Top 12 # Biện Pháp Phòng Tránh Bệnh Sán Lá Gan Cho Trâu Bò Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Các Biện Pháp Phòng Trị Bệnh Sán Lá Gan Cho Trâu, Bò

Ngày đăng: 2016-04-05 07:44:58

Bệnh sán lá gan là một bệnh rất phổ biến ở trâu, bò, gây nhiều tác hại đến sức khoẻ cho bò như: làm xơ gan, viêm túi mật, giảm năng suất thịt, sữa và mất dần khả năng cày kéo,… gây thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi và còn là trung gian truyền bệnh sán lá gan cho người.

Nguyên nhân của bệnh sán lá gan cho trâu, bò

Bệnh gây ra do sán lá ký sinh trong ống dẫn mật của gan và túi mật. Sán trưởng thành có màu hồng, dài khoảng 3-7cm có thể có từ vài chục đến vài trăm sán lá ký sinh trong gan, mật của một con trâu, bò và đẻ trứng. Trứng theo nước mật xuống ruột, rồi theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi (nhiệt độ 15-300C, có nước) nở thành mao ấu. Mao ấu chui vào ốc ký chủ trung gian phát triển thành vĩ ấu. Vĩ ấu ra khỏi ốc, rụng đuôi thành kén. Giai đoạn này kéo dài khoảng 90-102 ngày ở ngoài tự nhiên. Kén trôi nổi trong nước, bám vào cây cỏ thuỷ sinh. Trâu, bò ăn cỏ thuỷ sinh hoặc uống nước có kén, kén vào cơ thể phát triển thành ấu trùng ở ruột, rồi theo ống dẫn mật về gan và phát triển thành sán trưởng thành với thời gian kéo dài khoảng 90-115 ngày.

Triệu chứng của bệnh sán lá gan cho trâu, bò

Sán gây ra 3 tác hại: – Di chuyển trong ống mật và gan, gây viêm xơ tổ chức này. – Sán ăn hồng cầu và lấy chất dinh dưỡng từ gan, mật làm trâu, bò gầy yếu, thiếu máu, giảm sức cày kéo. – Sán tiết độc tố gây viêm ruột kéo dài. Trâu, bò bệnh thể hiện ỉa chảy dai dẳng từng đợt dẫn đến gầy yếu, giảm tăng trọng và mất dần khả năng cày kéo. Nếu ỉa chảy nặng, trâu, bò có thể chết do kiệt sức.

Bệnh tích

Mổ khám trâu, bò bệnh, thấy gan, ống dẫn mật và túi mật bị xơ hoá và có sán lá trong ống dẫn mật và gan. Phát hiện bệnh: Kiểm tra phân dưới kính hiển vi để tìm trứng sán. Mổ khám trâu, bò bệnh tìm sán trong gan và túi mật.

Điều trị bệnh sán lá gan cho trâu, bò

Điều trị bằng 1 trong 2 hoá dược sau: – Handertil B: (Fasinex) dùng liều 10 mg/kg thể trọng. Cho uống trực tiếp hoặc trộn với thức ăn. – Tolzan F: (Oxyclozanide) dùng liều 10mg/kg thể trọng. Cho uống trực tiếp hoặc trộn với thức ăn.

Phòng bệnh sán lá gan cho trâu, bò

Định kỳ lấy mẫu phân đưa đến trạm thú y huyện hoặc chi cục thú y để kiểm tra phát hiện trâu, bò nhiễm sán để tẩy trừ. Ủ phân diệt trứng sán. Nuôi vịt, thả cá để diệt ốc ký chủ trung gian truyền bệnh.

