Top 12 # Biện Pháp Tu Từ Của Bài Tây Tiến Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Soạn Bài Tây Tiến Của Quang Dũng

2. Tóm tắt nội dung bài thơ Tây Tiến

Tây Tiến là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đoàn binh Tây Tiến, về những người lính trẻ chiến đấu trong điều kiện vô cùng gian khổ mà sống lại quan, lãng mạn và vô cùng quả cảm.

Thiên nhiên Tây Bắc được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp.

Hình tượng người lính Tây Tiến hào hoa, dũng cảm:

Điều kiện sinh hoạt, chiến đấu của người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, tử vong vì bệnh tật nhiều hơn đánh trận.

Người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, những người lính trẻ ấy đã vượt lên khó khăn thử thách, sống lạc quan, lãng mạn với cốt cách hào hoa và chiến đấu thật dũng cảm.

2.2. Nghệ thuật

Bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi tráng đã làm nên vẻ đẹp độc đáo cho bài thơ.

Sáng tạo độc đáo về hình ảnh ngôn từ và giọng điệu (phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, đối lập để tô đậm cái phi thường, cái hùng vĩ và sự tuyệt mĩ).

3. Soạn bài Tây Tiến chương trình chuẩn

3.1. Soạn bài tóm tắt

Cậu 1: Nêu bố cục của bài thơ?

Bố cục bài thơ gồm 4 phần:

Phần 1 (Đoạn 1): Những kỉ niệm về con người và thiên nhiên miền Tây

Phần 2 (Đoạn 2): Cảnh và người miền Tây

Phần 3 (Đoạn 3): Nhớ về người lính trong đoàn binh Tây Tiến

Phần 4 (Đoạn 4): Lời hẹn ước

Câu 2: Nét đặc sắc của bức tranh thiên nhiên và hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên trong đoạn thơ như thế nào?

Hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội.

Hình ảnh những người lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa.

⇒ Nỗi mất mát lớn lao mà các anh để lại.

Câu 3: Bức tranh thiên nhiên ở đoạn 2?

Mang một vẻ đẹp khác so với đoạn thơ trên, bổ sung thêm cho bức tranh Tây Tiến thêm hoàn mĩ với những màu sắc đầy ấn tượng, khó quên.

Câu 4: Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên ở đoạn thơ thứ 3 như thế nào?

Hình ảnh người lính được miêu tả một cách trần trụi: không mọc tóc, sức khỏe yếu vi bị sốt rét quật ngã, nhưng lại một lòng hướng về hậu phương “dáng kiều thơm”.

Câu 5: Nỗi nhớ Tây Tiến trong đoạn 4?

Khi rời khỏi đoàn quân Tây Tiến, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng đã viết nên bài thơ Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ của nhân vật trữ tình về chiến trường xưa cùng những người đồng đội cũ một thời đã đồng lòng đồng sức chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

3.2. Soạn bài chi tiết

Câu 1: Theo văn bản, bài thơ có 4 đoạn. Nêu ý chính của mỗi đoạn và chỉ ra mạch liên kết giữa các đoạn.

Bố cục bài thơ gồm 4 phần:

Phần 1 (Đoạn 1): Nỗi nhớ về con người, thiên nhiên miền Tây hùng vĩ trên chặng đường hành quân gian khổ.

Phần 2 (Đoạn 2): Nhớ kỉ niệm ấm áp tình quân dân và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

Phần 3 (Đoạn 3): Nhớ hình tượng người lính Tây Tiến.

Phần 4 (Đoạn 4): Khúc vĩ thanh nhớ nhung về miền Tây và Tây Tiến (Lời thề và lời hẹn ước).

Mạch liên kết giữa các đoạn văn chính là nỗi nhớ rất tự nhiên của nhà thơ về một chiến trường và những đồng đội một thời đánh giặc vô cùng gian khổ mà rất đỗi hào hùng. Nỗi nhớ ấy đã “xâu chuỗi” các ý thơ trong từng đoạn với nhau để thành bài ca Tây Tiến của một thời kỳ lịch sử không thể nào quên: từ nhớ khung cảnh chiến trường rồi nhớ đến những vùng đất đã đi qua đầy kỉ niệm, cuối cùng hội tụ lại trong chân dung người lính Tây Tiến mà hồn các anh vẫn gắn bó mãi mãi với mùa xuân của chiến trường đánh giặc đã đi vào lịch sử của dân tộc.

