Top 7 # Biện Pháp Quản Lý Giáo Dục Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Biện Pháp Quản Lý Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Ở Trường Mầm Non

Một số biện pháp quản lý chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục ở trường mầm non

Hình thành và vận động kĩ năng cơ bản ở trẻ. Giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ tiến hành theo các bước sau : Tập mẫu, cho một số trẻ tập thử, cả lớp tập. Giáo viên áp dụng các hình thức tổ chức: Cả lớp, nhóm, cá nhân tùy thuộc vào bài tập và khả năng của trẻ.

I. Phần mở đầu: Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nền tảng đầu tiên của ngành Giáo dục đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học tiếp theo. Giáo dục mầm non có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng nhầm giáo dục toàn diện cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở để hình thành nên nhân cách con người mới XHCN Việt Nam và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt. Như Bác Hồ kính yêu đã nói: “ Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt”. Trường mầm non có nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu, bồi dưỡng cho các cháu trở thành người công dân có ích. Vì vậy, trường mầm non có nhiệm vụ giáo dục trẻ có được những thói quen học tập, sinh hoạt hàng ngày. Muốn thực hiện được điều đó, trước hết người quản lý chỉ đạo phải toàn diện và về chuyên môn phải nhận thức đúng về nhiệm vụ, yêu cầu của ngành học, đồng thời nắm vững các chỉ tiêu, kế hoạch của Ngành học giao cho. Năm học 2014-2015 là năm học toàn ngành tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung; Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục; Không vi phạm đạo đức nhà giáo và học sinh không ngồi nhầm lớp; Và cuộc vận động học tập làm theo tấm gương, đạo đức Hồ Chí Minh. Tiếp tục thực hiện tốt việc chỉ đạo, nâng cao chất lượng giáo dục là nội dung hàng đầu trong năm học 2014-2015. Với trách nhiệm lớn lao của một người cán bộ quản lý, tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được tốt. Đây là nhiệm vụ quan trọng và cần phải có sự nỗ lực phấn đấu, quyết tâm cao. Cần phải chú trọng công tác chuyên môn, làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, công tác nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhằm duy trì và phát triển chất lượng giáo dục trong nhà trường ngày càng đi lên đáp ứng với yêu cầu sự nghiệp giáo dục mầm non trong thời đại hiện nay. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp quản lý chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục ở trường mầm non Quan Hoa”. Sáng kiến kinh nghiệm này sẽ có một số biện pháp tích cực là một trong những nội dung quan trọng để góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” của Bộ Giáo dục. II. Nội dung: 1. Cơ sở lý luận: Chất lượng giáo dục quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Có thể nói nhân cách con người trong tương lai như thế nào phụ thuộc lớn vào sự giáo dục của trẻ trong trường mầm non. Trường mầm non là ngôi nhà thứ hai của trẻ. Vì vậy cần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ toàn diện về Đức – Trí – Thể – Mỹ và lao động với nhiệm vụ là cán bộ quản lý của nhà trường, chỉ đạo hoạt động chuyên môn, việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện theo kế hoạch, chỉ đạo thực hiện kiểm tra, đánh giá sự phát triển về giáo dục của trẻ, phương pháp dạy của giáo viên, đánh giá, khảo sát chất lượng giáo dục, xây dựng kỷ cương, nề nếp trong nhà trường, phát huy tinh thần tự học, tự bồi dưỡng; Nâng cao năng lực sư phạm, chỉ đạo thực hiện giáo dục một cách khoa học nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục trẻ đáp ứng với yêu cầu đổi mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2. Cơ sở thực tiễn: Trong những năm qua, việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong trường mầm non Quan Hoa còn có nhiều hạn chế: Do trình độ, chuyên môn, tay nghề của giáo viên chưa đồng đều; Đa số giáo viên vừa học vừa làm. Bên cạnh đó phụ huynh thiếu quan tâm, chăm sóc giáo dục con, cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ chơi ngoài trời chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục (CSII). Vì vậy việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhằm thực hiện tốt chất lượng giáo dục phát triển, tiếp cận đổi mới giáo dục mầm non, phương pháp giáo dục trẻ một cách toàn diện góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung của Bộ Giáo dục và Đào tạo là cần thiết. 3. Thực trạng: 3.1.Đặc điểm tình hình : Từ năm học 2013 – 2014 cho đến nay trường mầm non Quan Hoa quản lý 2 cơ sở. Đặc điểm được thể hiện như sau: Năm học 2013 – 2014 Năm học 2014 – 2015 Ghi chú

Năm học 2014 – 2015 nhà trường được đầu tư đầy đủ các phương tiện, trang thiết bị hiện đại như: Máy chiếu, ti vi, đầu đĩa, đài, đàn, máy quay, máy ảnh kỹ thuật số…( CSI ) Với quyết tâm phấn đấu đạt trường tiên tiến, vì vậy ngoài việc mua sắm trang thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi phục vụ chăm sóc, giáo dục trẻ còn cần phải có nhiều biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ. Trong quá trình thực hiện việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trường mầm non Quan Hoa gặp những thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi: – Nhà trường luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo quận, phường, và đặc biệt là sự chỉ đạo sâu sát, tận tình của lãnh đạo phòng giáo dục trong các hoạt động của nhà trường. – Cơ cấu tổ chức ban giám hiệu phù hợp đặc điểm trường hạng hai. – Ban giám hiệu chỉ đạo sâu sát đều tay. – Đội ngũ nhà trường trẻ, khỏe, nhiệt tình, tận tụy, tâm huyết với nghề, yêu thương trẻ, có tinh thần trách nhiệm trong mọi công việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực sư phạm cho bản thân. – Cơ sở vật chất trang thiết bị, phương tiện hiện đại được đầu tư (CSI) đáp ứng yêu cầu giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện nay. – Hội phụ huynh của trường quan tâm, chăm lo đến việc học tập của các cháu, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường. (CSI) – Tỷ lệ huy động trẻ vượt kế hoạch được giao. * Khó khăn: – Trường có hai cơ sở cách xa nhau. – Cơ sở vật chất khu II do sử dụng đã trên 30 năm và xây dựng không cùng giai đoạn nên chất lượng đã xuống cấp trầm trọng và quy mô cũng chưa phù hợp mầm non. – Nhiều giáo viên mới, nhà xa, có giáo viên còn thuê nhà ở. Số lượng giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đạt trên chuẩn còn nhiều. Giáo viên vừa đi học, vừa đi làm nên ảnh đến chất lượng giáo dục và hiệu quả công tác. Năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề của giáo viên không đồng đều. Nhiều giáo viên mới ra trường trình độ tay nghề còn non nên cũng ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ trong nhà trường. – Chất lượng khảo sát đầu năm (Phụ lục kèm theo) Qua khảo sát chất lượng còn thấp, so với yêu cầu thì chưa đảm bảo. Trước tình hình thực trạng về chất lượng của nhà trường, tôi suy nghĩ tìm ra một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong trường mầm non Quan Hoa. 4. Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục trong Trường mầm non Quan Hoa: 4.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chuyên môn Trên cơ sở kế hoạch nhiệm vụ năm học các cấp đã chỉ đạo và hướng dẫn từ đó xây dựng kế hoạch năm học; kế hoạch tháng; kế hoạch tuần; xây dựng chế độ sinh hoạt; xây dựng kế hoạch chuyên môn: cụ thể chương trình dạy cho các khối lớp phù hợp , sát với tình hình của trường. Chỉ đạo giáo viên các nhóm lớp xây dựng kế hoạch hoạt động và được nhà trường phê duyệt mới thực hiện. Hàng tháng giáo viên báo cáo kế hoạch, lịch dạy của lớp cho nhà trường. Qua đó Ban giám hiệu có cơ sở để theo dõi, kiểm tra và có biện pháp chỉ đạo kịp thời tốt hơn. Giao chỉ tiêu chất lượng cho từng khối, lớp: – Dựa vào chất lượng của các lớp, giao chỉ tiêu chất lượng cho các khối cụ thể: + Mẫu giáo Lớn: Đạt 98%. + Mẫu giáo Nhỡ: Đạt 97%. + MG Bé + Nhóm trẻ: Đạt 95%. – Chất lượng giao gắn với chỉ tiêu thi đua của lớp, của cá nhân vào cuối năm. Với biện pháp này giáo viên trăn trở, tìm tòi có nhiều biện pháp trong việc giáo dục trẻ, trong kế hoạch, phương pháp ôn luyện kiến thức cho trẻ thêm vào các thời điểm trong ngày. 4.2. Biện pháp 2: Thành lập tổ chuyên môn: Tổ chuyên môn gồm có 5 đông chí đại diện cho các khối (Khối Lớn; Nhỡ; Bé; Nhà trẻ và tổ Dinh dưỡng) là lực lượng nòng cốt, vì vậy cần chọn giáo viên có trình độ đạt chuẩn, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín đối với đồng nghiệp, có năng lực sư phạm tốt để chỉ đạo phân công điều hành giáo viên trong các khối. Xây dựng kế hoạch hoạt động từng tháng, tuần. Hàng tháng sinh hoạt 01 lần tạo nề nếp trong sinh hoạt, có đánh giá kết quả và kế hoạch tiếp theo. 4.3. Biện pháp 3: Chỉ đạo tích cực việc thực hiên: “Dạy thật – Học thật – Kết quả thật”: Hưởng ứng năm ứng dụng công nghệ thông tin nhà trường đã phát động phong trào xây dựng và xử dụng giáo án điện tử trong suốt cả năm học mà không theo đợt. Nhằm tạo cho giáo viên có tính chủ động, có nhiều biện pháp tích cực và hình thức sáng tạo trong các hoạt động chung… Nâng cao chất lượng giáo dục trẻ vấn đề đầu tiên đó là kết quả việc giáo dục. Bởi vậy tích cực hướng dẫn việc tổ chức dạy học có nề nếp là việc làm thường xuyên: – “Học thật”: Trẻ tích cực, hứng thú, tự nguyện tham gia váo các hoạt động giáo dục trẻ tạo ra sản phẩm, tìm tòi khám phá, giáo viên không làm thay, vẽ thay, viết thay cho trẻ. Giáo viên hình thành và rèn luyện để cho trẻ có thao tác đúng, thuần thục một số thói quen về nề nếp học tập. – “Kết quả thật”: Giáo viên luôn theo dõi sự phát triển, nhận thức của trẻ trên các lĩnh vực phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, tình cảm, thẩm mỹ và phát triển thể lực. Đánh giá kết quả của trẻ đúng thực chất, khách quan, công bằng, tôn trọng sản phẩm của trẻ. Vì thế người giáo viên muốn có kết quả thật thì phải biết thực hiện tốt phương pháp dạy học tích cực, biết tạo mọi cơ hội để ôn luyện thêm kiến thức cho trẻ vào các thời điểm trong ngày. Bởi trẻ mầm non dễ nhớ, dễ quên nên hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ. “Học mà chơi, chơi mà học” là kết quả tốt nhất vì trong quá trình chơi giúp trẻ ôn luyện kiến thức mà trẻ đã được trải nghiệm, được khám phá. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ tốt góp một phần vào việc thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không”. Đưa chất lượng giáo dục trẻ ngang tầm với yêu cầu giáo dục trong thời kỳ đổi mới. 4.4. Biện pháp 4: Chỉ đạo chất lượng Thực hiện phân loại giáo viên để có kế hoạch bồi dưỡng thích hợp, đối với giáo viên có tay nghề còn non, giáo viên mới tuyển trong năm; Chú trong bồi dưỡng thêm phương pháp dạy, cách tổ chức hoạt động giáo dục: Tổ chức thi giảng, dự giờ dạy tốt; Bồi dưỡng công tác tự học tập của giáo viên. Đối với giáo viên khá – tốt, bồi dưỡng năng lực sư phạm, kỹ năng, tác phong, sự sáng tạo linh hoạt cho giáo viên. * Tổ chức hội thi: Hội thi là đỉnh cao của phong trào thi đua dạy tốt, học tốt. Vì vậy, phải có kế hoạch chỉ đạo thực hiện một cách nghiêm túc và khoa học. Trong năm qua đã tổ chức tốt các hội thi như: Hội thi làm đồ dùng đồ chơi; Hội thi An toàn giao thông và bảo vệ môi trường cấp trường; Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp trường đạt: 8/16. Dự hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Quận theo chỉ tiêu là 2 giáo viên, cả 2 đồng chí đều đạt. Qua các hội thi rút ra được nhiều kinh nghiệm về nâng cao chất lượng giáo dục và là dịp để giáo viên, các cháu thể hiện những tài năng của mình và có sự học hỏi lẫn nhau; Năng lực sư phạm được nâng lên rõ rệt. * Chỉ đạo khu điểm, lớp điểm: Chỉ đạo điểm là đòn bẩy phong trào, là cơ sở để nâng cao năng lực chuyện môn và chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ. Từ đó để nhân ra diện rộng về chất lượng giáo dục trong toàn trường. Trong năm học 2014-2015 đã chỉ đạo 1 khu điểm. Điểm toàn diện về chất lượng giáo dục như MGL A1 – MGN B1 – NT D1. Với các lớp chỉ đạo điểm nhà trường đã có kế hoạch chỉ đạo ngay từ đầu năm học, chỉ đạo về CSVC, đồ dùng trang thiết bị dạy học, đồ chơi. Công tác chỉ đạo trang trí lớp, tạo môi trường giáo dục thân thiện. Chỉ đạo việc thực hiện tổ chức các hoạt động, xây dựng bộ hồ sơ, giáo án tốt như MGL A1 – MGN B1. Qua chỉ đạo điểm, giáo viên đã học tập thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn. Chất lượng giáo dục trẻ được nâng lên. * Đánh giá chất lượng giáo dục, khảo sát chất lượng: Đánh giá đúng, thực chất kết quả giáo dục của trẻ, đánh giá 2 lần trong năm học (Lần 1 vào tháng 10, lần 2 vào tháng 4) Qua đánh giá kết quả của giáo viên, cán bộ quản lý phải có sự kiểm tra xác suất, thực chất kết quả. Từ đó có biện pháp chỉ đạo tích cực, bổ sung những thiếu sót, kịp thời chấn chỉnh, bồi dưỡng cho giáo viên cách đánh giá, phát hiện những cháu có kiến thức còn hạn chế để bồi dưỡng, ôn luyện thêm. * Phát động phong trào tự làm đồ dùng dạy học mầm non, đồ chơi: Đối với trẻ, đồ chơi là công cụ quan trọng không thể thiếu được. Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ đối với việc “Học mà chơi, chơi mà học” giúp cho trẻ nắm được những kiến thức cơ bản, ôn luyện củng cố kiến thúc cho trẻ qua hoạt động vui chơi. Vì vậy, việc phát động phong trào tự làm đồ dùng, đồ chơi là một việc làm thường xuyên, mỗi tháng mỗi giáo viên làm 3- 4 loại đồ chơi/trẻ và hai lần hội thi làm đồ dùng, đồ chơi cấp trường. Do đó, số lượng đồ chơi, đồ dùng đã được tăng lên. Trong năm học có 01 lớp dự hội thi làm đồ dùng đồ chơi cấp trường đạt giải xuất sắc là MGN B1. 4.5. Biện pháp 5: Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá: Kiểm tra là một việc làm thường xuyên, kiểm tra bằng nhiều hình thức, kiểm tra toàn diện, chuyên đề, kiểm tra theo định kỳ, kiểm tra đột xuất. Kiểm tra toàn diện được100% giáo viên; Kiểm tra chuyên đề mỗi giáo viên kiểm tra 2 lần/năm. Việc kiểm tra đột xuất một số nội dung: Kiểm tra việc thực hiện chương trình, kiểm tra hồ sơ, giáo án, kiểm tra thực hiện chế độ sinh hoạt, kiểm tra việc đánh giá chất lượng. Kiểm tra kỹ năng của trẻ: Vở tập tô, làm quen toán, tạo hình, các loại vở theo hướng dẫn của cấp trên… Qua kiểm tra, đã uốn nắn một số sai lệch của giáo viên trong công tác giáo dục. Từ đó có biện pháp chỉ đạo cụ thể giúp cho giáo viên ôn luyện kiến thức, xây dựng kế hoạch bối dưỡng giúp cho trẻ có chất lượng giáo dục tốt hơn. 4.6. Biện pháp 6: Phối kết hợp với gia đình, cộng đồng để giáo dục trẻ: Đối với trẻ mầm non, thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học, chăm sóc, nuôi dạy trẻ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Bởi vậy, trường tổ chức phối kết hợp với phụ huynh qua các cuộc họp phụ huynh toàn trường qua hai lần trong năm; toàn trường xây dựng góc tuyên truyền qua các góc tuyên truyền những điều cha mẹ cần biết nhằm giúp cho phụ huynh nắm được một số kiến thức giáo dục, rèn luyện cho trẻ có thói quen, hành vi văn minh trong giao tiếp, biết yêu thương quý trọng cô giáo, bố mẹ, người lớn. Có thói quen nề nếp trong học tập, trong các hoạt động, từ đó chất lượng giáo dục được tăng lên, trẻ năm vững các kiến thức, kỹ năng, trả lời hồn nhiên, nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin. 5. Kết quả đạt được: Trong năm học 2014-2015 nhờ có biện pháp chỉ đạo, xây dựng kế hoạch một cách khoa học, đã nâng cao được chất lượng giáo dục trẻ năm sau cao hơn năm trước, cuối năm cao hơn đầu năm. Kết quả khảo sát cụ thể (Phụ lục kèm theo) 6. Bài học kinh nghiệm: – Giáo dục mầm non là một bậc học đòi hỏi có nghệ thuật khoa học khác với các bậc học khác. Vì vậy, trước hết người cán bộ quản lý phải có sự năng động, sáng tạo, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức lối sống, chủ động trong công tác chỉ đạo chuyên môn, chất lượng giáo dục trong nhà trường. – Xây dựng kế hoạch một cách khoa học và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc kế hoạch. – Tham mưu tích cực với các cấp lãnh đạo để mua sắm, bổ sung đầy đủ các trang thiết bị mầm non, đồ dùng dạy học. – Thường xuyên kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục, khảo sát chất lượng trẻ đúng quy trình. – Chỉ đạo tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn. – Chỉ đạo đội ngũ luôn học tập không ngừng nâng cao phẩm chất, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nắm bắt kịp thời các thông tin đổi mới về phương pháp giáo dục góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong Trường mầm non, xứng đáng với lời dạy của Bác Hồ: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người“. III. Kết luận Ngành học mầm non là nền tảng đầu tiên của ngành giáo dục và đào tạo, chất lượng giáo dục trẻ tốt góp phần vào việc xây dựng và phát triển trường học, đưa chất lượng giáo dục đảm bảo yêu cầu xây dựng trường tiên tiến và yếu tố quan trọng trong việc hình thành và phát triển toàn diện về Đức – Trí – Thể – Mỹ. Hình thành nhân cách con người mới XHCN, tạo tiền đề vững chắc cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt. Muốn đạt được điều điều đó, người cán bộ quản lý phải luôn gương mẫu đi đầu trong mọi hoạt động, học tập, nghiên cứu, chỉ đạo sát sao trong việc đánh giá chất lượng giáo dục góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” đưa chất lượng giáo dục ngày càng đi lên đáp ứng với yêu cầu đổi mới góp phần thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.