TIN TỨC KHÁC :

Bệnh Sán Lá Gan Ở Trâu Bò

là một trong những bệnh do kí sinh trùng gây ra và là một trong những bệnh thường gặp ở trâu bò. Bệnh sán lá gan Bệnh sán lá gan có nguy hiểm không? Tuy bệnh này có tỉ lệ tử vong không cao, nhưng làm vật nuôi suy kiệt, gầy rộc, cho năng suất và chất lượng kém, gây thiệt hại lớn trong chăn nuôi. Cùng chúng tôi tìm hiểu nguyên nhân, triệu chứng, cách phòng, điều trị

Tổng hợp trọn bộ thông tin về bệnh sán lá gan ở trâu bò

Nguyên nhân b ệnh sán lá gan ở trâu bò

Do tập quán chăn nuôi bán quảng canh, tận dụng nguồn thức ăn của tự nhiên là nguyên nhân bị bệnh sán lá gan ở trâu bò. Bào ấu khi vào ao hồ, thường nổi trên mặt nước và bám vào thân cỏ hoặc các cây thủy sinh được thu lượm làm thức ăn cho trâu bò hoặc vật nuôi uống nước ao hồ sẽ khiến bào ấu chui vào trong cơ thể trâu bò, phát triển thành sán lá gan con và đi ngược theo ống dẫn mật kí sinh tại mật và gan. Sán lá gan con mất 3 tháng để phát triển thành sán lá gan trưởng thành.

Biểu hiện bệnh sán lá gan

: Thời kì thứ 2 bệnh sán lá gan ở trâu bò khiến vật nuôi thiếu máu, cơ thể gầy đi, hay khát nước, sốt nhẹ và thùy thũng nhẹ ở phúc mạc. Mắt hơi sưng kết mạc và có màu nhợt nhạt, mí mắt bị phù

: vật nuôi gầy rạc hẳn đi, trong trường hợp trâu bò mang thai sẽ rất dễ bị xảy hoặc đẻ non làm bê, nghé nhẹ cân, yếu ớt. Ngoài ra, bệnh sán lá gan còn khiến trâu bò chán ăn, bỏ ăn, tiêu hóa kém và ỉa chảy, xuất hiện thùy thũng dưới hàm

Thời gian bệnh tiến triển không cố định tùy vào sức khỏe của vật nuôi, nhưng thường kéo dài không quá 6 tháng. Trâu bò thường chết do thiếu máu, kiệt sức, không có biểu hiện đau đớn và co giật

Cách nhận biết bệnh sán lá gan

Chẩn đoán lâm sàng: do các dấu hiệu nhận biết bệnh sán lá gan không rõ ràng và điển hình nên việc chẩn đoán lâm sàng gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên: nếu theo thời gian, trâu bò xuất hiện các biểu hiện sau: thiếu máu đi kèm biểu hiện thờ ơ, ăn ít và không ngon miệng, gầy dần đi, da hơi vàng nhợt, xuất hiện ỉa chảy và nếu trầm trọng sẽ phù thũng, làm gia súc kiệt quệ dần. Nếu sờ vào sườn bên phải (gần gan) thấy vật nuôi có cảm giác đau đớn rõ rệt thì có thể suy đoán vật nuôi mắc bệnh sán lá gan.

Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm: dựa vào các xét nghiệm mẫu phân và xét nghiệm huyết thanh để kết luận bệnh sán lá gan ở trâu bò

Cách phòng bệnh sán lá gan cho trâu bò

Bệnh sán lá gan và cách điều trị

Sử dụng các loại thuốc chứa bithionol và bithionol-sulphoxide, oxyclozanide, rafoxanide, nitroxynil, diamphenetide… có tác dụng tiêu diệt sán lá gan trưởng thành và ức chế sán lá gan con.

Một trong những loại thuốc thường được sử dụng để điều trị đặc hiệu bệnh sán lá gan ở trâu bò bao gồm:

Phòng Tránh Bệnh Sán Lá Gan Nhỏ Ở Chó

Phòng tránh bệnh sán lá gan nhỏ ở chó

Định kì tẩy giun sán cho chó.

Tránh cho chó ăn cá sống, tránh thả rông chó để ngăn cản mầm bệnh tiếp xúc với vật chủ trung gian.

Khuyến cáo người dân không nên ăn gỏi cá, và các loại thực phẩm chế biến từ cua cá nấu chưa chín.