Câu 2: Nét đặc sắc của bức tranh thiên nhiên được vẽ ra ở đoạn thơ thứ nhất? Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện ra trên nền cảnh thiên nhiên ấy như thế nào?

Bức tranh thiên nhiên

Khung cảnh chiến trường Tây Tiến vừa hùng vĩ, dữ dội, lại vừa thơ mộng, trữ tình. Bên cạnh núi rừng hiểm trở với độ cao rợn người là một mái nhà thấp thoáng ẩn hiện trong màn mưa mỏng nơi lưng chừng núi, bên cạnh vùng đất hoang dại chứa đầy bí ẩn ghê gớm của rừng thiêng với thác gầm thét, với cọp trêu người là một bản làng có cơm lên khói, có mùi thơm nếp xôi và những cô gái xinh đẹp như những bông hoa rừng.

Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến

Hồn nhiên, tinh nghịch: súng ngửi trời (chất lính ).

Gan góc, kiên dũng trên nền thiên nhiên dữ dội và bí ẩn: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét / Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người“.

Coi cái chết nhẹ nhàng: gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Có sự hòa hợp thật đáng yêu trong tình quân dân kháng chiến: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói / Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

⇒ Bằng bút pháp hiện thực và trữ tình đan xen, đoạn thơ đã dựng lại con đường hành quân giữa núi rừng Tây Bắc hiểm trở. Ở đó đoàn quân Tây Tiến đã trải qua cuộc hành quân đầy gian khổ nhưng cũng ấm áp tình người.

Câu 3: Đọan thơ thứ hai lại mở ra một thế giới khác với những vẻ đẹp mới của con người và thiên nhiên miền Tây, khác với cảnh vật ở đoạn thơ thứ nhất. Hãy phân tích để làm rõ vẻ đẹp ấy.

Hình ảnh thơ không còn dữ dội mà đậm màu sắc trữ tình, thơ mộng với 2 khung cảnh khác nhau: Cuộc liên hoan ở doanh trại và cuộc tiễn đưa lên đường đi Châu Mộc trong một chiều sương.

Cảnh liên hoan trong doanh trại của bộ đội và dân địa phương, cảnh rực rỡ, lung linh của đêm liên hoan được cảm nhận với niềm say mê, hào hứng tột độ của người lính. Người lính sau những cuộc hành quân vất vả có những giây phút tưng bừng.

Cảnh tiễn đưa trên sông trong chiều sương. Cảnh vật trở nên có hồn và đầy quyến luyến, tình tứ tạo cho bài thơ có nét đẹp. Nổi bật là hình ảnh “dáng người trên độc mộc” nét đẹp rắn rỏi, khỏe khoắn cho bài thơ Tây Tiến thơ mộng, mềm mại, mơ màng.

Chất thơ và chất nhạc hoà quyện: không chỉ làm hiện lên vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cảnh và người hòa hợp, cái hồn thiêng liêng của cảnh vật.

Câu 4: Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến được tác giả tập trung khắc họa ở đoạn thơ thứ 3. Qua đó hãy làm rõ vẻ đẹp lãng mạn và chất bi tráng của hình ảnh người lính Tây Tiến.

Trên cái nền cảnh thiên nhiên hùng vĩ, mĩ lệ của chiến trường miền Tây, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp và đầy ấn tượng. Quang Dũng đã miêu tả rất chân thật về những người đồng đội của mình:

Khí thế dũng mãnh oai hùng: mắt trừng, dữ oai hùm → xây mộng chiến công, bảo vệ bình yên cho biên cương tổ Quốc.

Tâm hồn mơ mộng, lãng mạn, hào hoa: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

Bên trong cái dáng vẻ oai hùng, dữ dằn là trái tim, là tâm hồn khao khát yêu đương.

Tinh thần hi sinh quên mình vì Tổ quốc:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

⇒ Ngay chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể hiện, khẳng định được khí phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình.

Câu 5: Ở đoạn thơ thứ tư, nỗi nhớ Tây Tiến được diễn tả như thế nào? Vì sao nhà thơ viết “Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi”?

Nỗi nhớ Tây Tiến ở đoạn cuối được thể hiện một cách ám ảnh: Tây Tiến người đi không hẹn ước / ​Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Cách nói khẳng định: “không hẹn ước, một chia phôi” → diễn tả lời thề kim cổ: ra đi không hẹn ngày về, một đi không trở lại.

Thể hiện sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với những gì đã qua.