Tìm Hiểu Về Quản Lý Giáo Dục

Quản lý giáo dục là gì? Trong bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ đến bạn những lý thuyết cơ bản nhất về quản lý giáo dục. 

1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 

Giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên, nhất là học sinh là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, góp phần trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh, công dân, vì thế đã có rất nhiều nhà giáo dục trong cũng như ngoài nước quan tâm.

1.1. Các tác giả nước ngoài 

Từ thời cổ đại: Khổng Tử (551- 479 TCN) đã rất coi trọng việc giáo dục đạo đức trong nhân cách con người. Đó là việc giáo dục lòng nhân ái và biết sống có trên dưới, trung thực, thủy chung, có kỷ cương từ gia đình đến xã hội, nhằm giữ trọn bổn phận của tôi đối với vua, vợ đối với chồng, con cái đối với cha mẹ, em đối với anh, trò đối với thầy, bạn bè đối với nhau vv… có được như vậy thì gia đình sẽ được yên ấm, xã hội được bình an… 

J.A. Comenxki (1952-1670), ông tổ của nền giáo dục cận đại, đã đưa ra phương pháp giáo dục đạo đức trong đó chú trọng đến hành vi là động cơ đạo đức. 

Makarenco, đại diện cho nền giáo dục đương đại, đã nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục đạo đức và các biện pháp giáo dục đúng đắn như sự nêu gương, “giáo dục trong tập thể và giáo dục bằng tập thể” trong các tác phẩm bài ca sư phạm, các vấn đề giáo dục người công dân (giáo dục trẻ em phạm pháp và không gia đình). Ông kết luận “Nhiệm vụ giáo dục của chúng ta nói tóm lại là giáo dục tập thể”. Điều đó có nghĩa là hình thành nhận thức, tình cảm, hành vi, thói quen tập thể; là góp phần tạo ra nhân sinh quan XHCN, bộ mặt đạo đức chủ yếu của con người mới XHCN để phân biệt với con người của giai cấp bóc lột- con người ích kỷ, cá nhân [33, 261].

Học thuyết giáo dục của Mác và Ăngghen là một bộ phận của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Mác đã vạch ra quy luật tất yếu của xã hội tương lai là đào tạo, giáo dục những con người phát triển toàn diện, những người phát triển đầy đủ, tối đa năng lực sẵn có về tất cả mọi mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, tình cảm, nhận thức, năng lực, óc thẩm mỹ và có khả năng cảm thụ được tất cả những hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra xung quanh, đồng thời có thể sáng tạo ra những cái mới theo khả năng của bản thân.

1.2. Các tác giả trong nước 

Ở nước ta, qua 1000 năm lịch sử, nền giáo dục vốn coi trọng giáo dục luân lý lễ nghĩa góp phần cơ bản xây dựng nền tảng đạo đức xã hội. Việc tìm hiểu, nghiên cứu về QLGD, QLGDĐĐ cũng là một trong những trọng tâm nghiên cứu của nhiều tác giả, nhà khoa học.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng vĩ đại của dân tộc, đã thường nhấn mạnh đến giá trị đạo đức cách mạng là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm và cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư…

Nghị quyết của hội nghị lần II của BCH TW đảng khóa VIII đã khẳng định: “Mục tiêu chủ yếu là giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ ở tất cả các bậc học, hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành”.

Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức như: chúng tôi Hà Nhất Thăng viết bài “Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của thanh niên-sinh viên- học sinh”- Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 29/2002. 

Ngoài ra, các tác giả khác như Đặng Quốc Bảo, Bùi Minh Hiền, Hồ Văn Liên qua các giáo trình, các tập bài giảng dành cho các lớp Cao học Quản lý giáo dục cũng đã đi sâu vào phân tích những vấn đề, những lĩnh vực cơ bản trong quản lý nhà trường, trong đó có QLGDĐĐ cho HS.

Tác giả Trần Viết Lưu đã viết về “Gắn cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với việc giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông”- Tạp chí Giáo dục (số 243/2010) 

Về công tác quản lý GDĐĐ cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu như: 

Tác giả Nguyễn Thị Đáp có đề tài: “Thực trạng việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Long Thành và một số giải pháp” năm 2004. 

Tác giả Nguyễn Hữu Minh đã nghiên cứu đề tài “Thực trạng quản lý giáo dục học sinh chưa ngoan tại các trường THCS huyện Vĩnh Thạnh thành phố Cần Thơ” năm 2009. 

Tác giả Tạ Thị Thu Hồng đã viết về “Thực trạng hoạt động quản lý giáo dục đạo đức học sinh một số trường trung cấp nghề tại Thành phố Hồ Chí Minh” năm 2010. 

Qua những đề tài trên, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu thực trạng công tác QLGDĐĐ của Hiệu trưởng tại các cơ sở giáo dục đào tạo khác nhau, đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu của các biện pháp quản lý phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế từng cơ sở giáo dục.

Song vấn đề này, ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, về mặt lý luận và thực tiễn, chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Do đó, việc nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động quản lý, quản lý GDĐĐ, đánh giá thực trạng công tác quản lý GDĐĐ để đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện chất lượng công tác quản lý giáo dục đạo đức ở các trường THPT tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu trong giai đoạn hiện nay. Chúng tôi mong rằng đề tài “Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu” sẽ góp phần làm tư liệu tham khảo cho các nhà QLGD trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục đạo đức cho học sinh.

2. Một số khái niệm cơ bản 

2.1. Quản lý 

2.1.1. Khái niệm quản lý 

Như đối với bất kì khái niệm nào, có rất nhiều định nghĩa về thuật ngữ “quản lý”. Quản lý, theo Bách khoa toàn thư Liên Xô (cũ), là chức năng của những hệ thống có tổ chức với những bản chất khác nhau (kỹ thuật, sinh vật, xã hội) nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động.

Mary Parker Follett đưa ra định nghĩa khá nổi tiếng về quản lý và được trích dẫn khá nhiều là “Nghệ thuật hoàn thành công việc thông qua người khác”. Một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi khác là “Quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên trong tổ chức và sử dụng mọi nguồn lực có sẵn của tổ chức để đạt những mục tiêu của tổ chức” (Stoner, 1995). Một tác giả khác cho rằng quản lý là “tập hợp các hoạt động (bao gồm cả lập kế hoạch, ra quyết định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra) nhằm sử dụng tất cả các nguồn lực của tổ chức (con người, tài chính, vật chất và thông tin) để đạt được những mục tiêu của tổ chức một cách hiệu quả (Griffin, 1998). 

Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể đến khách thể của nó. 

Từ nhiều khái niệm cho thấy quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội, gồm những công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho những người khác thực hiện công việc và đạt được mục đích của nhóm. 

2.1.2. Chức năng quản lý 

Người quản lý thực hiện rất nhiều hoạt động. Những hoạt động này có thể khác nhau tùy theo tổ chức, hay cấp bậc của người quản lý. Tuy nhiên, có một số nhiệm vụ cơ bản, phổ biến cho mọi người quản lý ở tất cả các tổ chức.

Người ta thường gọi nhiệm vụ chung nhất này là chức năng quản lý. Tùy theo cách phân chia mà ta có thể có số lượng các chức năng khác nhau. Cho tới nay, nhiều chuyên gia quản lý nhất trí cho rằng có bốn chức năng quản lý cơ bản sau: 

Kế hoạch hóa 

Là cầu nối giữa vị trí của tổ chức và nơi mà tổ chức muốn tới. Đây được coi là cơ bản nhất của tất cả các chức năng quản lý. Khi công việc của người quản lý trở nên phức tạp hơn và các nguồn tài nguyên trở nên khan hiếm, lập kế hoạch thậm chí trở nên quan trọng hơn đối với người quản lý và tổ chức. Người quản lý xây dựng kế hoạch bao gồm lựa chọn nhân sự, tổ chức các nguồn lực, kiểm tra và phối hợp của con người và các hoạt động để đạt được các mục tiêu đề ra. Có ba loại kế hoạch: kế hoạch chiến lược (giải quyết mục tiêu chiến lược), kế hoạch chiến thuật (giải quyết mục tiêu chiến thuật), và kế hoạch tác nghiệp (giải quyết mục tiêu tác nghiệp). 

Tổ chức 

Tổ chức có nghĩa là đảm bảo tất cả các hoạt động và quá trình được sắp xếp để tổ chức có thể đạt được mục tiêu. Những khía cạnh quan trọng nhất của việc tổ chức là nhận đúng người, xác định trách nhiệm của họ, phác thảo một tổ chức và cấu trúc những người lao động biết họ làm việc ở đâu, họ làm việc và báo cáo với ai. Tổ chức cũng có nghĩa sắp xếp để các cá nhân có khả năng cùng làm việc và liên hệ một cách tích cực với nhau, đảm bảo một môi trường lành mạnh khuyến khích làm việc có hiệu quả. 

Chỉ đạo 

Người quản lý phải học những kĩ năng lãnh đạo để làm việc có hiệu quả. Họ phải học cách đối xử với mọi người như thế nào và làm thế nào để tạo ảnh hưởng và khuyến khích họ để đảm bảo rằng công việc được thực hiện. Tóm lại, người quản lý cũng phải là những nhà lãnh đạo hiệu quả. Người lao động trong mỗi tổ chức đều có ý kiến riêng của mình và sẽ làm những gì họ muốn nếu họ không thích các mệnh lệnh hoặc hướng dẫn của người quản lý. 

Chức năng lãnh đạo của người quản lý bao gồm: 

Định hướng 

Tạo ảnh hưởng 

Giám sát 

Hướng dẫn 

Kiểm tra

Trong tất cả các tổ chức, phải tiến hành kiểm tra ở một mức độ nhất định có một mức độ đối với con người, tài chính, thời gian và các hoạt động. Nội dung của những việc kiểm tra bao gồm việc đo lường và hiệu chỉnh những công việc được thực hiện bởi những người cấp dưới để đảm bảo rằng những kế hoạch của tổ chức được thực hiện một cách có hiệu quả. 

Chức năng kiểm tra cho phép người quản lý xác định mức độ đáp ứng của tổ chức đối với những mục tiêu đã xác định. Từ đó lên kế hoạch để thực hiện mục tiêu. Qua chức năng kiểm tra, người quản lý có thể biết họ đạt được mục tiêu đến đâu và lên kế hoạch để thực hiện tốt mục tiêu đề ra.

2.2. Quản lý giáo dục là gì?

Khái niệm quản lý giáo dục:

“Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những hoạt động tự giác, (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [23, tr.37, 38].

Trong tài liệu “Tổng quan về quản lý giáo dục” của trường cán bộ quản lý giáo dục – đào tạo có nêu: “ quản lý giáo dục là một loại hình được hiểu là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất”.

Chủ thể quản lý giáo dục là nhà quản lý, tập thể các nhà quản lý hay là bộ máy quản lý giáo dục. Trong trường học đó là Hiệu trưởng (cùng với bộ máy giúp việc của Hiệu trưởng) đến tập thể giáo viên; các tổ chức đoàn thể.

Khách thể quản lý giáo dục bao gồm trường học hoặc là sự nghiệp giáo dục trên địa bàn (cơ quan quản lý giáo dục các cấp); trong đó có bốn thành tố của một hệ thống xã hội: tư tưởng (quan điểm đường lối, nguyên lí chính sách chế độ, giáo dục …) con người (giáo viên, cán bộ CNV và các hoạt động của họ) quá trình giáo dục (diễn ra trong không gian và thời gian…) vật chất, tài chính (trường sở trang thiết bị kĩ thuật phục vụ cho giáo dục, ngân sách, ngân quỹ).

Chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý một cách có ý thức nhằm đạt được mục tiêu đề ra và chính các mục tiêu quản lý lại tham gia vào sự quy định bản chất của quản lý giáo dục.

Bản chất của quản lý giáo dục được biểu hiện ở các chức năng quản lý. Các công trình nghiên cứu về khoa học quản lý trong những năm gần đây đã đưa một kết luận tương đối thống nhất về năm chức năng cơ bản của quản lý là: Kế hoạch hóa, tổ chức, kích thích, kiểm tra, điều phối

Kế hoạch hóa: Lập kế hoạch, phổ biến kế hoạch

Tổ chức: Tổ chức triển khai, tổ chức nhân sự, phân công trách nhiệm

Kích thích: Khuyến khích, tạo động cơ

Kiểm tra: Kiểm soát, kiểm kê, hạch toán, phân tích

Điều phối: Phối hợp, điều chỉnh

Tổ hợp tất cả các chức năng quản lý tạo nên nội dung của quá trình quản lý, nội dung làm việc của chủ thể quản lý, phương pháp quản lý và là cơ sở để phân công lao động quản lý.

Vậy giáo dục là hoạt động có mục đích được tổ chức có kế hoạch, được chọn lựa về nội dung, phương pháp thực hiện có hệ thống nhằm tác động đến đối tượng nào đó, làm cho đối tượng đó dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.

Mục tiêu quản lý giáo dục: 

Tương ứng với mục tiêu giáo dục, mục tiêu quản lý giáo dục cũng có hai cấp độ: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Đối với cấp vĩ mô, quản lý giáo dục là những tác động của chủ thể quản lý đến toàn bộ các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng yêu cầu của xã hội. Mục tiêu giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân là và cũng là yêu cầu của xã hội đối với ngành giáo dục là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 

Sản phẩm của giáo dục là nhân cách của người học sinh, của thế hệ trẻ. Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng (khóa VIII) chỉ rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của giáo dục là “xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”. 

Như vậy, sản phẩm của giáo dục, sản phẩm của sự đào tạo của nhà trường là nhân cách người lao động mới có văn hóa, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có chí tiến thủ lập nghiệp, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.

Điều 27 (luật giáo dục 2005) đã xác định mục tiêu của giáo dục phổ thông “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [3]. 

Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. 

Đối với cấp vi mô, chẳng hạn như nhà trường, người hiệu trưởng phải tập trung quản lý sao cho các hoạt động giáo dục đạt hiệu quả tối đa trong điều kiện cho phép. Đó có thể là: 

Xây dựng đội ngũ giáo viên; 

Tranh thủ sự lãnh đạo và làm tốt công tác tham mưu với Đảng và chính quyền địa phương;

Xây dựng, bảo quản, phát huy hiệu lực sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị giảng dạy, giáo dục; 

Xây dựng các quy định, nề nếp sinh hoạt chuyên môn, hội họp, chế độ hành chính, văn thư trong nhà trường; 

Tổ chức xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh… 

2.3. Quản lý giáo dục đạo đức 

2.3.1. Đạo đức 

Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và toàn xã hội. Theo “Từ điển tiếng Việt”: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo chuẩn mực đạo đức mà có”. 

Chủ nghĩa Mác – Lênin đã lý giải nguồn gốc, bản chất của đạo đức một cách khoa học. Theo C.Mác và Ph.Ăng-ghen, đạo đức được nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của các quan hệ xã hội, hệ thống ý thức đạo đức, các quan hệ đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng phát triển, ngày càng nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp.

Ngoài ra, đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu bên trong; đồng thời chịu tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người xung quanh. Từ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên và xã hội. Đạo đức xã hội bao gồm ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức. 

thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi, ứng xử của cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân.

Hành vi đạo đức là sự biểu hiện trong ứng xử của ý thức đạo đức mà con người đã nhận thức và lựa chọn. Đó là sự ứng xử trong các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, với xã hội, với tự nhiên và với chính mình. Do hành đạo đức bắt nguồn từ ý thức đạo đức nên đạo đức thường tỷ lệ thuận với trình độ học vấn, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, không phải cứ có trình độ học vấn cao là có văn hóa, đạo đức cao và ngược lại, bởi sự khác biệt và có khoảng cách giữa ý thức đạo đức và hành vi đạo đức, giữa nhận thức và hành động của mỗi con người. 

Quan hệ đạo đức là hệ thống những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Quan hệ đạo đức thể hiện dưới các phạm trù bổn phận, lương tâm, nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi…giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể, cộng đồng và toàn xã hội.

2.3.2. Giáo dục đạo đức 

Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: cá nhân với xã hội, cá nhân với lao động, cá nhân với môi trường tự nhiên và cá nhân với chính mình. Đó là một quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi công phu, kiên trì, liên tục và lặp đi lặp lại nhiều lần. Đó còn là quá trình hình thành và phát triển đạo đức của con người; là quá trình tác động qua lại giữa xã hội và cá nhân để chuyển hóa những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức – xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức, đáp ứng yêu cầu của xã hội. 

Quá trình giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến người học để hình thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm tin, hành vi, đích cuối cùng và quan trọng nhất là tạo lập cho học sinh những thói quen hành vi đạo đức. Có thể hiểu, quá trình giáo dục đạo đức là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch nhằm biến đổi những nhu cầu tư tưởng đạo đức, giá trị đạo đức của cá nhân phù hợp với chuẩn mực đạo đức; góp phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của xã hội. 

Trong tất cả các mặt giáo dục, giáo dục đạo đức giữ một vị trí hết sức quan trọng. Từ xưa, ông cha ta đã đúc kết một cách sâu sắc kinh nghiệm về giáo dục “Tiên học lễ, Hậu học văn”. Ngày nay, phương châm “dạy người, dạy chữ, dạy nghề” cũng thể hiện rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo đức. Bởi vậy, trong khi dạy tri thức chuyên môn nhất thiết phải dạy đạo đức nhằm tạo ra sản phẩm là những công dân vừa hồng vừa chuyên.

Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm hình thành và phát triển ý thức, tình cảm, niềm tin và thói quen đạo đức của học sinh giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển toàn diện.

Quá trình giáo dục đạo đức giống như các quá trình giáo dục khác là có sự tham gia của chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục. Theo đó, chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh là thầy cô giáo, cha mẹ học sinh, các lực lượng giáo dục trong xã hội. Trong trường THPT, đó là tập thể sư phạm nhà trường, tổ chức Đoàn TNCS HCM… và người Hiệu trưởng với vai trò là người quản lý, chỉ đạo , phối hợp thực hiện các hoạt động GDĐĐ cho học sinh. Học sinh là đối tượng của quá trình giáo dục, chịu tác động của giáo viên và các lực lượng giáo dục khác. Học sinh còn là chủ thể tích cực, tự giác tiếp thu các chuẩn mực đạo đức và tham gia các hoạt động để thể hiện các giá trị đạo đức. 

2.3.3. Quản lý giáo dục đạo đức 

Nhà trường là một cơ quan giáo dục chuyên biệt thực hiện chức năng giáo dục và đào tạo. GSTS Phạm Minh Hạc cho rằng “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, được nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục- với thế hệ trẻ- với trường học”. 

Trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, Hiệu trưởng cần đảm bảo sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương của cấp trên đối với hoạt động của nhà trường, giữ mối quan hệ mật thiết với các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương và lôi cuốn các tổ chức đó vào sự nghiệp trồng người. Xây dựng cơ cấu hoạt động của Hội cha mẹ học sinh nhằm góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh, trong đó có giáo dục đạo đức.