Những địa phương có lưu hành bệnh cần có các biện pháp quản lý cũng như tuyên truyền cho cộng đồng từ việc nuôi cá (như không thả phân tươi xuống ao) đến việc chế biến các loại thực phẩm từ cá. Bệnh sán lá gan nhỏ nếu được chẩn đoán sớm, các biện pháp điều trị thường mang lại hiệu quả cao. Và hạn chế được nhiều biến chứng nguy hiểm.

Biểu hiện bệnh sán lá gan nhỏ ở chó

Như đã nêu trong bài viết trước, biểu hiện lâm sàng của phụ thuộc nhiều vào cường độ nhiễm và phản ứng của vật chủ. Trong trường hợp nhiễm ít có khi không có triệu chứng gì đặc biệt.

Giai đoạn khởi phát, chó bị mắc bệnh sán lá gan nhỏ thường bắt đầu với các biểu hiện của rối loạn dạ dày ruột như chán ăn.

Ngoài ra còn có tình trạng ăn không tiêu, đau âm ỉ vùng gan, tiêu chảy hoặc táo bón thất thường. Kèm theo có thể thấy toàn thân phát ban, nổi mẩn.

Giai đoạn sau, chó thường đau vùng gan nhiều hơn. Kèm theo thiếu máu, vàng da và cổ trướng có thể xuất hiện ở giai đoạn muộn. Nếu có bội nhiễm do vi khuẩn, chó có thể sốt thành từng cơn hoặc sốt kéo dài.

Sán lá gan nhỏ xuất hiện từ đâu?

là loại ký sinh trùng có chu kỳ phức tạp bao gồm cả người và vật chủ trung gian (như ốc, cá…). Cách tốt nhất để ngăn chặn sự lan truyền bệnh là phá vỡ ít nhất một khâu trong vòng đời của sán.

Sán trưởng thành kí sinh và đẻ trứng trong ống mật. Trứng theo phân ra ngoài môi trường gặp điều kiện thuận lợi. Trứng nở thành ấu trùng lông và xâm nhập vào ốc nước ngọt để phát triển thành vĩ ấu (cercariae).

Vĩ ấu xâm nhập vào cá nước ngọt phát triển thành nang ấu ( metacercariae) kí sinh trong cơ của cá. Động vật ăn thịt và người ăn cá có chứa nang ấu. Sau 25 giờ nang ấu di chuyển xuống ruột non, vào gan và phát triển thành dạng trưởng thành.

Bệnh sán lá gan nhỏ: vật chủ chính là người và một số động vật như chó, mèo, hổ báo, cáo chồn, rái cá, chuột. Vật chủ trung gian truyền bệnh là các loài ốc Bythinia, Melania…

Thời gian ủ bệnh của sán lá gan nhỏ không rõ ràng và phụ thuộc vào cường độ nhiễm sán. Thường nhiễm trên 100 sán triệu chứng mới rõ rệt.

Những con số đáng sợ về bệnh sán lá gan nhỏ

Bệnh sán lá gan nhỏ hân bố rộng khắp trên thế giới. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có khoảng 3 triệu người ở các nước Thái Lan, Lào, Cămpuchia, miền Nam Việt Nam nhiễm sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini.

Trên 19 triệu người ở các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, và Bắc Việt Nam nhiễm Clonorchis sinensis.

Riêng ở Việt Nam, đã xác định phân bố ít nhất ở 21 tỉnh/thành phố miền Bắc (Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Hòa Bình, Hà Giang, Thanh Hóa, Nghệ An); miền Trung (Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông).

Tỷ lệ nhiễm tùy theo từng vùng, có nơi nhiễm cao từ 15-37% như Ninh Bình, Nam Định, Phú Yên và Bình Định.

Xin chân thành cảm ơn!

Để được hỗ trợ trực tiếp miễn phí 100% phí từ PetHealth, Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ:Phòng chăm sóc khách hàng

Phòng, Trị Bệnh Sán Lá Gan Ở Gia Súc

Nguyên nhân

Bệnh do 2 loài sán có tên là Fasciolagigantica và Fasciola heptica gây ra, chúng ký sinh ở gan, mật và tác động xấu đến vật nuôi.

