Top 8 # Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Bài Thơ Rằm Tháng Giêng

Bài thơ: Rằm tháng giêng

Nội dung bài thơ: Rằm tháng giêng

– Phiên âm:

– Dịch nghĩa:

– Dịch thơ:

I. Đôi nét về tác giả Hồ Chí Minh

– Hồ Chí Minh (1890-1969), quê tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An

– Người là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và cách mạng Việt Nam, người đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tran và giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dụng chủ nghĩa xã hội

– Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn của dân tộc và là Danh nhân văn hóa thế giới

– Sự nghiệp sáng tác: Hồ Chí minh sáng tác nhiều thể loại, để lại một khối lượng tác phẩm lớn

+ Văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến…

+ Truyện, kí: Vi hành, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu

+ Thơ: Nhật kí trong tù, Thơ Hồ Chí Minh…

II. Đôi nét về tác phẩm Rằm tháng giêng

1. Hoàn cảnh ra đời

Bài thơ được sáng tác tại chiến khu Việt Bắc, năm 1948 – những năm đàu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

2. Bố cục (2 phần)

– Phần 1 (hai câu thơ đầu): Cảnh trăng rằm tháng giêng trên sông ở chiến khu Việt Bắc

– Phần 2 (hai câu còn lại): Hình ảnh con người

3. Giá trị nội dung

Bài thơ miêu tả cảnh trăng sáng ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng của Bác Hồ

4. Giá trị nghệ thuật

– Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

– Sử dụng điệp từ

– Hình ảnh thơ mang màu sắc cổ điển mà vẫn bình dị, tự nhiên

III. Dàn ý phân tích tác phẩm Rằm tháng giêng

I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh (những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác…)

– Giới thiệu về bài thơ “Rằm tháng giêng” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

II. Thân bài

1. Thiên nhiên Tây Bắc

– Hình ảnh trăng: nguyệt chính viên – trăng đúng lúc tròn nhất

⇒ Gợi không gian cao rộng, bát ngát, tràn đầy ánh trăng

– Sức sống của mùa xuân: xuân giang, xuân thủy, xuân thiên

⇒ Ba chữ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức xuân và sắc xuân đang trỗ dậy và không ngừng chuyển động để lớn dần lên. Khung cảnh tràn đầy sức sống, sông, nước và bầu trời dường như đang giao hòa với nhau

⇒ Bức tranh thiên nhiên đêm rằm mùa xuân đẹp, bát ngát, rộng lớn và tràn đầy sức sống

2. Hình ảnh con người

– Bàn việc quân: bàn việc kháng chiến, bàn việ sinh tử của của dân tộc

– Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền”: sức lan tỏa của ánh trăng trong đêm rằm và qua đó thể hiện ý nguyện, mong muốn vươn tới thành công trong sự nghiệp cách mạng

⇒ Phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hào hợp với thiên nhiên của Bác

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

+ Nội dung: vẻ đẹp đêm trăng rằm tháng giêng ở Tây Bắc và tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước và phong thái ung dung, lạc quan của Bác

+ Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hình ảnh thơ mang màu sắc cổ điển mà bình dị, gần gũi…

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k8: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 7 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 7 hơn.