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

“Tây Tiến mùa xuân ấy”: đã trở thành một thòi điểm lịch sử không trở lại, thời của sự lãng mạn, mộng mơ và hào hùng.

“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”: nhà thơ dành tất cả trái tim mình cho đoòng đội, cho Tây Bắc.

⇒ Nhịp thơ chậm, buồn nhưng vẫn hào hùng: diễn tả sự gắn bó của nhà thơ với một thời lãng mạn.

4. Soạn bài Tây Tiến chương trình nâng cao

Các em tham khảo đáp án trên phần soạn bài chương trình chuẩn câu hỏi số 1.

Khung cảnh chiến trường vừa hùng vĩ, dữ dội lại vừa thơ mộng, trữ tình.

Đối lập giữa hai câu thơ về cả hình ảnh, nhịp điệu, thanh điệu:

Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống (hai thanh trắc ở cuối câu)

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi (thanh bằng – thanh ngang)

Thủ pháp nhân hóa, cường điệu: súng ngửi trời, cọp trêu người,…

Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện ra với vẻ dóm dỉnh, tinh nghịch.

Câu 3: Bức tranh thiên nhiên ở đoạn 2 và hình ảnh người lính Tây Tiến ở đoạn 4?

Các em tham khảo đáp án trên phần soạn bài chương trình chuẩn câu hỏi số 2 và 3.

Câu 4: Bút pháp của nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ?

Bút pháp lãng mạn.

Thủ pháp phóng đại, cường điệu, đối lập để tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội và cái thơ mộng, tuyệt mĩ.

So sánh với bút pháp của Chính Hữu trong bài đồng chí:

Áo anh rách vai

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng tán ướt mồ hôi

Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ

Áo bào thay chiếu anh về đất

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

⇒ Bút pháp của Chính Hữu là bút pháp tả thực.

5. Hướng dẫn luyện tập

Câu 1: Bút pháp của Quang Dũng trong bài thơ là bút pháp hiện thực hay lãng mạn? Phân tích, so sánh Tây Tiến với bài thơ Đồng chí của Chính Hữu để làm rõ bút pháp đó.

Gợi ý làm bài:

Bút pháp của Quang Dũng trong bài thơ là bút pháp lãng mạn (khác với Chính Hữu dùng bút pháp tả thực trong bài Đồng chí). Bút pháp lãng mạn là vượt lên trên thực tại (thường là khắc nghiệt) để vươn tới cái đẹp của lý tưởng, tìm cảm giác ở những nơi xứ lạ, phương xa hoặc thiên nhiên hùng vĩ, mĩ lệ, thơ mộng. Nhà thơ thường dùng các thủ pháp phóng đại, cường điệu, đối lập để tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội và cái thơ mộng, tuyệt mĩ.

Có thể thấy sự khác biệt trong bút pháp của của Quang Dũng và Chính qua sự so sánh sau:

Nét chung:

Tác giả: cả hai tác giả đều không chỉ là nhà thơ mà còn là những người chiến sĩ trực tiếp tham gia cuộc trường chinh của dân tộc. Bởi vậy, học viết về người lính cũng là viết về mình, thời đại mình, một cách chân thực, sống động, gần gũi.

Hoàn cảnh sáng tác: Đều là những tác phẩm ra đời trong kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh người lính trở thành trung tâm trong kháng chiến và trong sáng tác văn học. Các nhà văn tập trung miêu tả, phản ánh họ bằng tất cả sự ngợi ca, trân trọng, tự hào.

Hình ảnh người lính:

Hình ảnh người lính được khắc họa trong hiện thực gian khổ ác liệt.

Hình ảnh người lính với vẻ đẹp tâm hồn cao cả.

Tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường, bất khuất.

Sáng ngời tinh thần đồng đội.

Tâm hồn trẻ trung, lạc quan, phấn chấn.

Nét riêng:

Hoàn cảnh xuất thân:

Đồng chí: người lính xuất thân là những người nông dân, đi ra từ đồng quê, làng mạc.

Tây Tiến: Hầu hết họ là những thanh niên tri thức Hà Nội.

Chính do hoàn cảnh xuất thân mà chi phối cách biểu hiện của họ trong đời sống chiến đấu hằng ngày:

Đồng chí: có nét chất phác, hồn hậu, dung dị, mộc mạc.

Tây Tiến: Có nét tài hoa, lãng mạn, kiêu hùng, ngạo nghễ, tráng lệ.