Vòng đời của sán lá gan đi qua hai loại ký chủ là động vật máu nóng như trâu, bò, dê… và ký chủ trung gian là các loài ốc nước ngọt (lymnae). Sán trưởng thành thải trứng qua phân, dưới điều kiện thích hợp của môi trường (nhiệt độ, ẩm độ) trứng phát triển thành ấu trùng (gọi là miracidium). Miracidium sẽ chui vào ốc ký chủ trung gian là các loài ốc lymnae và sinh sản trong ốc sau đó ra khỏi ốc, bơi lội trong nước và bám vào các cây thủy sinh hình thành kén bao bọc bên ngoài. Gia súc, người ăn phải rau, cỏ dính kén vào đường tiêu hóa sẽ chui qua vách ruột non vào xoang bụng, xâm nhập vào gan và sống ở gan trong 6 – 7 tuần trước khi phát triển thành sán lá trưởng thành ký sinh trong ống dẫn mật. Chu kỳ kéo dài 3 – 4 tháng từ lúc trâu bò ăn phải kén đến khi sán lá gan trưởng thành. Một sán lá trưởng thành có thể sống trong ống dẫn mật của gan khoảng 3 – 11 năm.

Đặc điểm dịch tễ

Bệnh xảy ra ở tất cả các loài nhai lại, kể cả người. Trâu bò bị nhiễm bệnh nặng hơn và ở mọi lứa tuổi đều bị. Tỷ lệ trâu, bò nhiễm bệnh ở miền núi khoảng 30 – 35 %, vùng đồng bằng khoảng 40 – 70 %.

Bê, nghé non bị bội nhiễm sẽ phát bệnh ở thể cấp tính. Với điều kiện khí hậu ở nước ta, bệnh có thể xảy ra quanh năm. Bởi, thời tiết ấm áp và ẩm ướt trên mặt đất làm cho ốc ký chủ phát triển mạnh, từ đó làm vật trung gian truyền ấu trùng sán cho gia súc. Hầu hết tất cả các trâu bò nhập nội đều mắc bệnh sán lá gan, kể cả bò sữa. Trâu bò nhiễm sán khi gặp điều kiện không thuận lợi vào vụ đông và đầu vụ xuân (làm việc nặng, thời tiết lạnh, thiếu thức ăn xanh) sẽ phát bệnh hàng loạt dẫn đến chết, vì thế mà người nuôi thường nhầm lẫn là bệnh truyền nhiễm.

Triệu chứng

Thể mãn tính: Gia súc bị bệnh có cơ thể gầy còm, suy nhược, thiếu máu, bị tiêu chảy kéo dài làm cho chúng mất dần khả năng cày kéo và khả năng sinh sản.

Thể cấp tính: Gia súc bị bệnh bỏ ăn, sau đó tiêu chảy dữ dội, phân loãng màu xám, có mùi tanh. Sau vài ngày mắc bệnh, chúng yếu dần rồi nằm một chỗ, không đi được và chết do mất nước, kiệt sức. Thể bệnh này thường gặp ở bê, nghé dưới 6 tháng tuổi do bị nhiễm thứ phát các vi khuẩn gây bệnh có sẵn trong dạ dày và ruột như Salmonella, E.coli… Cũng có một số trường hợp, trâu, bò chết cấp tính mà không biểu hiệu triệu chứng gì bên ngoài.

Chẩn đoán

Chẩn đoán lâm sàng: Phương pháp này thường gặp khó khăn do các dấu hiệu thường không điển hình. Người nuôi có thể dựa vào một số triệu chứng như: Hiện tượng thiếu máu đi cùng với tính vô cảm, ăn kém ngon miệng, gầy, da hơi vàng; Xuất hiện ỉa chảy và cuối cùng, trong những trường hợp trầm trọng, phát triển phù thũng và gia súc yếu dần. Khi sờ vào sườn bên phải gây ra cảm giác đau rõ ràng.