tac-gia-tac-pham-lop-7.jsp

Chỉ Ra Những Đặc Sắc Nghệ Thuật Trong Bài Rằm Tháng Giêng

* Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật a. Cảnh khuya – Nội dung Bài Cảnh khuya viết bằng chữ quốc ngữ mang đậm chất hiện đại. Cũng vẫn là khung cảnh của núi rừng Việt Bắc, mở đầu bằng hình ảnh “Tiếng suối trong như tiếng hát xa”. Tiếng suối trong hay tiếng hát trong? Có lẽ cả hai. Sự so sánh bất ngờ, thú vị đó đã tạo nên hình ảnh thơ rất sinh động, giàu hình ảnh và mang không khí ấm áp, gần gũi của con người giữa khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng của chiến khu. Có nhiều nhà thơ khi miêu tả tiếng suối so sánh với các hiện tượng thiên nhiên như: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. (Nguyễn Trãi) Hồ Chí Minh so sánh tiếng suối với tiếng hát một cách rất tinh tế, gợi cảm. Hình ảnh so sánh này khiến cho âm thanh của tiếng suối xa càng trở nên gần gũi, thân mật với con người, tạo giọng điệu trẻ trung, trong trẻo. Cách so sánh của tác giả rất độc đáo và thể hiện tư duy mới mẻ trong thơ: lấy con người làm chuẩn mực để so sánh với thiên nhiên, làm cho âm thanh thiên nhiên cũng trở nên gần gũi, thân quen. Tiếp theo đó là sự hài hoà giữa cảnh vật: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa. Cảnh vật thiên nhiên huyền ảo, hài hoà, lồng vào nhau để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Dòng thơ thứ hai có thể hình dung theo hai cách: ánh trăng chiếu vào vòm cổ thụ, bóng lồng vào bóng hoa hoặc ánh trăng chiếu rọi vào các vòm lá cổ thụ in bóng xuống mặt đất như muôn ngàn bông hoa. Trong Chinh phụ ngâm khúc, Đoàn Thị Điểm viết “Hoa dãi nguyệt nguyệt in một tấm/ Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông”. Ta có thể hình dung bức tranh nhiều tầng lớp, đường nét, hình khối đa dạng nhưng rất hài hoà. Có dáng hình vươn toả của vòm cổ thụ, trên cao lấp loáng ánh trăng, dưới mặt đất, bóng cây, trăng, hoa, lá in vào tạo thành những bông hoa thêu dệt. Bức tranh có sự hài hoà hai màu sáng tối, đen trắng mà tạo nên vẻ lung linh, chập chờn, ấm áp mà gần gũi. Hai câu thơ rất giàu giá trị biểu cảm, câu đầu là thi trung hữu nhạc, câu sau là thi trung hữu hoạ. Trong khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy xuất hiện hình ảnh con người, chính là hình ảnh thi nhân. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, nhà thơ say mê chiêm ngưỡng mà chưa ngủ. Dòng thứ tư bất ngờ mở ra chiều sâu mới trong tâm hồn nhà thơ: thao thức còn chính là vì lo cho vận mệnh đất nước, hay chính là vì thức đến canh khuya lo việc nước mà Bác gặp ánh trăng rừng tuyệt đẹp. Giữa cảnh vật đó là hình ảnh nhà thơ – hình ảnh vị lãnh tụ lo lắng cho dân, cho nước không ngủ được. Trong thơ của Bác, có nhiều cảnh mất ngủ, đã diễn tả tấm lòng yêu nước, thương dân, trách nhiệm của vị lãnh tụ. Thơ của Bác đã diễn tả một cách chân thành và giản dị những tình cảm thiêng liêng với dân tộc, với nhân dân, đó cũng là phong cách thơ độc đáo của Người. – Nghệ thuật Bài thơ kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật, nổi bật là phép so sánh (đã phân tích ở phần Nội dung). Phép điệp ngữ (“lồng”, “chưa ngủ”) nối kết hai tâm trạng, bộc lộ chiều sâu nội tâm. Dòng cuối ngắt nhịp 2/5 độc đáo để nhấn mạnh tâm trạng của Bác “vì lo nỗi nước nhà”. Thơ của Hồ Chủ tịch tiêu biểu cho phong cách trữ tình cách mạng, kết hợp hài hoà giữa chất: cổ điển và hiện đại: cổ điển ở từ ngữ, thể thơ, hình ảnh thơ nhưng hiện đại ở tư tưởng, nội dung. b. Rằm tháng riêng – Nội dung Đây là bài thơ nổi tiếng của Bác Hồ viết đúng tiết rằm tháng giêng năm 1948 ở chiến khu Việt Bắc. Bài thơ viết bằng chữ Hán, có bốn câu, nhưng có thể nói mỗi câu là một nét khắc hoạ tinh tế cảnh sắc thiên nhiên và cảm xúc của con người trước thiên nhiên kì vĩ. Và từ năm 2002, Hội