên sửa máy giặt. Đây là chức năng quan trọng của máy giặt. Trước kia nhiều máy giặt trong lúc vắt khô đã làm áo quần bị nhăn, nhàu thậm chí là rách hay bung chỉ. Nhưng với công nghệ vắt khô thông minh của máy giặt LG, bạn có thể thoải mái lựa chọn tốc độ quay vắt phù hợp với từng loại quần áo, từng chất liệu vải. Ngoài ra công nghệ này còn cho phép bạn vắt cực khô áo quần mà không làm hư hỏng hay biến dạng, giúp bạn tiết kiệm thời gian phơi khô áo quần, nhất là trong mùa mưa.

Cách vắt khô quần áo bằng máy giặt LG

Máy giặt LG được tích hợp 14 chương trình giặt khác nhau bao gồm cả chế độ vắt khô. Khi bạn giặt bằng máy, máy sẽ tự động vắt. Nhưng khi bạn giặt bằng tay, bạn mở cửa máy giặt và cho đồ cần vắt vào, nhấn “Spin” (vắt) và điều chỉnh tốc độ để máy vắt khô áo quần. Số vòng vắt của máy giặt LG được đặt sẵn là 500 – 650 – 700 – 850 – 900 – 1000 – 1200 – 1400 vòng/phút ( tùy thuộc vào từng model máy) sửa tủ lạnh lg. Nhiều máy đã mặc định vòng quay thì không thể điều chỉnh nhưng với những chế độ khác vẫn cho chỉnh số vòng quay để vắt theo ý muốn. Bạn lưu ý nên chọn số vòng quay cao hơn để quần áo được vắt kiệt nước hơn.

Sơ lược về cách vắt khô: nhấn nút nguồn khởi động máy giặt, sau đó chọn chức năng vắt, chọn tốc độ vắt và ấn nút “start” để máy bắt đầu vắt.

Một vài lưu ý khi vắt khô quần áo

Xem xét các loại quần áo trước khi cho vào máy vắt. Nếu quần áo mới và có màu rất dễ bị phai màu qua quần áo trắng khác. Với các loại quần áo mỏng nên tránh chọn số vòng vắt quá mạnh khiến quần áo bị biến dạng và hư hỏng.

Không nên cho quá nhiều áo quần vào một lần vắt, vừa khiến máy vắt lâu, vừa khiến áo quần không được vắt khô tối đa.Trong trường hợp trời không quá ẩm, hãy chọn chức năng vắt vừa thay vì vắt khô. Điều này vừa bảo vệ quần áo vừa tiết kiệm điện. Với các loại đồ lót cần cho vào túi vắt riêng sửa máy giặt công nghiệp, với quần jeans nên lộn trái để tránh làm phai màu quần và làm xước bề mặt các loại quần áo khác. Khi phơi nên lưu ý rũ mạnh quần áo để khi khô quần áo không bị nhăn.

Trụ sở:  Số 6 Chùa Bộc, Đống Đa, Hà Nội

Cơ sở 1:  Số 328 Nguyễn Trãi , Thanh xuân , Hà Nội

Cơ sở 2 :  Số 59 Lý Nam Đế , Hai Bà Trưng , Hà Nội

Cơ sở 3: Số 209 Cầu giấy , Hà Nội

Cơ sở 4 : Số 78 Minh Khai , Hoàng Mai , Hà Nội

Cơ Sở 5 : Số 218 Đội Cấn , Ba Đình , Hà Nội

Cơ Sở 6 : Số 405 Bạch Mai , Hai Bà Trưng , Hà Nội

Cơ sở 7 : Số 125 Định Công , Hoàng Mai , Hà Nội

Cơ sở 8 : số 28 Nguyễn Sơn , Long Biên , Hà Nội