Kiểm tra phân: Nhằm phát hiện những trứng đặc trưng của sán lá gan trong phân. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có tác dụng trong trường hợp gia súc bị bệnh ở thể mãn tính. Hơn nữa, việc sản sinh ra trứng ngắt quãng, không liên tục, tùy thuộc vào việc thải dịch từ túi mật và sinh học của ký sinh trùng. Vì vậy, nên lặp lại kiểm tra để chẩn đoán bệnh theo cách này và lấy mẫu đại diện một số gia súc trong cùng một đàn.

Kiểm tra huyết thanh học: Gần đây những kỹ thuật huyết thanh học đã được phát triển và áp dụng để chẩn đoán, nghiên cứu dịch tễ bệnh sán lá gan. Chủ yếu là xét nghiệm ELISA để phát hiện các kháng thể lưu hành. Phương pháp này giúp phát hiện được gia súc bị nhiễm bệnh trong thời kỳ trước khi sán trưởng thành, trước khi trứng được bài tiết ra và khả năng kiểm tra một số lượng mẫu lớn. Một số khó khăn của phương pháp này là chi phí, thiết bị cần thiết, thiếu độ mẫn cảm và sự tồn lưu kháng thể sau khi điều trị.

Chẩn đoán qua việc mổ khám: Sự có mặt của các sán lá gan trong ống mật, các tổn thương do các sán lá non di chuyển gây ra là những tổn thương đặc trưng của bệnh sán lá gan.

Điều trị

Một thời gian dài, người ta thường dùng những dẫn xuất hydrocarbon có halogen để điều trị bệnh sán lá gan. Tuy nhiên, những sản phẩm này tương đối độc hại và chúng chỉ tác động lên các sán lá trưởng thành. Để điều trị bệnh, người nuôi có thể tham khảo phác đồ điều trị sau:

Phác đồ 1: Sử dụng thuốc Detyl B với liều 6 – 8 mg/kg trọng lượng vật nuôi. Tốt nhất là cho trâu bò uống vào buổi sáng, uống xong có thể cho trâu, bò đi chăn thả bình thường.

Phác đồ 2: Dùng thuốc Benvet 600, 1 viên nén màu trắng dùng cho 60 kg trọng lượng. Cho uống vào buổi sáng sớm trước khi cho trâu, bò đi chăn thả.

Bên cạnh đó, cần kết hợp với thuốc bổ, vitamin, giải độc gan và chế độ dinh dưỡng tốt để gia súc nhanh hồi phục.

Phòng bệnh

Sử dụng các loại thuốc diệt sán lá gan: Định kỳ tẩy sán lá gan khoảng 2 – 3 lần/năm. Có thể sử dụng Vime – Fasci 6 tháng tiêm 1 lần hoặc Vime Ono, 4 tháng cho uống 1 lần. Bò sữa nên tẩy vào thời điểm khô sữa, trâu, bò kéo tẩy vào giai đoạn nghỉ làm việc, có thể sổ vào tháng 4 hoặc tháng 8 hàng năm.

Tác động lên ốc – ký chủ trung gian bằng cách sử dụng các loại thuốc diệt ốc, ở những bãi chăn sình lầy, cần có giải pháp thoát nước. Có thể tiến hành nuôi và bảo vệ các loài ăn ốc (như vịt) hoặc nuôi các loài ốc không phải là ký chủ trung gian của sán lá nhưng là loài cạnh tranh với những loài ký chủ trung gian. Để đạt được hiệu quả tốt nhất, cần kết hợp với các biện pháp khác.

Phòng bằng các biện pháp vệ sinh: Trước khi nhập gia súc mới phải kiểm tra phân, những vùng nhiễm nặng không chăn thả tự do. Giảm hoặc hạn chế tiếp xúc giữa bò với các bọc kén và giữa phân với ốc. Thực hiện tốt vệ sinh chuồng trại, thức ăn nước uống sạch sẽ. Cùng với đó, người nuôi cần có chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng thật tốt để nâng cao sức đề kháng cho trâu, bò.