Nhà văn Việt Nam lấy ngày rằm tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam thì người yêu thơ càng có dịp hiểu thêm, yêu mến thêm hồn thơ Hồ Chí Minh. Phiên âm viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt còn bản dịch thơ viết theo thể lục bát và có thêm những tính từ miêu tả như lồng lộng (dòng 1) và bát ngát cùng với động từ ngân (dòng 4). Một số từ ngữ của bản dịch không được dịch sát nghĩa với nguyên tác (kim dạ, chính viên, xuân thuỷ, yên ba thâm xứ). Trong bài Rằm tháng giêng, Bác thưởng trăng trên khói sóng nơi “yên ba thâm xứ” cõi sâu kín bí mật trên dòng sông giữa núi rừng chiến khu. Người đang thưởng ngoạn trăng không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa mà còn là người chiến sĩ cách mạng, vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân”. Ta có thể hình dung khung cảnh bầu trời cao rộng, trong trẻo, nổi bật trên bầu trời ấy là vầng trăng tròn đầy, toả sáng khắp trời đất. Cách miêu tả trong bài thơ vẫn theo truyền thống của bút pháp thơ cổ phương Đông: chú ý đến toàn cảnh và sự hoà hợp, thống nhất trong cái toàn thể chứ không đi vào miêu tả chi tiết, gợi nhiều hơn tả. Cảnh đêm Rằm tháng giếng nổi bật với ánh trăng rằm trên sông nước, có không gian bát ngát, tràn đầy sức xuân. Cả dòng thơ thứ hai tràn ngập sắc xuân với ba chữ xuân liên tiếp: Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên. Bác như một tao nhân mặc khách thưởng xuân nhẹ nhàng, yên bình. Trong khung cảnh đó thật bất ngờ lại diễn ra cuộc họp bàn việc quân, việc chính trị, một công việc quan trọng và hết sức bí mật. Đối chiếu với nguyên tác, hai chữ “yên ba” có nghĩa là khói sóng. Phần dịch thơ là giữa dòng mới chỉ ra được nơi luận bàn việc quân nhưng nó đã bỏ mất cái mịt mù hư thực huyền bí thiêng liêng của cảnh khuya. Đây là một thi liệu cổ được Bác vận dụng rất sáng tạo làm cho bài thơ mang phong vị Đường thi nhưng ba chữ đàm quân sự lại làm cho vần thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại. Đặt trong hoàn cảnh ấy, chúng ta thấy rõ sự bình tĩnh, chủ động, lạc quan của vị lãnh tụ. Phong thái ấy toát ra từ những rung cảm tinh tế, dồi dào trước thiên nhiên, đất nước. Mặc dù phải ngày đêm lo nghĩ việc nước, nhiều đêm không ngủ, nhưng không phải vì thế mà tâm hồn nhà thơ quên rung cảm trước vẻ đẹp của một đêm trăng sáng, một tiêng suối trong, hay cảnh trời nước bao la dưới trăng rằm tháng giêng. Phong thái ung dung còn thể hiện ở con thuyền của vị lãnh tụ sau lúc bàn bạc việc quân trở về, lướt đi phơi phới chở đầy ánh trăng. Tác giả sử dụng thể thất ngôn tứ tuyệt rất nhuần nhị, tạo cảnh thiên nhiên tươi đẹp với ánh trăng lộng lẫy, tràn đầy sắc xuân. Thể thơ thất ngôn hàm súc, lời ít ý nhiều, tạo sức gợi của ngôn từ, hình ảnh. Nhà thơ đã có sự kết hợp miêu tả và biểu cảm, vừa mang màu sắc cổ điển và hiện đại. – Nghệ thuật Bài thơ là sự kết hợp hài hòa phong cách cổ điển và hiện đại. Những thi liệu cổ điển của bài thơ như con thuyền, vầng trăng, sông xuân, trời xuân, khói sóng,… đã tạo nên không khí thưởng ngoạn của các tao nhân mặc khách. Không gian núi rừng tĩnh lặng, không có rượu và hoa để thưởng trăng, không đàm đạo thơ phú mà “đàm quân sự”. * Ý nghĩa a. Cảnh khuya Qua bài thơ, chúng ta thấy chân dung nhà thơ – chiến sĩ, người nghệ sĩ say đắm cảnh trời, nhạy bén, tinh tế nhưng vẫn đau đáu một lòng với đất nước, với thời đại. b. Rằm tháng giêng Bài thơ như một đoá hoa đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức Hồ Chí Minh. Hình ảnh con thuyền của vị lãnh tụ lướt đi phơi phới chở đầy ánh trăng rất lãng mạn, thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ trong con người chiến sĩ. Qua đó, Bác cũng thể hiện sự rung cảm tinh tế và phong thái ung dung, lạc quan, yêu đời trong kháng chiến gian khổ… P/s: Tham khảo