Các Phó hiệu trưởng, giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm, quản sinh, các tổ chức trong nhà trường như Công đoàn, Đoàn thanh niên cùng tham gia phối hợp và giúp Hiệu trưởng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.

Tính hiệu quả của quản lý công việc nhà trường, đặc biệt là quản lý giáo dục đạo đức, phụ thuộc trực tiếp vào sự phong phú của các phương pháp lao động quản lý của Hiệu trưởng, vào kỹ năng vận dụng trong từng tình huống những phương pháp và biện pháp bảo đảm hiệu quả thật sự. A.V. Makarenco đã khẳng định “mọi người đều có thể có tài nghệ điêu luyện nếu chúng ta giúp đỡ họ và nếu bản thân họ làm việc. Và chỉ có thể có tài nghệ điêu luyện trong một tập thể giáo dục tốt” [24, tr. 226]. 

Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trước hết thể hiện ở các chức năng quản lý giáo dục: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra đánh giá.

Giải Pháp Đổi Mới Công Tác Quản Lý Giáo Dục

Muốn nâng cao chất lượng giáo dục, ngành giáo dục cần đổi mới công tác kiểm tra đánh giá. Ảnh: Anh Khôi

Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào 4 yếu tố, đó là: Đội ngũ, cơ sở vật chất, đầu vào và công tác quản lý; trong đó công tác quản lý giữ vai trò quan trọng vì trong điều kiện đội ngũ, cơ sở vật chất, đầu vào như nhau, nơi đâu quản lý tốt thì nơi đó có chất lượng tốt hơn. Vì vậy, đổi mới quản lý giáo dục phải bắt đầu từ các cơ sở giáo dục.

Tuy nhiên, đổi mới như thế nào để có hiệu quả? Như chúng ta đã biết, quản lý nhà trường là quản lý theo mục tiêu chất lượng, tức là phải làm cho chương trình, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục phù hợp với các đối tượng học sinh (HS) cụ thể, các điều kiện học tập cụ thể. Điều này, một mặt đòi hỏi hiệu trưởng (HT) phải có kế hoạch tổ chức thực hiện chương trình, mặt khác chỉ đạo tổ chức thực hiện tất cả các hoạt động giáo dục trong nhà trường, điều kiện cơ sở vật chất, ứng dụng CNTT, công tác đào tạo, bồi dưỡng… tức là triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin phép chỉ đề cập đến một vài lý thuyết cơ bản về giải pháp đổi mới quản lý nhà trường trong giai đoạn hiện nay.

Chuẩn là hệ thống các yêu cầu cơ bản đối với cá nhân, đơn vị về một số nội dung nào đó nhằm đáp ứng hay thực hiện một nhiệm vụ nào đó. Hiện nay trong nhà trường chúng ta quản lý theo các chuẩn: Trường đạt chuẩn quốc gia; chuẩn nghề nghiệp giáo viên (GV); chuẩn HT, chuẩn phó HT; chuẩn kiến thức kĩ năng cơ bản của chương trình; chuẩn đánh giá, xếp loại HS; tiêu chí đánh giá trường học thân thiện, HS tích cực… Các chuẩn hiện hành có tác dụng định hướng trong phấn đấu rèn luyện của bản thân HT và GV, trong công tác xây dựng đội ngũ, trong điều hành các hoạt động của nhà trường. Vì vậy trong công tác quản lý, dựa vào các yêu cầu của chuẩn và điều kiện thực tế của đơn vị, HT cần lập kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, xác định ta đang ở vị trí nào, xây dựng lộ trình thực hiện… thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả hoạt động cao với thời gian tối thiểu…

Đổi mới phương pháp dạy học

Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp giảng dạy (của GV) và phương pháp học tập (của HS) đều lấy HS làm trung tâm. Nhà trường cần có nhiều hình thức bồi dưỡng cho GV về đổi mới phương pháp giảng dạy thông qua hội thảo chuyên đề, sinh hoạt tổ chuyên môn ở quận, ở cụm, ở trường… và đặc biệt là việc chuẩn bị lên lớp như soạn giáo án…

Người HT phải có phẩm chất, năng lực; có phong cách lãnh đạo, quản lý phù hợp với thời đại và phải được sự tín nhiệm, phục tùng tự nguyện của cấp dưới.

Trong quản lý giáo dục cần tránh đi sâu vào công tác hành chính, sự vụ, càng không nhằm quản lý con người mà quan trọng là quản lý công việc, quản lý kế hoạch (trường, tổ). Chỉ có quản lý công việc thì người làm việc mới tự chủ, sáng tạo và mang lại hiệu quả thực sự, còn quản lý con người thì họ sẽ làm việc chỉ với mục đích đối phó.

Nhà trường cần đổi mới công tác thi đua, đảm bảo tính khoa học, công bằng, công khai từ khâu xây dựng các tiêu chí, triển khai thực hiện đến việc kiểm tra đánh giá. Kiên quyết khắc phục bệnh thành tích, hình thức. Gắn liền việc khen và thưởng một cách hợp lý và xứng đáng, sao cho phong trào thi đua thực sự trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi người đoàn kết, cùng nhau phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ.

(Hiệu trưởng Trường TH Kim Đồng, Q.7, TP.HCM)

Tiến sĩ Đinh Phương Duy, Chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục chúng tôi đã “vẽ” lên bức chân dung người HT trong thời kỳ mới: “HT cần được trang bị kỹ năng mềm để có đủ tự tin điều hành nhà trường như một doanh nghiệp nhưng không làm mất bản sắc nhà trường phổ thông. Người HT cần đẹp hơn, uy nghi hơn, hoạt bát hơn, lưu loát hơn, lạc quan hơn, tự chủ hơn, độc lập hơn… và đặc biệt phải giàu có hơn để có đủ tâm sức, tư duy hành động với ưu thế của một nhà quản trị hiện đại”.

Luận Văn: Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Thpt

Published on

Tải Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục đề tài: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, dành cho những bạn có nhu cầu viết luận văn tham khảo.

1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  PHAN NGUYỄN BÁCH KHOA BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI – 2013

2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  PHAN NGUYỄN BÁCH KHOA BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ GIÁO DỤC MÃ SỐ : 60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRỊNH QUANG TỪ HÀ NỘI – 2013

3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN 17 1.1 Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức 17 1.2 Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân 25 Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN 31 2.1 Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội và giáo dục tại địa bàn quận Bình Tân 31 2.2 Thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân 34 2.3 Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông 37 Chương 3 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUẬN BÌNH TÂN 45 3.1 Yêu cầu đối với biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh 45 3.2 Một số biện pháp cơ bản quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân hiện nay 47 3.3 Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp 67 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 PHỤ LỤC 77

4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đạo đức là một trong những phạm trù cơ bản của lý luận giáo dục, là nội dung quan trọng trong rèn luyện phát triển nhân cách của mỗi người Việt Nam. Đạo đức của người Việt Nam rất giản dị, tự nhiên, trong sáng, đã trở thành một nhân tố không thể thiếu được trong đời sống tinh thần, là một tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá, xem xét về phẩm chất nhân cách của mỗi người. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về chất lượng nguồn lực con người. Đó là sự phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và nhân cách nói chung của con người Việt Nam, mà trước hết là của thế hệ trẻ. Coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, Đảng ta đòi hỏi phải “tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước”. Từ đó cho thấy, giáo dục đạo đức là một trong những điểm chủ yếu, cốt lõi xuyên suốt và giữ vị trí chủ đạo trong toàn bộ quá trình giáo dục nhân cách, đào tạo con người trong nhà trường ở nước ta, đặc biệt là đối với học sinh ở lứa tuổi thiếu niên trong nhà trường phổ thông. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và được triển khai trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát triển năng động và thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Nhưng, kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống tinh thần, sự cảm thụ văn hóa – nghệ thuật cũng như trong tâm lý – đạo đức của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Những ảnh hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội, làm sai lệch các chuẩn mực giá trị, dẫn tới sự suy 3

6. Ngay từ thời cổ đại Khổng Tử đã nhận thức được vai trò quan trọng của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội và của từng con người cụ thể. Ông chủ trương dùng đức trị để xây dựng và ổn định xã hội. Đó là một xã hội có các chuẩn mực đạo đức rõ ràng, vua có đức của vua, tôi có đức của tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ, mọi người đều sống và làm việc đúng theo chính danh của mình. Cốt lõi trong quan điểm của Khổng Tử về đạo đức là “nhân”, “nghĩa”. Nhân nghĩa là cái tốt đẹp của con người thể hiện ở nguyên tắc xây dựng, cai trị quốc gia, ở việc trau dồi ý chí, tình cảm, hành vi trong các mối quan hệ xã hội. Quan điểm của Khổng Tử về đạo đức và giáo dục đạo đức lúc bấy giờ là một tiến bộ xã hội. Nó không chỉ góp phần bổ sung, phát triển lý luận giáo dục nhân cách mà còn là một giải pháp cho sự phát triển của xã hội Trung Hoa cổ đại. Những quan điểm của Khổng Tử về giáo dục đạo đức đã trở thành quan điểm chính thống của nền giáo dục nho học trong suốt cả thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, do hạn chế của hoàn cảnh lịch sử nên quan điểm của Khổng Tử về đạo đức vẫn mang tính đẳng cấp, phân biệt đạo đức của quân tử và tiểu nhân, giữa nam và nữ. Về phương pháp giáo dục đạo đức, Khổng Tử chưa nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa con người với xã hội, chưa kết hợp cải tạo con người với cải tạo xã hội. Ông coi đạo đức là sản phẩm của một cá nhân riêng biệt, được hình thành chủ yếu bằng con đường tu thân. Ở phương Tây, thời kỳ cổ đại cũng xuất hiện nhiều quan điểm, nhiều học thuyết lớn về giáo dục đạo đức. Mặc dù các quan điểm và các học thuyết đó chưa ảnh hưởng trực tiếp đến nền giáo dục nho học ở nước ta trong thời kỳ phong kiến nhưng nó là cơ sở cho sự hình thành các quan điểm giáo dục thời kỳ văn hóa phục hưng tỏa sáng khắp thế giới sau này. 5

7. Thời kỳ văn hóa phục hưng, giáo dục được xem như một lĩnh vực tiên phong trong cuộc đấu tranh chống lại ý thức hệ phong kiến, chống lại sự câu kết, lũng đoạn của vương quyền và thần quyền trong trường học. Trong bối cảnh đó, nhiều học thuyết, nhiều tư tưởng giáo dục tiến bộ đã được xuất hiện. Nhìn chung, các tư tưởng giáo dục thời kỳ này vẫn đề cao việc giáo dục đạo đức, nhưng đã có sự phát triển mới về chuẩn mực giá trị đạo đức của con người và xã hội. Về phương pháp giáo dục, bước đầu đã có sự gắn kết đức dục với trí dục, gắn giáo dục đạo đức với lao động sản xuất và các hoạt động khác. Tuy nhiên, các tư tưởng tiến bộ đó phần lớn chỉ mới dừng lại ở ý tưởng, việc tổ chức thực hiện hầu như chưa đem lại kết quả mong muốn. Chỉ từ khi chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời, thì những vấn đề lý luận về giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng mới được nghiên cứu một cách đầy đủ trên cơ sở khoa học thực sự. Trên cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khắc phục những hạn chế của một số quan điểm về đạo đức và giáo dục đạo đức trước đây, kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức tiến bộ của các chế độ xã hội trước. Hai ông đã đưa ra những quan điểm của mình về đạo đức. Đạo đức không thể tách rời cuộc sống của con người. Đạo đức trước hết phải là sự phản ánh giá trị cao đẹp của đời sống con người trong mối tương quan giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội. Con người bằng hành động thực tế, quan hệ xã hội và kinh nghiệm lịch sử của mình để xây dựng nên những tiêu chuẩn, những giá trị đạo đức. C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ bản chất của đạo đức không phải là cái gì có sẵn hoặc thiên định. Đạo đức được hình thành từ con người và xã hội loài người. Ph. Ăngghen viết: “Chúng ta khẳng định rằng, chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [01, tr. 157]. 6

8. Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành trên cơ sở tồn tại xã hội, tác động tới xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của con người trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Trong mỗi chế độ xã hội, những giá trị đạo đức; những quy tắc, nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức đều được định ra trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị của chính xã hội ấy. Những tư tưởng về đạo đức của C. Mác và Ph. Ăngghen đã được V.I.Lênin kế thừa, bổ sung, phát triển hoàn chỉnh thành học thuyết mácxít về đạo đức cộng sản và hiện thực hóa trong cách mạng tháng Mười Nga. V.I.Lênin khẳng định giáo dục cộng sản chính là giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà trước hết là giáo dục tính kỷ luật trong lao động và trong tập thể; giáo dục lòng yêu Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách con người xã hội chủ nghĩa. Con đường phấn đấu trở thành người có đạo đức cộng sản đó là mỗi người phải tích cực tự giác tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng nhân loại cần lao và tham gia lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng công nhân và nông dân. Đạo đức cộng sản là “cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thiện chủ nghĩa cộng sản”. “Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống lại mọi sự bóc lột, mọi chế độ tư hữu…” [17, tr. 369]. Đạo đức cộng sản còn là khả năng tổ chức, tính tổ chức, ý thức làm chủ, lòng dũng cảm, không sợ gian khổ hy sinh, trung thực, bình tĩnh, tự tin và kiên quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước hành động của mình. Đặc biệt, đạo đức cộng sản là phải có khả năng tự đánh giá, rút ra mạnh, yếu, tìm rõ nguyên nhân để không ngừng rèn luyện, tự hoàn thiện về mọi mặt để trở thành con người phát triển toàn diện. 7

9. V.I.Lênin cũng chỉ rõ trách nhiệm của việc giáo dục đạo đức cộng sản là của toàn xã hội và của tất cả mọi người; trước hết đó là trách nhiệm của nhà trường Xô Viết, của Đoàn thanh niên tiền phong, của các tổ chức đảng, đoàn, cán bộ đảng, đoàn và các thế hệ cách mạng lớn tuổi, các lão thành cách mạng, của đội ngũ thầy, cô giáo. Muốn giáo dục đạo đức cộng sản cho thế hệ trẻ có kết quả tốt thì bản thân những người làm công tác giáo dục phải là người gương mẫu, trong sáng, phải là người tiêu biểu để thế hệ trẻ noi theo, nhìn vào và học tập; làm được như vậy, đạo đức cộng sản mới thực sự trở thành đời sống tinh thần, mang tính giáo dục cao cho mỗi cá nhân và toàn xã hội. Các nghiên cứu ở trong nước Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm Lịch sử oai hùng. Trong quá trình đó đã hình thành và phát triển giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trên nền tảng của truyền thống quá trình đấu tranh dựng nước và bảo vệ, phát triển đất nước. Theo Nguyễn Thế Kiệt, vai trò của các hệ tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo, đặc biệt là Nho giáo đã ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam. Mỗi học thuyết tôn giáo đã giải thích được một khía cạnh của cuộc sống. Do đó, tư tưởng triết học đạo đức Việt Nam, giá trị đạo đức ưu trội, cốt lõi trong các giá trị truyền thống dân tộc trở thành phẩm chất nhân cách đặc trưng con người Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, nền giáo dục phong kiến bị thay đổi toàn bộ. Hệ thống giáo dục nhà trường chú trọng đến nội dung giảng dạy kiến thức khoa học thực nghiệm, thực dụng nhằm đào tạo lớp người phục vụ cho lợi ích thực dân Pháp cho việc chinh phục thuộc địa. Sau cách mạng tháng tám (1945) và trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, nền giáo dục Việt nam với mục đích giáo dục con người phục vụ “Kháng chiến, kiến quốc” đã luôn gắn chặt hai mặt đức và tài trong mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, trong đó lấy Đức làm gốc. 8

10. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn của nhân loại đã để lại cho chúng ta một di sản văn hóa vô cùng quý báu trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Đặc biệt là vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [19, tr. 283]. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém” [19, tr. 452]; Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng. Đức và tài phải thống nhất với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới bao gồm: Một là, trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức 9

11. ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước, hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Hai là, yêu thương con người. Đây là một trong những phẩm chất đẹp nhất của con người Việt Nam. Tình thương yêu con người được hình thành trong lịch sử và đã trở thành truyền thống của dân tộc. Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh là tình yêu thương của người cộng sản. Không phải thuần túy là sự đồng cảm tâm lý, không phải sự thương hại, sự xót xa của tình thương tôn giáo. Tình yêu thương ở đây là phải giải phóng con người, tạo cơ hội cho con người được phát triển hoàn toàn. Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Đây là phẩm chất chung của con người, là phẩm chất đạo đức mới, thể hiện mối quan hệ rộng lớn vượt qua khuôn khổ quốc gia, dân tộc. Bồi dưỡng đạo đức cho con người Việt Nam là phải bồi dưỡng tinh thần quốc tế trong sáng ở mỗi người. Theo Hồ Chí Minh: đạo đức cách mạng không phải điều gì xa lạ mà thực chất đạo đức cách mạng được hình thành từ thực tiễn hoạt động rèn luyện hàng ngày trong công tác, chiến đấu của mỗi người. Thực chất của giáo dục đạo đức chính là hình thành ở con người đức tính tốt, lòng nhân ái, nổi trội ở đó là tinh thần yêu nước, lòng trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Mục tiêu của giáo dục đạo đức là nhằm loại bỏ những thói hư, tật xấu, tư tưởng lạc hậu, trì trệ, sự ích kỷ cá nhân, tính vô nhân đạo. Vì theo Hồ Chí Minh: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho lòng tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Đó là thái độ của người cách mạng” [15, tr. 558]. Từ việc xác định rõ thực chất của vấn đề giáo dục đạo đức, xác định rõ mục tiêu của giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh đã nêu lên những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới: 10

12. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Đây là nguyên tắc rèn để rèn luyện, là cơ sở để phân biệt đạo đức cách mạng với đạo đức không cách mạng. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Đây là nguyên tắc có tính quy luật trong giáo dục đạo đức mới. Muốn xây dựng đạo đức mới thì nhất thiết phải chống lại các tệ nạn, tiêu cực, thoái hóa biến chất, chống là nhằm mục đích để xây và lấy xây làm chính. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Đạo đức không phải là từ trên trời rơi xuống mà được đào tạo, rèn luyện bền bỉ hàng ngày để phát triển và củng cố: “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức không thường xuyên tu dưỡng sẽ bị hoen ố. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức là một cơ sở lý luận xuyên suốt, luôn hướng dẫn, chỉ đường cho Đảng, quân đội, nhân dân ta học tập, rèn luyện, phấn đấu trong sự nghiệp xây dựng đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến năm 1979 Bộ chính trị và Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra nghị quyết vế cải cách giáo dục và Ủy ban cải cách giáo dục Trung ương đã ra quyết định số 01 về cuộc vận động tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học, đã ghi rõ: “Nội dung đạo đức cần được giáo dục cho học sinh từ mẫu giáo đến đại học, nội dung chủ yếu dựa vào 5 điều bác Hồ dạy”. Tiếp sau đó đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức như: * Thứ trưởng Vũ Đình Nho “Một số vấn đề lý luận và tư tưởng về giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học” (Báo Nghiên cứu giáo dục số 6/ 1980). * Tác giả Trần Quang “Dạy đạo đức trong trường học” (Báo giáo dục thời đại số 18/1999). 11

13. * Tác giả Lê Châu “Cần xác định đúng môn Giáo Dục Công Dân trong trường trung học phổ thông” (Báo Giáo dục thời đại ngày 25/5/2001). * Giáo sư Đặng Vũ Hoạt “Đổi mới công tác giáo viên chủ nhiệm với việc giáo dục đạo đức cho học sinh” Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 8/1992. * PGS- TS Hà Nhật Thăng “Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của thanh niên- học sinh- sinh viên” (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 39/2002). Về công tác quản lý giáo dục đạo đức trong những năm qua cũng có nhiều tác giả nghiên cứu như: * PGS-TS Đặng Quốc Bảo có bài “Những vấn đề cơ bản về quản lý giáo dục” 1998. * Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo” 1998. Nghị quyết của hội nghị lần II của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1996) có nêu: “Mục tiêu chủ yếu là giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ ở tất cả các bậc học, hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành” . Với tư tưởng này Đảng và Nhà nước ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm: Con người là mục tiêu và là động lực của sự phát triển. Trong giai đoạn hiện nay đất nước đang trong quá trình hội nhập với quốc tế và khu vực, việc giáo dục nhân cách mới cho học sinh là nhiệm vụ và là mục tiêu cơ bản của sự nghiệp giáo dục đào tạo. Giáo dục nhân cách mới mà thời đại mới yêu cầu là “Giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành, có khả năng thích ứng với nền kinh tế nhiều thành phần”. Đặc biệt là, ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức 12

14. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Sau 5 năm thực hiện cuộc vận động đã tạo ra phong trào phấn đấu tu dưỡng đạo đức trong mọi tầng lớp xã hội, mang lại hiệu quả tốt. Do đó, Bộ Chính trị khóa XI tiếp tục có Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14 tháng 5 năm 2011 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Những văn kiện này là tài liệu đặc biệt quan trọng và có giá trị cao đối với giáo dục đạo đức xã hội nói chung, tổ chức quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng. Ở thành phố Hồ Chí Minh, ngành giáo dục- đào tạo đã quan tâm và có nhiều văn bản chỉ đạo giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh trong nhà trường và đã tổ chức nhiều chương trình hội thảo, tọa đàm về công tác phòng chống tệ nạn xã hội và ma túy xâm nhập học đường. Như vậy, vấn đề giáo dục đạo đức cho các đối tượng, cho học sinh đã được nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tài liệu trình bày. Nhưng vấn đề quản lý hoạt động giáo dục đạo đức còn ít tài liệu, công trình đề cập. Do đó, nghiên cứu về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là vấn đề mới mẻ và cần thiết. Đặc biệt là, ở thành phố Hồ Chí Minh nói chung và ở quận Bình Tân nói riêng, nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo dục cũng như quản lý giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông chưa được thực hiện một cách có hệ thống. Vì vậy chúng tôi hy vọng đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” sẽ góp phần giúp cho các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân có thể nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu 13

15. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn của giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh trung học phổ thông, đề tài đề xuất một số biện pháp cơ bản quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trong trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài đã thực hiện các nhiệm vụ sau đây: – Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận Bình Tân; – Nghiên cứu thực trạng về tình hình giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức ở 5 trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân (An Lạc, Vĩnh Lộc, Nguyễn Hữu Cảnh, Bình Hưng Hoà, Bình Tân); – Đề xuất một số biện pháp chủ yếu quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân. Số liệu khảo sát được thực hiện trên đội ngũ cán bộ quản lý, các lực lượng tham gia giáo dục đạo đức, giáo viên và học sinh từ năm 2008 đến nay. 5. Giả thuyết khoa học 14

16. Việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông là nội dung cơ bản của quản lý giáo dục trong nhà trường, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trên địa bàn quận Bình Tân còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Nếu phát huy được vai trò chỉ đạo, điều hành; tổ chức tốt nâng cao nhận thức về giáo dục đạo đức cho cán bộ giáo viên và học sinh; tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng hiệu quả các hình thức, phương pháp giáo dục, đồng thời phát huy vai trò của nhà trường trong phối hợp với các lực lượng giáo dục trên địa bàn thì quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh sẽ đáp ứng được yêu cầu giáo dục hiện nay. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận nghiên cứu Quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin; quán triệt những tư tưởng cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng về giáo dục, nhất là các quan điểm trong các văn kiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá IX, X, XI. Sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống cấu trúc trong xem xét, phân tích các đối tượng nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ đề ra. Các phương pháp cụ thể – Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: khái quát các tài liệu lý luận và thực tiễn để xây dựng những quan niệm, khái niệm, xây dựng những quy trình, những nguyên tắc nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân. 15

18. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN 1.1. Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức 1.1.1. Hoạt động giáo dục đạo đức Đạo đức là khái niệm luân thường đạo lý của con người được sử dụng để phân biệt tốt- xấu, đúng – sai, cái thiện – cái ác … trong cuộc sống, được sử dụng trong ba phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và sự trừng phạt. Trong đời sống xã hội, nói đến đạo đức là nói đến các giá trị, các chuẩn mực đạo đức. Những quan niệm về các giá trị và chuẩn mực đạo đức có tính lịch sử – xã hội và gắn liền với các tư tưởng về triết học, về văn hóa trong mỗi thời kỳ lịch sử; chịu sự chi phối của các tư tưởng tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, và những luật lệ của một xã hội, phản ánh trong cách đối xử của con người với môi trường xung quanh, với cộng đồng với người khác và với bản thân mình. Theo quan niệm trước đây, đạo đức được hiểu đồng nghĩa với luân lý, đó là những chuẩn mực, hành vi được xã hội quy định, được nhiều người thừa nhận và tự giác thực hiện. Đó là những quy ước cộng đồng xã hội qua thời gian được thừa nhận và trở thành truyền thống đạo lý trong ứng xử giữa người với người, người với tự nhiên, xã hội. Ngày nay, trong hoàn cảnh xã hội luôn vận động, phát triển, quan niệm về đạo đức được mở rộng phạm vi. Đạo đức không chỉ là phạm trù luân lý, những quy định đối nhân xử thế giữa người với người trong mọi phạm vi từ nhỏ đến lớn. Đạo đức còn được mở rộng đến vấn đề ý thức, trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ hòa bình, biết hợp tác phát triển cùng với các dân tộc khác, giáo dục trách nhiệm, xã hội lành mạnh, giáo dục việc thực hiện nghĩa vụ công dân 17

19. trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tinh thần cảnh giác cách mạng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Với ý nghĩ đó, có thể hiểu đạo đức một là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Giáo dục đạo đức là một nội dung quan trọng của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp nhằm hình thành cho con người những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, chuẩn mực quan trọng nhất làm cơ sở để con người có thể lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội; biết tự đánh giá, tự suy ngẫm về hành vi, cách ứng xử của mình. Vì thế, giáo dục đạo đức là thực hiện hình thành và phát triển nhân cách cho con người tương ứng với từng giai đoạn phát triển trong cuộc sống. Giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt viết: “Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục”. Đó là quá trình tác động tới học sinh của nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm hình thành cho học sinh ý thức, tình cảm, niềm tin đạo đức và cuối cùng quan trọng nhất là hình thành cho họ thói quen, hành vi đạo đức trong đời sống xã hội. Song giáo dục trong nhà trường giữ vai trò chủ đạo định hướng ” Giáo dục đạo đức cho học sinh là bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường xã hội chủ nghĩa” [07, tr. 128]. Giáo dục đạo đức là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà Giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người. 18

20. Trong bất kỳ xã hội nào, vấn đề giáo dục đạo đức cho con người theo chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng. Giáo dục đạo đức là con đường chủ yếu để hình thành cho con người những quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất. Cùng với quá trình giáo dục và hoạt động tích cực của mình, con người càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, ý thức, danh dự và các phẩm chất đạo đức của cá nhân đối với bản thân mình trong đời sống cộng đồng, từ đó tham gia có ý thức, có trách nhiệm vào thúc đẩy tiến bộ xã hội Nói đến hoạt động giáo dục đạo đức là nhấn mạnh xem xét giáo dục đạo đức theo cấu trúc hoạt động, tức là phải xem xét động cơ, mục đích, phương tiện cũng như hệ thống các hành động, thao tác tương ứng của hoạt động đó. Mặt khác, quản lý được thực hiện bằng những công việc cụ thể như xác định mục tiêu; xác định quyết tâm và xây dựng kế hoạch; tổ chức lực lượng, điều kiện và phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện kế hoạch; tổ chức thực hiện theo kế hoạch đã đề ra; kiểm tra, đánh giá kết quả đạt được, điều chỉnh việc thực hiện để kết quả đạt được như mong muốn. Đây là những tư tưởng cơ bản để làm rõ khái niệm quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. 1.1.2. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… thông qua các luật lệ, các chính sách, các quy định theo những nguyên tắc, phương pháp nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự vận động của đối tượng theo đúng yêu cầu của chủ thể quản lý, đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra. Mọi người trong xã hội đều hoạt động trong những tổ chức xã hội, những nhóm và cộng đồng. Trong khi đó, mỗi người là một nhân cách độc 19

21. đáo, không lặp lại. Vì thế, khi cần hướng đến một mục tiêu chung, mong muốn đạt được kết quả chung thì phải có sự phối hợp thống nhất trong suy nghĩ, trong hành động của tất cả các thành viên trong tổ chức, nhóm hay cộng đồng đó. Đúng như một nhà tư tưởng đã nói: “Một người độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, còn một giàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. Có thể khái quát, quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương tiện quản lý làm cho đối tượng quản lý nỗ lực tự giác thực hiện các hành vi và hoạt động theo ý định của nhà quản lý để đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Xét về lịch sử thì khoa học Quản lý giáo dục xuất hiện sau khoa học quản lý kinh tế. Hiện nay, quản lý giáo dục là bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xã hội. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học đã đưa ra những cách định nghĩa khác nhau, tương ứng là các quan điểm khác nhau về quản lý giáo dục. Có thể nêu một số quan niệm tiêu biểu: – Theo M.I. Kondacop thì “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích bảo đảm cho sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của xã hội cũng như những quy luật của quá trình giáo dục vào sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em” [29, tr. 17]. Quan niệm này chỉ rõ nơi tác động là tất cả các khâu của hệ thống; xác định rõ cách tác động của chủ thể quản lý là vận dụng nhưng quy luật xã hội và quy luật giáo dục; mô tả rõ mục tiêu hướng tới của tác động quản lý là sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em. Nhưng quan niệm này chưa tính đến sự chi phối của các yếu tố chính trị xã hội đối với quản lý, do đó quản lý giáo dục không có định hướng chính trị rõ rệt. 20

23. Trong quản lý giáo dục, chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý một cách có ý thức nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra và chính sự thực hiện thành công mục tiêu quản lý giáo dục lại bảo đảm cho thực hiện được các mục tiêu giáo dục nói chung của nhà trường. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là bộ phận của quản lý giáo dục nói chung trong nhà trường hướng vào mục tiêu cụ thể là giáo dục đạo đức cho học sinh. Mục tiêu giáo dục cụ thể này trong mối quan hệ với các mục tiêu quá trình giáo dục bộ phận khác như giáo dục phát triển trí tuệ, giáo dục phát triển thể chất, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, giáo dục đạo đức… Trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức, việc xây dựng kế hoạch quản lý là phân tích đánh giá tình hình giáo dục đạo đức đang tiến hành trong nhà trường, thấy được vai trò thực tế của từng lực lượng tham gia hoạt động giáo dục đạo đức thực hiện nhiệm vụ theo chức trách của mình thế nào, mối quan hệ, hợp tác phối hợp của các lực lượng với nhau thực hiện hiệu quả các tác động giáo dục; thấy được những điều kiện phương tiện, tài chính, quỹ thời gian bảo đảm… để từ đó đề ra mục tiêu mới về nhận thức và hành vi đạo đức của học sinh cần phải đạt được; kịp thời có những chủ trương và quyết tâm hành động đạt được mục tiêu; xác định những yêu cầu mới đối với các thành phần và lực lượng; những điều kiện, phương tiện và tương ứng để thực hiện mục tiêu. Về tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức, nhiệm vụ của quản lý trước hết là, quán triệt rõ mục tiêu giáo dục đạo đức cho các lực lượng giáo dục, cho học sinh, nhằm tạo ra sự thống nhất trong nhận thức; làm cho họ nắm chắc nội dung các biện pháp tiến hành, các điều kiện và thời gian thực hiện, các kết quả phải đạt được qua giáo dục đạo đức cho học sinh. Từ đó bố trí lực lượng, phân công trách nhiệm, giao chỉ tiêu, xác định yêu cầu thực hiện cho từng đối tượng, từng bộ phận theo kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh đã xác định. 22

25. nay là một bộ phận do lãnh đạo nhà trường tổ chức điều khiển các lực lượng giáo dục thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đạo đức đã đề ra trong điều kiện kinh tế xã hội quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 1.1.3. Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ thể, thực hiện được mục đích đề ra. Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý viết: “Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành giải quyết một vấn đề cụ thể”. Biện pháp quản lý là cách làm của chủ thể quản lý sử dụng các công cụ quản lý tác động vào từng khâu, từng yếu tố trong hệ thống quản lý, làm cho hệ thống quản lý vận động, biến đổi tạo ra kết quả đáp ứng mục đích quản lý đã đề ra. Chủ thể quản lý sử dụng các biện pháp để theo dõi sát công việc đang diễn ra; kiểm tra chặt chẽ phát hiện kịp thời các sai lệch để uốn nắn; tổ chức tốt việc tự kiểm tra, tự giám sát của các bộ phận để hệ thống thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ đã xác định. Vậy, có thể khái quát: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh là tổng hợp các cách thức quản lý của Ban giám hiệu, các tổ chuyên môn và cán bộ nhà trường tác động đến quá trình giáo dục đạo đức nhằm làm cho quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh thực hiện tốt kế hoạch và đạt mục tiêu giáo dục đạo đưc đã đề ra. Khái quát trên đã chỉ ra rằng, mục đích cơ bản của các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông quận Bình Tân là làm cho cán bộ nhà trường, các thầy cô giáo và học sinh ý thức rõ ý nghĩa, vai trò của giáo dục đạo đức, tích cực huy động mọi sức lực và cố gắng; khai thác mọi điều kiện phương tiện hiện có để trang bị nhận thức, hình thành thái độ hành vi đạo đức đúng đắn cho học sinh. Các biện pháp được thể 24

27. thực hiện nghiêm túc trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. 1.2.1. Quản lý mục tiêu và kế hoạch giáo dục đạo đức Trong mọi hoạt động của con người, vấn đề xác định đúng và quán triệt sâu sắc mục tiêu trong quá trình thực hiện là điều kiện quyết định cho kết quả hoạt động. Giáo dục đạo đức là hình thành phẩm chất tâm lý cơ bản, có tính chất nền tảng cho đời sống con người thì việc xác định đúng và thực hiện nghiêm túc mục tiêu giáo dục đó đòi hỏi phải có nhận thức đúng, có biện pháp tổ chức thực hiện kiên trì bền bỉ mới thành công. Quản lý mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh phải bắt đầu từ xây dựng mục tiêu một cách phù hợp. Đó là những phẩm chất cần có và có thể đạt được của học sinh trong môi trường giáo dục nhà trường, phù hợp với đặc điểm học sinh và điều kiện kinh tế – xã hội địa phương. Khi xây dựng mục tiêu giáo dục đạo đức trước hết phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng về nguồn lực con người, về những chủ trương phát triển giáo dục, nhất là những quan điểm về đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo đã được đề cập trong Nghị quyết đại hội lần thứ X và XI của Đảng. Trên cơ sở những tư tưởng, quan điểm cơ bản của Đảng, căn cứ quan trọng khác trong xây dựng mục tiêu giáo dục đạo đức phải là mục tiêu giáo dục quốc gia đã được xác định cho từng cấp học, bậc học, được các cơ quan quản lý giáo dục đào tạo địa phương triển khai. Khi cụ thể hóa mục tiêu giáo dục của mỗi trường cần phải tính đến các điều kiện thực hiện, những đặc điểm kinh tế xã hội địa bàn để phản ánh được nét độc đáo của địa phương, vừa thuận lợi cho tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục của nhà trường. Như vậy, quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh vừa phấn đấu đạt được các tiêu chí chung của cả nước, vừa chứa đựng những giá trị riêng, phản ánh điều kiện và đặc điểm riêng của nhà trường. 26

28. Trên cơ sở xác định và cụ thể hóa mục tiêu giáo dục đạo đức, việc xây dựng kế hoạch thực hiện các hoạt động giáo dục là nhiệm vụ quan trọng tiếp theo của quản lý. Đây là việc xác định những nhiệm vụ, những công việc cụ thể để đạt được mục tiêu. Từng công việc, nhiệm vụ giáo dục phải xác định rõ người chủ trì, lực lượng tham gia, các mốc thời gian hoàn thành, điều kiện, phương tiện bảo đảm cho các hoạt động giáo dục. Trong kế hoạch cần xác định cả những cách thức và tiêu chí đánh giá kết quả giáo dục từng giai đoạn nói chung cũng như đánh giá mức độ hoàn thành từng công việc, nhiệm vụ. 1.2.2. Tổ chức quá trình thực hiện kế hoạch đạt mục tiêu đề ra Thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức là hoạt động giáo dục cơ bản trong mối quan hệ với các hoạt động giáo dục đào tạo chung của nhà trường. Thực tế cho thấy, các thầy cô thường chú trọng trang bị kiến thức, quan tâm nhiều đến kết quả nắm kiến thức, kỹ năng theo chương trình đào tạo nhiều hơn. Trong khi đó, giáo dục phẩm chất, trong đó có giáo dục đạo đức phải hướng vào rèn luyện biến kiến thức, kỹ năng thành thế giới qua, niềm tin, phẩm chất nhân cách ổn định của học sinh thì chưa được chú trọng. Vì thế, vai trò của quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là phải làm cho các thầy cô thực sự hiểu “dạy chữ để dạy người”, luôn có ý thức và có biện pháp tiếp tục kết quả tiếp thu kiến thức thành phẩm chất đạo đức của học sinh một cách hiệu quả. Cùng với nhận thức đúng yêu cầu giáo dục đạo đức, công tác quản lý phải bố trí lực lượng phù hợp, phân công trách nhiệm rõ ràng; bảo đảm các điều kiện về môi trường tự nhiên và xã hội; bảo đảm các phương tiện, kinh phí để các hoạt động giáo dục diễn ra đúng kế hoạch đã xác định. Cần lưu ý vấn đề môi trường trong giáo dục đạo đức rất quan trọng, tác động ảnh hưởng mạnh mẽ, có khi làm sai lệch kết quả giáo dục. Do đó cần quan tâm đúng mức đến xây dựng và tổ chức môi trường giáo dục. Trước hết, môi trường sư phạm trong nhà trường phải thân thiện với học sinh, luôn 27