⇒ Cả hai bài thơ đều có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, tuy ở mỗi bài, ưu thế của mỗi loại bút pháp lại nổi trội hơn, nhưng đều thể hiện sinh động và đẹp đẽ hình tượng người lính.

Câu 2: Qua bài thơ, anh (chị) hình dung như thế nào về chân dung người lính Tây Tiến?

a. Mở bài

Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.

Giới thiệu khái quát về hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ.

b. Thân bài

Những người lính trẻ Tây Tiến trong nỗi nhớ của Quang Dũng rất trẻ trung, lãng mạn, yêu đời:

Nhìn thiên nhiên dữ dội của Tây Bắc bằng tâm hồn trẻ (súng ngửi trời, oai linh thác, cọp trêu người…).

Thiên nhiên Tây Bắc tại điểm dừng chân qua đôi mắt trẻ đẹp, lãng mạn, thơ mộng đầy hấp dẫn (Mường Lát hoa về…; nhà ai Pha Luông…; mùa em thơm nếp xôi…).

Trong gian khổ luôn hướng về Hà Nội (gửi mộng qua biên giới, mơ Hà Nội dáng kiều thơm…).

Những người lính trẻ Tây Tiến trong nỗi nhớ của Quang Dũng đã trải qua những tột cùng khó khăn, thử thách, hi sinh mà vẫn chiến đấu quả cảm:

Hành quân vất vả trên Tây Bắc: hiểm trở dốc đèo cao, vực thẳm, nơi heo hút (dốc khúc khuỷu, thăm thẳm, ngàn thước lên – xuống…).

Hi sinh trên đường hành quân, nơi biên ải xa xôi, đối mặt với bệnh sốt rét (dãi dầu không bước nữa, mồ viễn xứ, về đất…).

Những người lính trẻ Tây Tiến trong nỗi nhớ của Quang Dũng được thể hiện bằng cảm hứng bi tráng với vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt:

Tư thế lớn lao trên đường hành quân: đoàn quân bất tận ẩn hiện trong điệp trùng núi, điệp trùng mây, khẩu súng trên vai người lính như chạm tới trăng sao (Đoàn quân đi trong sương lấp, súng ngửi trời…).

Hi sinh trong tư thế tuyệt đẹp (gục lên súng mũ bỏ lên đời, áo bào thay chiếu…).

Đoàn binh oai hùng mạnh mẽ, đầy chí khí ẩn chứa bên trong hình hài ốm yếu thể qua những hình ảnh thơ lạ độc đáo (chẳng tiếc đời xanh, đoàn binh không mọc tóc, dữ oai hùm, mắt trừng, khúc độc hành…).

c. Kết bài

Khái quát lại vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.

6. Một số bài văn mẫu về bài thơ Tây Tiến

So sánh tác phẩm Tây Tiến và Việt Bắc liên hệ với Từ ấy và Chiều tối

1. Tây tiến và việt bắc (liên hệ từ ấy / Chiều tôi

Phân tích tính lãng mạn và chất bi tráng trong Tây Tiến

hãy phân tích tính lãng mạn và chất bi tráng trong thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Cảm nhận về sự hi sinh của người lính Tây tiến

Nêu cảm nhận của em về sự hi sinh của người lính Tây tiến

Phân tích Tây Tiến

phân tích bài tây tiến của quang dũng

Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa của người lính Tây Tiến

Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa của người lính Tây Tiến được thể hiện ở đoạn thơ nào trong bài thơ Tây Tiến

Nghị luận văn học

Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Cái này là mình chỉ phân tích đoạn 3 tù “tây tiến đoàn binh ko mọc tóc…. sông mã gầm lên khúc độc hành.” thui phải ko, có cần ptich thêm 2 đoạn đầu ko ?

Bài 8: Các Biện Pháp Tu Từ Từ Vựng

I. CỦNG CỐ LÍ THUYẾT

Các biện pháp tu từ từ vựng: So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, điệp ngữ, chơi chữ, nói quá, nói giảm – nói tránh.

1. So sánh: Là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

VD: Trẻ em như búp trên cành

2. Nhân hoá: là cách dùng những từ ngữ vốn dùng để miêu tả hành động của con người để miêu tả vật, dùng loại từ gọi người để gọi sự vật không phải là người làm cho sự vật, sự việc hiện lên sống động, gần gũi với con người.

VD: Chú mèo đen nhà em rất đáng yêu.