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Lớp 7 Cực Hay

Bác Hồ có rất nhiều tác phẩm đặc sắc trong đó phải kể đến bài thơ Rằm tháng giêng, hãy phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng tôi có 2 bài văn mẫu bài nào cũng hay và hữu ích cho các bạn.

Cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng

Bài văn cảm nghĩ số 1

Chủ đề ánh trăng luôn được các thi sĩ khai thác sử dụng trong tác phẩm của mình, Bác Hồ cũng nằm trong số đó, bài thơ Rằm tháng giêng hay còn gọi là Nguyên tiêu là một tác phẩm giá trị mang tính lịch sử của nước nhà.

Rằm tháng Giêng bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt, khi Bác ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở một cuộc họp tình hình quân sự khi kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Tan cuộc họp quan trọng cũng là lúc đêm đã khuya, cảm hứng từ thiên nhiên, sông núi bác đã làm bài thơ thất ngôn tứ tuyệt chữ Hán, có tựa đề là Nguyên tiêu. Sau này, tác phẩm được nhà thơ Xuân Thủy đã dịch bài thơ theo thể thơ lục bát mang tên là Rằm tháng Giêng.

Hai câu đầu chính là khung cảnh thiên nhiên núi rừng thật đẹp:

“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”

Đêm trăng rằm thật đẹp, ánh trăng chiếu rọi khắp núi rừng, có cảm tưởng như sông nước tiếp liền với bầu trời, vạn vật như tràn đầy sức sống của mùa xuân,điệp từ xuân trong bài đoạn thơ lặp lại nhiều lần với mục đích diễn tả cả trời đất và con người đều vui khi xuân về.

“Giữa dòng bàn bạc việc quân,

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Công việc bàn bạc việc quân tuy vất vả khó khăn là vậy nhưng cảm xúc, cảm hứng trong lòng thi sĩ vẫn đong đầy, buổi họp kéo dài và kết thúc cũng là lúc trăng rằm lên cao tròn vành vạnh. Cảnh sông cảnh nước thơ mộng. Con thuyền chờ Bác đi trong đêm tưởng tưởng như chở đầy ắp ánh trăng. Tâm trạng Bác lúc này cũng vui theo đất trời và dâng trào một niềm vui, niềm tin vào thắng lợi Cách mạng. Hình ảnh con thuyền chở đầy ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông là một hình ảnh lãng mạn thể hiện sự lạc quan, vui vẻ tạo ra hình tượng nghệ thuật rất độc đáo.

Với tâm hồn của người thi sĩ yêu và gắn bó với thiên nhiên, kết hợp với sự cảm nhận tinh tế, ngòi bút tả cảnh mang lại bức tranh thiên nhiên sống động đầy màu sắc. Bác Hồ khắc họa vẻ đẹp hình ảnh mùa xuân đang về đồng thời thể hiện sự lạc quan và phong thái ung dung đỉnh đạt.

” Cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya

Bài văn cảm nghĩ số 2

Hồ Chí Minh không chỉ là một vĩ lãnh tụ vĩ đại mà còn là một hồn thơ tài hoa. Bác đã để lại cho kho tàng văn học nước nhà một sự nghiệp đồ sộ. Một trong những tác phẩm đặc sắc đó chính là bài thơ ” Rằm tháng giêng”. Bài thơ được viết trong những năm chiến dịch thu đông máu lửa năm 1948 . Với 4 câu thơ mộc mạc giản dị đã dựng nên bức tranh thiên nhiên và con người hữu tình, tuyệt đẹp.

Mở đầu bài thơ tác giả vẽ ra một không gian bao la, bát ngát:

” Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”

Dịch nghĩa:

” Rằm xuân lồng lộng trăng soi”

Ánh trăng rằm xuân tròn vành đang chiếu tỏa xuống không gian. Từ láy ” lồng lộng” khéo léo được đảo lên đầu câu cho ta liên tưởng đến vẻ đẹp độc đáo của ánh trăng rằm. Trăng như đang ngự trên nền trời xanh rọi ánh sáng bao la tắm táp cho cảnh vật. ” lồng lộng” không chỉ đặc tô hình ảnh mà còn cho ta cảm nhận được âm thanh vi vu, nhè nhẹ của tiếng gió thổi. Bầu trời như được đẩy lên cao hơn, rộng hơn. Trăng thanh gió mát- Một cảnh tượng thật đẹp và sống động.

Nổi bật trên cái nền xanh thẳm bát ngát ấy là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ:

” Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân’

Non nước trời xuân được nối liền, hòa với nhau dưới ánh trăng soi, điểm tô, nâng đỡ sóng sánh cùng với nhau. Điệp từ ” xuân” được lặp lại 3 lần trong một câu thơ như gợi ra cái khí xuân, tình xuân, sức xuân đang căng tràn, nồng nàn trong lồng ngực thi nhân, trong không gian tạo hóa. Một khung cảnh tươi sáng, rạo rực đắm say như đang mở ra trước mắt. Cảnh vật không tĩnh mà động, nhạc họa đan xen, giàu sức gợi vô cùng. Hai câu thơ vừa mang cái nét cổ điện: mượn hình ảnh thơ quen thuộc: trăng lại vừa có cả nét hiện đại tài hoa: điệp từ; đảo ngữ,. Tất cả đa vẽ nên một bức tranh hữu tình, tuyệt đẹp, nồng nàn hơi thở của đất trời vào xuân.