29. hướng học sinh đến các giá trị thẩm mỹ, hình thành ý thức bảo vệ môi trường sống, có tình yêu nhà trường, kính trọng thầy cô sâu sắc. Công tác quản lý còn phải có những biện pháp hiệu quả xây dựng và duy trì mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình học sinh, với các tổ chức xã hội trên địa bàn để môi trường mà các em học sinh được tiếp xúc đều có tác động giáo dục đạo đức cho học sinh. 1.2.3. Tổ chức quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cho học sinh Học sinh không chỉ là đối tượng của các tác động giáo dục mà còn là chủ thể của quá trình hình thành, rèn luyện các phẩm chất đạo đức. Tổ chức tốt hoạt động tự tu dưỡng, tự rèn luyện của học sinh là đề cao vai trò chủ thể, là biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Công việc này không chỉ đòi hỏi các thầy cô giáo phải có những biện pháp sư phạm hiệu quả mà còn đỏi hỏi công tác tổ chức quản lý phải có cách làm hiệu quả. Để giúp học sinh có ý thức và tích cực tự tu dưỡng rèn luyện đạo đức, công tác quản lý phải làm cho thầy cô thực sự tôn trọng nhân cách học sinh, luôn tạo điều kiện cho học sinh có cơ hội và có đủ điều kiện tự thể hiện mình trước tập thể. Các nội dung giáo dục đạo đức phải được phân tích kỹ càng, thấy rõ những nội dung nhận thức lý luận cần thầy cô chỉ bảo hướng dẫn; những nội dung cần trải qua thực hành trong cuộc sống để tổ chức cho học sinh trải nghiệm. Từ đó, xây dựng kế hoạch giáo dục đan xen và luân phiên giữa nâng cao nhận thức với trải nghiệm hành động thực tiễn. Để phát huy có hiệu quả vai trò chủ thể của học sinh trong giáo dục đạo đức, công tác quản lý còn phải đặc biệt chú trọng xây dựng tập thể học sinh. Giáo viên các môn học là lực lượng phối hợp; giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp tổ chức các hoạt động tập thể học sinh. Đặc biệt là, vai trò của Đoàn thanh niên trong nhà trường. Công tác quản lý cần thông qua các 28

30. tập thể lớp học sinh, thông qua tổ chức các hoạt động đoàn để rèn luyện tính tập thể, lồng ghép các nội dung giáo dục đạo đức vào các hoạt động thập thể một cách hiệu quả. 1.2.4. Tổ chức và quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh trong giáo dục đạo đức Kiểm tra và điều chỉnh trong mọi hoạt động giáo dục đều là khâu chủ yếu để phát hiện kịp thời, điều chỉnh một cách hiệu quả mọi sai lệch của quá trình giáo dục đối với mục tiêu đã đề ra ban đầu. Trong giáo dục đạo đức, công tác kiểm tra đánh giá là một nhiệm vụ khó khăn của công tác quản lý vì, đánh giá thái độ, phẩm chất của một con người là một quá trình lâu dài, thông qua nhiều biểu hiện trong thực tiễn cuộc sống. Không giống như kiểm tra, đánh giá kiến thức của thầy cô, đánh giá kết quả giáo dục đạo đức là đánh giá giá tiếp thông qua những biểu hiện. Do đó không thể dựa vào đánh giá chủ quan của cá nhân; không thể căn cứ vào một vài biểu hiện bên ngoài đơn giản và nhất là không được kết luận phiến diện vội vàng. Cần có chiến lược tổ chức chu đáo, có sự phân công theo dõi thường xuyên, đồng thời có sự phân tích xem xét mỗi hiện tượng, kết luận về từng con người một cách thấu đáo. Người được phân công kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức học sinh phải được lựa chọn, huấn luyện về kỹ năng, phương pháp đầy đủ. Mặt khác, cần có biện pháp xây dựng những tiêu chí đánh giá một cách khoa học, bảo đảm tính công bằng, công khai và khách quan. Các kết quả kiểm tra đánh giá kết quả cần phải được xem xét trong điều chỉnh nội dung, phương pháp giáo dục. Đây không chỉ là công việc của thầy cô mà quan trọng là các biện pháp triển khai của công tác quản lý. Thầy cô có thể kịp thời điều chỉnh những tác động cụ thể của từng học sinh, của một nhóm. Nhưng công tác quản lý phải quan tâm tình hình chung. Trên cơ sở 29

31. những thông tin thu thập được qua kiểm tra, đánh giá tình hình, công tác quản lý cần phân tích kỹ, phát hiện những dấu hiệu chung, tìm ra nguyên nhân của tình hình để có nhận định khái quát mới có thể có quyết định quản lý phù hợp nhằm điều chỉnh, bổ sung, tăng cường về nội dung, về phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh. * * * Tóm lại, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay của đất nước ta đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực, Đảng và Nhà nước ta coi trọng vấn đề con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trường học có đóng góp rất lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Nội dung của giáo dục đạo đức là góp phần hướng tới sự phát triển con người, phát triển nhân cách của từng học sinh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất lượng giáo dục đạo đức có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục của các nhà trường đặc biệt là trường trung học phổ thông – nơi đào tạo nguồn nhân lực cơ bản cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn đưa ra được những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông thì trước tiên cần phải làm sáng tỏ, đánh giá một cách đúng đắn thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trong mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng. Chính vì vậy ở chương 2 của luận văn chúng tôi sẽ tập trung làm rõ thực trạng biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trên địa bàn quận Bình Tân . 30

32. Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN 2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội và giáo dục tại địa bàn quận Bình Tân 2.1.1. Đặc điểm địa lý quá trình phát triển quận Bình Tân Quận Bình Tân là đô thị mới được thành lập bao gồm 10 phường theo nghị định 130/NĐ-CP ngày 05/11/2003 của Chính Phủ, từ huyện Bình Chánh trước đây. Trong những năm gần đây tốc độ đô thị hoá diễn ra khá nhanh, có phường hầu như không còn đất nông nghiệp. Hiện nay, nhiều mặt kinh tế – xã hội của quận phát triển nhanh theo hướng đô thị. Về vị trí địa lý, quận Bình Tân là vùng mới được đô thị hóa từ khu vực nông nghiệp – nông thôn. Mật độ dân cư bình quân năm 2003 là 5.115 người/km2 , nơi có mật độ dân cư đông nhất là phường An Lạc A(16.680 người/km2 ) và thấp nhất là phường Tân Tạo (1.592 người/km2 ). Dân cư phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các phường có tốc độ đô thị hoá nhanh như: An Lạc A, Bình Hưng Hoà A, Bình Trị Đông. Trên địa bàn quận Bình Tân có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Kinh chiếm 91,27% so với tổng số dân, dân tộc Hoa chiếm 8,45%, còn lại là các dân tộc Khơme, Chăm, Tày, Thái, Mường, Nùng, người nước ngoài… . Tôn giáo có Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hoà Hảo, Hồi Giáo… trong đó Phật giáo chiếm 27,26 % Tình hình an ninh trong trường học trên địa bàn các năm qua bảo đảm tốt, không xảy ra các vụ tệ nạn hay mất mát tài sản nào. Tỷ lệ học sinh cấp trung học phổ thông bỏ học dao động từ 1% đến 2.5 %. Số học sinh bỏ học là do chuyển 31

34. ra ở quận Bình Tân và có chiều hướng ngày càng gia tăng, vì vậy những nhà quản lý giáo dục cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này đặc biệt là việc nghiên cứu quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận. Cho đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm để rút ra những kết luận khoa học về việc nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận. 2.1.2. Tình hình phát triển các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân Quận Bình Tân là Quận được tách ra từ Huyện Bình Chánh nằm ở khu vực phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Là quận mới thành lập nhưng tốc độ phát triển về kinh tế xã hội rất nhanh và mạnh. Đầu tư cho giáo dục được đặc biệt ưu tiên: hệ thống trường trung học phổ thông năm học 2003- 2004 và 2004-2005 (mới tách Quận) là 1 trường trung học phổ thông An Lạc và 9 trường trung học phổ thông Tư thục, Dân lập…với cơ sở vật chất tạm được. Năm học 2007-2008 Quận đầu tư xây mới 1 trường: Trung học phổ thông Vĩnh Lộc trong Dự án khu dân cư mới Vĩnh Lộc, trường tuy mới xây nhưng chất lượng chưa thật sự tốt. Năm học 2010-2011 Quận đầu tư xây mới 1 trường: Trung học phổ thông Nguyễn Hữu Cảnh, cơ sở vật chất tốt, rộng rãi, thoáng mát. Tuy còn một số hạn chế như: Mới thành lập, chất lượng học sinh đầu vào tương đối thấp, nhưng sau quá trình đào tạo kết quả đạt được cũng rất khả quan về học tập như: Tỉ lệ lên lớp và tốt nghiệp trên 95%, tỉ lệ đậu đại học và cao đẳng tương đối cao. Bên cạnh đó số học sinh có hạnh kiểm yếu và trung bình còn nhiều. 33

35. 2.2. Thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân 2.2.1. Nhận thức của cán bộ quản lý và giáo viên và của học sinh Nhận thức của cán bộ quản lý và giáo viên Qua khảo sát cho thấy: Hầu hết cán bộ quản lý và giáo viên nhà trường đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh khi cho ở mức độ rất quan trọng với các nội dung: Giáo dục đạo đức để phát triển giáo dục toàn diện cho học sinh (84.1%); Giáo dục đạo đức nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách cho học sinh (75.0%)…Tuy nhiên, vẫn còn có những cán bộ quản lý và giáo viên hiểu một cách chưa đầy đủ về ý nghĩa của công tác này khi cho một số nội dung là không quan trọng như: Giáo dục đạo đức để học sinh có ý thức bảo vệ môi trường (11.1%); Giáo dục đạo đức để học sinh có ý thức giữ gìn của công (11.1%)… do đó phần nào có ảnh hưởng tới quá trình triển khai, tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh của nhà trường. Nhận thức của phụ huynh Qua khảo sát: 100% phụ huynh đồng ý nội dung về giáo dục đạo đức để học sinh trở thành những con ngoan, trò giỏi; 82.4% phụ huynh đồng ý nội dung về giáo dục đạo đức là để phát triển giáo dục toàn diện cho học sinh; 80.9% phụ huynh đồng ý nội dung về giáo dục đạo đức để tạo nên những đức tính và phẩm chất tốt đẹp cho học sinh. Như vậy, phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Đây là yếu tố thuận lợi cho trường trong triển khai công tác giáo dục đạo đức học sinh. Nhận thức của học sinh Hầu hết học sinh cho rằng cần và rất cần các phẩm chất mà nội dung giáo dục đạo đức mang lại: Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và yêu chuộng hòa bình (100%); Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm, lao động cần cù, sáng tạo… (77.2%); Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng (72.0%). Đây là yếu tố quan 34

36. trọng để học sinh chủ động, tích cực tham gia vào quá trình giáo dục và rèn luyện đạo đức của nhà trường. Tuy nhiên cũng còn có một số không nhỏ cho là không cần các nội dung giáo dục đạo đức ở trên. Qua đó cho thấy rằng cần phải tuyên truyền hơn nữa để nâng cao nhận thức của học sinh về giáo dục, rèn luyện đạo đức. Qua khảo sát cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh thấy ý thức thực hiện nội quy của học sinh còn chưa tốt như: nghỉ học, trốn tiết, lười học bài cũ, gian lận trong kiểm tra vi phạm ở mức cao. Nhiều học sinh vi phạm các điều cấm như: hút thuốc, uống rượu, bia, trộm cắp, đánh bạc, đánh nhau, vi phạm luật giao thông. Nguyên nhân vi phạm nội quy của học sinh Nguyên nhân dẫn tới việc học sinh vi phạm đạo đức là do: Thiếu sự quan tâm của gia đình (90.4%); bản thân học sinh không có sự rèn luyện tốt ( 82.5%); Tác động tiêu cực của bạn bè (77.7% ); Sự ảnh hưởng của khoa học công nghệ: điện thoại, internet, games…(68.2%)… Đây thực sự là vấn đề rất đáng quan tâm của cán bộ quản lý để xem lại các biện pháp giáo dục đạo đức của nhà trường. 2.2.2. Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân Qua khảo sát thấy các biện pháp tác động đến rèn luyện đạo đức học sinh ở mức độ quan trọng và rất quan trọng như: Sự động viên khích lệ của bạn bè (99.2%); Khen thưởng, kỷ luật kịp thời (96.8%); Nội dung giáo dục phù hợp (96.0%); Sự quan tâm thường xuyên của các thầy cô giáo ( 96.0%); Không bị định kiến của xã hội ( 92.8%); được gia đình hiểu, tạo điều kiện ( 91.2%); và cuối cùng là được tự do trong mọi hoạt động (77.6%). Các nhà quản lý cần xem xét cụ thể các yếu tố tác động ở trên để đưa ra các nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục đạo đức cho phù hợp. 35