Trong bức tranh thiên nhiên ấy tác giả vẫn không quên chấm vẽ vài nét hình ảnh con người:

” Giữa dòng bàn bạc việc quân”

Để đảm bảo an toàn và bí mật những người lính cách mạng phải bàn việc quân ở nơi sâu thẳm mịt mờ khói sóng và vào thời điểm giữa đêm khuya. Câu thơ vừa là hình ảnh tả thực về những khó khăn gian khổ cách mạng lại vừa cho ta thấy được tinh thần lạc quan cách mạng của Bác, dù công việc bộn bề nhưng Bác vẫn luôn hứng thú và dành cho thiên nhiên một tình cảm thiết tha. Bác như hòa cũng thiên nhiên, quên đi những gian nan gập ghềnh để đắm mình trọn vẹn để tận hưởng, cảm nhận. Phải chăng đó còn là biểu hiện cho khí thế cách mạng sục sôi, cho quyết tâm sớm ngày hòa bình của dân tộc.

Để khép lại bài thơ hữu tình của mình, Bác đã dùng hình ảnh chiếc thuyền thay lời bày tỏ:

” Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Khuya là chỉ những điều tăm tối, mịt mù, là hình ảnh ẩn dụ chỉ những chông gai cách mạng. “ngân” gợi ra vẻ đẹp lung linh, lan tỏa. Hình ảnh chiếc thuyền ở đây phải chăng là ám chỉ con thuyền cách mạng. Ý của cả câu thơ muốn nhắn đên: Dù biết bao khó khăn cản đường, nhưng giữa giông tố , con thuyền cách mạng vẫn sáng soi, báo hiệu cho ngày chiến thắng không còn xa. Lí tưởng cách mạng rồi sẽ đi đến thắng lợi hoàn toàn. Một hình ảnh thơ đầy thi vị nhưng lại thể hiện niềm tin, quyết tâm vô cùng lớn của người chiến sĩ cộng sản.

Với bốn câu thơ thất ngôn tứ tuyệt kết hợp với nghệ thuật đản ngữ, chuyển đổi cảm giác, khéo léo sử dụng các từ ngữ giàu tính biểu đạt, Hồ Chí Minh đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên cảnh rằm ngày xuân thật đẹp, thật hữu tình. Bức tranh vừa là biểu tượng cho tình yêu thiên nhiên đắm say vừa thể hiện lí tưởng yêu nước thương dân lớn lao của Hồ Chủ Tịch. Cho dù những năm tháng đã đi qua nhưng những vần thơ bất hủ ấy sẽ sống mãi trong lòng mỗi người con đất Việt thân yêu và trở thành niềm tự hào dân tộc bất tử.

Với 2 bài cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng chi tiết, đầy đủ thông tin sẽ là gợi ý thiết thực để viết văn .

4 Bài Văn Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Của Hồ Chí Minh

Rằm tháng Giêng là một trong những bài thơ viết về ánh trăng hay nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài văn mẫu cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng sẽ cùng các em tìm hiểu chi tiết về những đặc sắc nội dung, nghệ thuật cũng như cảm quan thẩm mĩ của Bác được thể hiện qua bài thơ này.

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng

4 bài Cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng

I. Dàn ý Cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng (Chuẩn)

1. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về bài thơ “Rằm tháng Giêng”– Cảm nhận chung về giá trị của bài thơ

2. Thân bài

a. Bài thơ “Rằm tháng Giêng” khắc họa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong đêm trăng mùa xuân

– Bức tranh trong đêm trăng được diễn tả qua những nét vẽ gợi hình về thiên nhiên tạo vật.– Tác giả đã sử dụng từ “lồng lộng” để miêu tả ánh trăng bao trùm và chiếu rọi khắp không gian, tạo nên cách cảm nhận độc đáo: “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân”.– Bức tranh thiên nhiên tràn ngập sức xuân và sắc xuân: sông xuân, nước xuân, trời xuân cùng giao hòa, mở ra ý niệm độc đáo về niềm tin và sức sống.

b. Bài thơ “Rằm tháng Giêng” thể hiện tình yêu thiên nhiên cùng niềm lạc quan cách mạng của người chiến sĩ cách mạng

– “Thưởng trăng” và “bàn bạc việc quân” cùng song hành quyện hòa gợi lên mối quan hệ giữa thiên nhiên và non sông đất nước.– Ánh trăng soi chiếu tạo nên cách cảm nhận “trăng ngân đầy thuyền”, thể hiện niềm tin tưởng, hi vọng vào chiến thắng của cách mạng.– Con thuyền tràn ngập ánh trăng đã thể hiện chất thi sĩ và chiến sĩ trong tâm hồn nhân vật trữ tình.