37. Về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý công tác giáo dục đạo đức qua khảo sát thấy: Thiếu sự phối hợp với các tổ chức đoàn thể xã hội ở địa phương (70.5%); Thiếu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình (68.2%); Tác động tiêu cực của môi trường xã hội (54.5%); Phẩm chất, lối sống của thầy, cô, cha mẹ, bạn bè…(54.5%) Tuy nhiên những yếu tố như: Không có chuẩn đánh giá đạo đức học sinh lại có tới 54.5% không đồng ý và 11.4% còn phân vân; yếu tố: Không khen thưởng, trách phạt kịp thời là 40.9% không đồng ý và 13.6% còn phân vân. 2.2.3. Đánh giá tình hình giáo dục đạo đức cho học sinh Ưu điểm Đa số học sinh các trường trung học có nhận thức đúng đắn về các chuẩn mực đạo đức, trong đó chuẩn mực đạo đức truyền thống giữ vai trò nền tảng; đó là lòng nhân ái, yêu quê hương đất nước, quí trọng tình cảm gia đình, thầy cô, sẵn sàng giúp đỡ người khác, biết kính trên nhường dưới, có ý thức tuân thủ pháp luật, thực hiện các qui định cộng đồng. Các em đã vươn lên tự khẳng định mình trong học tập và trong cuộc sống, có lối sống lành mạnh, ham học hỏi, có hoài bão, có ước mơ cao đẹp. Nhiều học sinh nỗ lực phấn đấu, không ngừng rèn luyện để nâng cao phẩm chất, nhân cách, năng lực để trở thành người học sinh toàn diện về đức- trí-thể-mĩ. Khuyết điểm Những năm gần đây, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông vẫn còn nhiều bất cập. Vẫn còn nhiều giáo viên khi lên lớp chủ yếu dạy kiến thức, làm sao truyền thụ hết nội dung kiến thức trong bài học mà ít quan tâm đến việc liên hệ thực tế, quan tâm đến giáo dục rèn luyện kỹ năng cho học sinh, coi nhẹ ý thức tổ chức kỉ luật, thói quen, hành vi của học sinh. Ngay trong đối tượng học sinh có một bộ phận không nhỏ học sinh chơi bời 36

38. hư hỏng, lười học, vô lễ với thầy cô giáo, vi phạm nội quy nhà trường, tham gia vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, lô đề… Nguyên nhân Một số cán bộ quản lý, cùng một bộ phận, giáo viên trong nhà trường còn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và sự cần thiết phải giáo dục đạo đức cho học sinh, cũng như việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức, nên chưa tích cực tìm ra các biện pháp hữu hiệu để thực hiện mối quan hệ phối hợp đó. Còn một bộ phận không nhỏ học sinh yếu về đạo đức và yếu kém về cả học lực là do bản thân học sinh chưa tích cực tu dưỡng, rèn luyện. Do vậy các đối tượng học sinh này thường thiếu hụt về tri thức văn hóa, những chuẩn mực đạo đức, những quy tắc quy định của xã hội, nhận thức sai lệch về những tri thức ứng xử với gia đình và xã hội. Các em không tự nhận thức được về nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với gia đình và xã hội, sống buông thả, tùy tiện, lí tưởng mờ nhạt không xác định được phương hướng phấn đấu cho bản thân. Ngoài ra còn có nguyên nhân từ đặc điểm tâm lí lứa tuổi, các yếu tố về tâm sinh lý của tuổi học sinh trung học phổ thông: Sôi nổi, bồng bột, nhạy cảm, dễ dao động, dễ mất thăng bằng, dễ bị cám dỗ dẫn đến không điều chỉnh được hành vi của mình, a dua đua đòi học theo cái xấu, tiêu cực rơi vào tình trạng cực đoan. Những vấn đề nêu trên nếu không được nhà trường, gia đình và xã hội phát hiện sớm để kết hợp chặt chẽ giáo dục, định hướng thì việc suy thoái về tư cách đạo đức sẽ là điếu tất yếu xảy ra. 2.3. Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông 2.3.1. Xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức Qua khảo sát lấy ý kiến của cán bộ quản lý và giáo viên nhà trường cho thấy: 81.7% cho rằng đã làm tốt việc xác định mục tiêu giáo dục đạo đức, chỉ có 18.2% cho rằng việc xác định mục tiêu giáo dục đạo đức chưa tốt; 84.1% 37

39. cho rằng việc xây dựng kế hoạch cụ thể của năm học và từng học kỳ được làm tốt, chỉ có 15.9% cho là làm chưa tốt. 2.3.2. Tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức Khảo sát cán bộ quản lý và giáo viên thấy: Tất cả các nội dung công việc của công tác giáo dục đạo đức đều được tổ chức, chỉ đạo thực hiện nhưng chỉ ở mức trung bình, chưa làm tốt. Việc tuyên truyền công tác giáo dục đạo đức đối với phụ huynh đã được nhà trường thực hiện nhưng chủ yếu là từ Ban Giám hiệu (95.7%) và giáo viên chủ nhiệm lớp (85.7%) qua các cuộc họp phụ huynh đầu năm, hết học kỳ và cuối năm chứ không phải từ học sinh hay các phương tiện thông tin đại chúng. Do đó những thông tin về giáo dục đạo đức của nhà trường chỉ mang tính thời vụ, không thường xuyên và liên tục nên hiệu quả không được cao. Quản lý nội dung, hình thức hoạt động giáo dục đạo đức Kết quả khảo sát cho ta thấy: 50% giáo viên và 58.7% học sinh đánh giá hình thức: Giáo dục thông qua các giờ dạy văn hoá trên lớp có mức độ thường xuyên. Còn lại các hình thức khác mức độ thường xuyên rất thấp, chủ yếu thi thoảng mới thực hiện hoặc không thực hiện. Như vậy nhà trường chưa thực sự quan tâm đến việc thực hiện các nội dung, hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh. Tuy vậy, học sinh thích và rất thích các nội dung và hình thức giáo dục đạo đức của nhà trường như: Giáo dục thông qua hoạt động tham quan, du lịch, cắm trại có 92.0%; giáo dục thông qua hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí có 91.6%. Tuy nhiên có những hình thức giáo dục có số ý kiến học sinh không thích tham gia ở mức cao như: Giáo dục thông qua lao động, vệ sinh trường sở, hướng nghiệp (25.3%); giáo dục thông qua hoạt động chính trị xã hội nhân đạo (18.0%); Giáo dục thông qua các buổi tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng (16.4%). Do đó các nhà quản lý cần hết sức lưu ý để đưa ra 38

40. những hình thức giáo dục phù hợp với sở thích của các em để có kết quả giáo dục cao. Quản lý phương pháp giáo dục đạo đức Qua khảo sát chúng tôi thấy giáo viên nhà trường chưa thường xuyên sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh như: Kích thích tình cảm và hành vi: thi đua, nêu gương, khen thưởng, trách phạt, phê phán hành vi xấu, kỷ luật,… (giáo viên là 75.0%, học sinh là 57.6%); tác động vào nhận thức tình cảm: đàm thoại, tranh luận, kể chuyện, giảng giải, khuyên răn… (giáo viên là 63.6%, học sinh là 42.4%); và phương pháp về tổ chức hoạt động thực tiễn: giao việc, rèn luyện, tập thói quen…(giáo viên là 50.0%, học sinh là là 39.6%). Như vậy việc quản lý thực hiện các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh của giáo viên nhà trường vẫn chưa được thực hiện tốt. 2.3.3. Kiểm tra đánh giá giáo dục đạo đức Qua khảo sát thấy: Có 63.4% cho rằng việc xây dựng được chuẩn kiểm tra đánh giá là tốt; 54.5% cho rằng nội dung, đối tượng, thời gian kiểm tra đánh giá cụ thể là tốt và thông báo công khai và xử lý kết quả kiểm tra đánh giá có 46.8% cho là tốt. Không có ý kiến nào cho là không thực hiện. 2.3.4. Thực trạng vai trò của các lực lượng giáo dục đạo đức Ý kiến cho vai trò rất quan trọng của lực lượng giáo dục đạo đức trong nhà trường đó là giáo viên chủ nhiệm (100%), cán bộ quản lý (95.5%), giáo viên bộ môn và Đoàn thanh niên là (91.2%), bạn bè thân (89.1%) và tập thể lớp (88.6%). Như vậy có thể thấy là vai trò của các thầy cô giáo, cán bộ quản lý và bạn bè, tập thể học sinh là những lực lượng rất quan trọng trong giáo dục đạo đức học sinh. 39

41. 2.3.5. Thực trạng sự phối hợp của các lực lượng trong công tác giáo dục đạo đức học sinh Qua khảo sát cho thấy: giáo viên chủ nhiệm thường xuyên phối hợp với tập thể lớp (81.8%), cán bộ quản lý với giáo viên chủ nhiệm (50.0%). Còn lại hầu hết đều ở mức độ thỉnh thoảng phối hợp. Như vậy có thể thấy nhà trường chưa có cơ chế phối hợp giáo dục giữa các lực lượng để giáo dục đạo đức cho học sinh. 2.3.6. Đánh giá tình hình quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh Ưu điểm Ban Giám hiệu đã quan tâm và có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh, đã có những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh việc nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên, nhà trường đã tổ chức nhiều hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh với nội dung phù hợp thông qua các buổi mít tinh kỉ niệm các ngày lễ lớn, tổ chức giao lưu, thi tìm hiểu, tham quan, giáo dục pháp luật, ý thức công dân, giáo dục kĩ năng sống, phòng chống các tệ nạn xã hội, nêu gương người tốt việc tốt… Thành lập câu lạc bộ tư vấn kỹ năng sống cho học sinh, câu lạc bộ Toán học, câu lạc bộ Văn học, câu lạc bộ thể dục thể thao…. Đã thu hút nhiều học sinh tham gia và thực sự trở thành hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả. Khuyết điểm Sự phối hợp các lực lượng giáo dục, đặc biệt là nhà trường với gia đình học sinh, các tổ chức và lực lượng ngoài xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh còn yếu, chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, thường chỉ mang nặng tính hành chính, kém hiệu lực. Hơn thế nữa việc kiểm tra đánh giá không được tiến hành thường xuyên, việc khen thưởng, kỉ luật chưa đủ mạnh để động viên khuyến khích mọi lực lượng xã hội cùng tham gia. 40

42. Nguyên nhân Nhà trường giữ vai trò giáo dục trung tâm, then chốt trong phối hợp ba môi trường giáo dục, nhưng lại chưa phát huy được vai trò chủ động trong việc tập hợp các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường, chưa xây dựng được kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội, nên việc giáo dục đạo đức cho học sinh của nhà trường còn tách rời, đơn phương, thiếu nội dung và biện pháp thống nhất, không hỗ trợ được cho nhà trường trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh, thậm chí còn làm suy giảm những nội dung giáo dục từ phía nhà trường. Có những học sinh gia đình khá giả, bố mẹ có chức có quyền, có mối quan hệ cấp trên ràng buộc với nhà trường, thì con em họ thường ỷ lại, lười học tập, rèn luyện, tu dưỡng, động cơ học tập kém, nhưng có thể lại được nhà trường hoặc các thầy cô giáo nâng đỡ, bỏ qua những lỗi vi phạm của học sinh, kết quả là học sinh đó ngày càng yếu kém về học tập và đạo đức. Công tác phối hợp giữa nhà trường và gia đình đơn điệu, mang nặng tính hình thức, chưa chú trọng đến hiệu quả. Ban đại diện hội phụ huynh học sinh của nhà trường có thành lập và có sự liên hệ về mặt tổ chức nhưng suốt năm học mối liên đó chỉ thể hiện ở ba kì họp phụ huynh học sinh: đầu năm, cuối học kì I và cuối năm học. Thông thường nội dung các kì họp chủ yếu thông báo về kết quả xếp loại hạnh kiểm, học lực của từng học sinh, thông báo các khoản đóng góp theo quy định. Vì thiếu thông tin thường xuyên nên phụ huynh muốn đóng góp ý kiến gì với nhà trường đều rất khó, chủ yếu đồng tình và thống nhất ý kiến là tất cả nhờ nhà trường, phụ huynh học sinh chấp hành đầy đủ mọi chủ trương, kế hoạch của nhà trường. Cán bộ quản lý xã hội còn tư tưởng coi giáo dục đạo đức là công việc riêng của nhà trường, nhà trường phải chịu mọi trách nhiệm về giáo dục đạo đức cho học sinh trước gia đình và xã hội, từ đó phó thác trách nhiệm cho nhà 41