3. Kết bài

Khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

II. Bài văn mẫu Cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng

1. Cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng, mẫu số 1 (Chuẩn):

“Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹpMây. gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”

(Cảm nghĩ đọc “Thiên gia thi” – Hồ Chí Minh)

Trong thơ ca xưa, “trăng” luôn là một trong những thi liệu gần gũi, quen thuộc để người nghệ sĩ thể hiện tâm hồn đồng điệu, giao cảm với thiên nhiên. Bởi vậy, trong những sáng tác của Bác, “trăng” luôn là nguồn cảm hứng bất tận tạo nên vẻ đẹp thi sĩ quyện hòa chất chiến sĩ trong tâm hồn của chủ thể trữ tình. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua thi phẩm “Rằm tháng giêng”. Qua bài thơ, độc giả có thể thấy được tình yêu thiên nhiên quyện hòa cùng tình yêu non sông, đất nước, niềm tin vào chiến thắng của dân tộc trong mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình.

Bài thơ “Rằm tháng Giêng” ra đời vào năm 1947, gắn với cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự, kháng chiến, cách mạng của Trung ương Đảng và Chính phủ. Theo nguyên tác, bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt với tựa đề “Nguyên tiêu”:

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,Xuân sang xuân thủy tiếp xuân thiên.Yên ba thâm xứ đàm quân sự,Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”

Bài thơ được nhà thơ Xuân Thủy dịch nghĩa và chuyển hóa thành thể thơ lục bát:

“Rằm xuân lồng lộng trăng soiSông xuân nước lẫn màu trời thêm xuânGiữa dòng bàn bạc việc quânKhuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.​”

Mở đầu bài thơ, tác giả đã phác họa bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp qua ánh trăng lung linh, huyền ảo:

“Rằm xuân lồng lộng trăng soiSông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”

Bức tranh trong đêm trăng được diễn tả qua những nét vẽ gợi hình về thiên nhiên tạo vật. Tác giả đã sử dụng từ “lồng lộng” để miêu tả ánh trong trong đêm “Rằm tháng giêng” với vẻ đẹp tròn đầy cùng ánh sáng ấm áp bao trùm và chiếu rọi khắp không gian, tạo nên cách cảm nhận độc đáo: “Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân”. Ánh trăng lan tỏa soi chiếu theo chiều kích không gian từ cao xuống thấp tạo nên một bức tranh tràn ngập sức xuân và sắc xuân: sông xuân, nước xuân, trời xuân cùng giao hòa, mở ra ý niệm độc đáo về niềm tin và sức sống. Trên bối cảnh thiên nhiên tươi đẹp đó, hình ảnh người chiến sĩ cách mạng xuất hiện:

“Giữa dòng bàn bạc việc quânKhuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Hai câu thơ gợi lên sự giao hòa đồng điệu giữa thiên nhiên và con người. Trước vẻ đẹp của trăng nước, nhân vật trữ tình vẫn không quên đi nhiệm vụ “đàm quân sự”. “Thưởng trăng” và “bàn bạc việc quân” cùng song hành quyện hòa gợi lên mối quan hệ giữa thiên nhiên và non sông đất nước, đồng thời thể hiện niềm tin tưởng, hi vọng vào chiến thắng của cách mạng và sự nghiệp giải phóng dân tộc. Con thuyền tràn ngập ánh trăng đã thể hiện chất thi sĩ và chiến sĩ trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Từ đó, độc giả có thể thấy được vẻ đẹp lạc quan cách mạng cùng tình yêu thiên nhiên của tác giả.

Như vậy, bài thơ “Rằm tháng Giêng” đã tái hiện thành công bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong đêm trăng với vẻ đẹp lung linh huyền ảo và ngập tràn sức sống. Đồng thời, bài thơ còn là bức chân dung tự họa thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, phong thái ung dung và tình yêu thiên nhiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng là một nội dung, bài học hay. Sau phần học này chúng ta tiếp tục chuẩn bị trả lời câu hỏi, Soạn bài Cảnh khuya, Rằm tháng giêng cùng với phần Phân tích bài thơ Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng) để học tốt môn Ngữ Văn hơn.

2. Cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng, mẫu số 2:

Rằm tháng Giêng năm 1948, trên chiếc thuyền neo đậu giữa một dòng sông ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Cuộc họp tan thì đêm đã khuya. Trăng rằm tỏa sáng khắp mặt đất bao la. Cảnh sông núi trong đêm càng trở nên đẹp đẽ và thơ mộng. Cảm hứng dâng cao, Bác đã ứng khẩu làm bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, tựa là Nguyên Tiêu:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,Xuân sang xuân thủy tiếp xuân thiên.Yên ba thâm xứ đàm quân sự,Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Sau đó, nhà thơ Xuân Thủy dịch bài thơ ra tiếng Việt dưới thể lục bát, với tên là Rằm tháng Giêng. Bản dịch giữ được gần hết ý thơ trong nguyên tác với nội dung thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước thiết tha của Bác Hồ.

Nếu trong bài Cảnh khuya, Bác tả cảnh trăng đẹp chốn rừng sâu thì ở bài này, Bác tả cảnh trăng trên sông nước:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.

Vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng bát ngát khắp bầu trời, mặt đất trong đêm Nguyên tiêu. Khung cảnh mênh mông, tưởng như sông nước tiếp liền với bầu trời: Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Vạn vật ăm ắp sức xuân: sông xuân, nước xuân và trời xuân nối tiếp, giao hòa, tạo nên một vũ trụ căng đầy sức sống, làm náo nức lòng người. Điệp từ xuân được lặp lại nhiều lần với ý tạo vật cùng lòng người đều phơi phới khí thế tươi vui.

Giữa dòng bàn bạc việc quân,Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Trên một chiếc thuyền thu nhỏ giữa chốn mịt mù khói sóng (yên ba thâm xứ), Bác cùng Chính phủ và Trung ương Đảng luận bàn việc quân, việc nước. Công việc trọng đại đến chừng nào, nhất là trong hoàn cảnh buổi đầu kháng chiến đầy thiếu thốn, gian khổ. Tuy vậy, gian khổ không làm vơi đi cảm xúc, thi hứng trong lòng Bác. Buổi họp kết thúc vào lúc nửa đêm. Trăng tròn vành vạnh treo giữa trời (nguyệt chính viên) đang tỏa sáng. Cảnh sông nước trong đêm lại càng thêm thơ mộng. Dòng sông trở thành dòng sông tẳng và con thuyền cũng dường như trở đầy ắp ánh tẳng (trăng ngân đầy thuyền). Trước đêm trăng đẹp, tâm hồn Bác lâng lâng. Bác thả hồn hòa nhập với thiên nhiên mà Bác vốn coi là một người bạn tri âm, tri kỉ. Trong lòng Bác dâng trào một niềm vui, niềm tin vào thắng lợi của Cách mạng, của kháng chiến. Hình ảnh con thuyền trở đầy ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng là một hình ảnh lãng mạn có ya nghĩa tượng trưng sâu sắc. Phải có một phong thái ung dung tự tại vfa niềm lạc quan mãnh liệt vào tương lai thì nhà thơ mới sáng tạo ra được hình tượng nghệ thuật độc đáo trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.

Bài thơ Rằm tháng Giêng với âm hưởng khỏe khoắn, tươi vui đã đem lại cho người đọc cảm xúc thanh cao, trong sáng. Bài thơ là dẫn chứng tiêu biểu chứng minh BácHồ vừa là một lãnh tụ cách mạng tài ba, vừa là một nghệ sĩ có trái tim vô cùng nhạy cảm.

3. Cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng, mẫu số 3:

“Nguyên tiêu” nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: “Nguyên tiêu”, “Báo Tiệp”, “Thu dạ”,…Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông năm 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến hậu phương. Trong không khi sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ “Nguyên tiêu” của Bác Hồ xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như một đoá hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thuỷ đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tắc bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt:

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;Yên ba thâm xứ đàm quân sự,Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền”.

Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm vui dào đạt trong tâm hồn lãnh tụ đêm nguyên tiêu lịch sử.

Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”. Màu xanh ngọc bích của “xuân thuỷ” tiếp nối với màu xanh thanh thiên của “xuân thiên”. Ba từ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần” của cảnh vật sông, nước và bầu trời.

“Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên”.(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)

“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả mùa xuân, của sông nước, đất trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dạt dào một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.

Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp đêm nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Có “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hoá núi ghé nghiên soi”; yêu ngọn núi, chim rừng báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc điệu trữ tình và màu sắc cổ điển.

Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:

“Yêu ba thâm xứ đàm quân sự,Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.

Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này là (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hy vọng, bao tình cảm nồng hậu. Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”, … mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la! Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác vận dụng rất sáng tạo làm hco bài thơ “Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Ba chữ đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho vần thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.

Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền của vị thống soái, con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng của thi nhân nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:

“Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền”.(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền).

“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình, nó làm ta nhớ đến nhưng vần thơ hoa lệ:

“Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?Trăng nước như xưa chín với mười”.

(Triệu Hỗ – Đường thi)

“Thuyền mấy là đông, tây lặng ngắt,Một vầng trăng trong vắt lòng sông…”

(Bạch Cư Dị)

“Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”

(Nguyễn Trãi)

.v.v….

Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy trời của đất nước quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác giàu tình yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.

Qua bài thơ “Nguyên tiêu”, ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.

“Nguyên tiêu” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh… Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thưởng trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”. Bài thơ như một đoá hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh.

Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người đến với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt…” nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung. Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp.

“Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng tuyệt tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận…

4. Cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng, mẫu số 4:

Bác Hồ kính yêu của chúng ta không chỉ là một vị lãnh tụ tuyệt vời, không chỉ là nhà quân sự tài ba, không chỉ là vị cha già của dân tộc. Mà Bác còn là một người nghệ sĩ tài năng. Một tâm hồn yêu văn chương nghệ thuật, mặc dù Bác từng nói:

“Ngâm thơ ta vốn không ham”. Đó là một hồn thơ yêu thiên nhiên, yêu đát trời vạn vật. Qua bài “Nguyên tiêu” – “Rằm tháng giêng” ta sẽ hiểu rõ hơn điều ấy.

Bài thơ nguyên âm được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt đường luật chữ Hán, được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1948. Bài thơ là những cảm nhận của nhân vật trữ tình về thiên nhiên đất trời ngày rằm tháng giêng, đúng như những gì mà nhan đề tác giả đặt

Mở đầu bài thơ là hai câu thiên miêu tả bức tranh cảnh đêm rằm tháng giêng.

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viênXuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên”

Dịch:

“Rằm xuân lồng lộng ánh trăng soiSông xuân tiếp lẫn màu trời thêm xuân”

Một khung cảnh đêm xuân thi vị mở ra trước mắt. Trên cao là bầu trời đêm xuân, cao và trong với ánh trăng vàng “lồng lộng”, thu tầm mắt nhìn xuống là dòng sông xuân trong vắt in bóng bầu trời. Đảo lát từ tượng hình “lồng lộng” nhấn mạnh vẻ đẹp rạng rỡ của ánh trăng vàng lung linh huyền diệu. Dường như ánh trăng ấy là đường nối giữa mặt sông và bầu trời. Chỉ một từ “tiếp” mà làm sáng bừng cả câu thơ. Câu thơ như sống động hẳn, có hồn hơn. Mùa xuân và ánh trăng bao trùm lên cả bầu trời và dòng sông. Dòng sông và bầu trời như nối liền với nhau. Tác giả có sự liên tưởng thật độc đáo từ một sự thực, tác giả có những tưởng tượng thật đẹp đẽ về thiên nhiên. Không gian dài hơn, rộng hơn, cao hơn và tràn đầy sức sống. Từ đó ta cảm nhận được tâm hồn của thi nhân đang hoà cùng cảnh sắc đất trời, sông nước mùa xuân với một tình yêu tha thiết, nồng nàn.

Trên nền bức tranh thiên nhiên đêm rằm tháng giêng, con người xuất hiện thật thi vị.

“Yên ba thâm xứ đàm quân sự,Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”

Dịch:

“Giữa dòng bàn bạc việc quân,Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”

Bằng biện pháp điệp từ; với những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, ngôn từ giàu nhạc điệu, gợi cảm cùng phong cách thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp miêu tả và biểu cảm, Hồ Chí Minh đã khắc hoạ lại bức tranh trăng trên sông nước bát ngát, tràn đầy sắc xuân. Qua đó ta thấy được tâm hồn rộng mở trước thiên nhiên và phong thái ung dung, lạc quan của người chiến sĩ, người thi sĩ để chất chiến sĩ hoà vào chất thi sĩ.

Trong chương trình học Ngữ Văn 7 phần Soạn bài Chơi chữ là một nội dung quan trọng các em cần chú ý chuẩn bị trước.

Ngoài nội dung ở trên, các em có thể tìm hiểu thêm phần Soạn bài Mùa xuân của tôi nhằm chuẩn bị cho bài học này.

https://thuthuat.taimienphi.vn/cam-nhan-cua-em-ve-bai-tho-ram-thang-gieng-41157n.aspx