3. ẩn dụ: Là cách dùng sự vật, hiện tượng này để gọi tên cho sự vật, hiện tượng khác dựa vào nét tương đồng (giống nhau) nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

VD: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.

4. Hoán dụ: Là cách dùng sự vật này để gọi tên cho sự

vật, hiện tượng khác dựa vào nét liên tưởng gần gũi nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

VD: Đầu bạc tiễn đầu xanh (Người già tiễn người trẻ: dựa vào dấu hiệu bên ngoài).

5. Điệp ngữ: là từ ngữ (hoặc cả một câu) được lặp lại nhiều lần trong khi nói và viết nhằm nhấn mạnh, bộc lộ cảm xúc…

VD: Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

6.Chơi chữ: là cách lợi dụng đặc sắc về âm, nghĩa nhằm tạo sắc thái dí dỏm hài hước.

VD:

7. Nói quá là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, qui mô, tính chất của sự vật, hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.

VD: Lỗ mũi mười tám gánh lông

Chồng khen chồng bảo râu rồng trời cho.

8 Nói giảm, nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.

Ví dụ:

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

II. Luyện tập

Bài tập 1: Phân biệt ẩn dụ, hoán dụ từ vựng học và ẩn dụ, hoán dụ tu từ học?

Gợi ý: 1.( 1điểm)

– ẩn dụ, hoán dụ từ vựng học là phép chuyển nghĩa tạo nên nghĩa mới thực sự của từ, các nghĩa này đư­ợc ghi trong từ điển.

– ẩn dụ, hoán dụ tu từ học là các ẩn dụ, hoán dụ tạo ra ý nghĩa lâm thời (nghĩa ngữ cảnh) không tạo ra ý nghĩa mới cho từ. Đây là cách diễn đạt bằng hình ảnh, hình t­ượng mang tính biểu cảm cho câu nói; Không phải là phư­ơng thức chuyển nghĩa tạo nên sự phát triển nghĩa của từ ngữ.

Bài tập 2: Biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ sau là gì ?

Người về chiếc bóng năm canh Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi .

( Truyện Kiều – Nguyễn Du )

A. ẩn dụ C. Tương phản

B. Hoán dụ D. Nói giảm , nói tránh .

Bài tập 3: Hai câu thơ sau sử dụng những biện pháp tu từ nào ?

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa”

A. Nhân hoá và so sánh C. ẩn dụ và hoán dụ.

B. Nói quá và liệt kê. D. Chơi chữ và điệp từ.

Bài tập 4: Hãy chỉ ra biện pháp tu từ từ vựng trong hai câu thơ sau:

Ngày ngày mặt trờ đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trog lăng rất đỏ.

Gợi ý: Phép tu từ ẩn dụ: Mượn hình ảnh mặt trời để chỉ Bác Hồ.

Biện Pháp Tu Từ Trong Khổ 2 Bài Từ Ấy

Nêu biện pháp tu từ trong khổ 2 bài thơ Từ ấy của Tố Hữu, chỉ ra và nêu tác dụng của các biện pháp tu từ trong khổ thơ thứ 2 của Từ ấy

Câu hỏi: Chỉ ra và nêu tác dụng nghệ thuật được sử dụng trong khổ thơ thứ 2 trong bài Từ ấy – Tố Hữu.

Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó vớI mọi người.

Biện pháp tu từ trong khổ 2 bài Từ ấy

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải khặp muôn nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

– Động từ “buộc”, “trang trải”: những hành động có tính tự nguyện .

“Buộc” ở đây không hề có nghĩa là bắt buộc, miễn cưỡng mà là tự rằng buộc, gắn bó tự giác, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam

“Buộc” và “trang trải”là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu.

“Để tình trang trải với trăm nơi”

– Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, “trang trải”-“trăm nơi” biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.

– “Bao hồn khổ”: tầng lớp đáng thương nhất trong xã hội đương thời, “để” gợi lên ý thơ chủ động sự gắn kết lòng mình với mọi người hòa làm một, chứa đựng nỗi thương xót tột cùng và sự đồng cảm sâu sắc đối với “đại gia đình” đang trong cảnh lầm than.

-“Khối đời”: hình ảnh ẩn dụ trừu tượng, thể hiện một khái niệm cuộc sống bao quát, gộp chung, không thể nhìn, cân đong đo đếm, nhưng lại gói ghém thành một sức mạnh phi thường, cụ thể hóa phi vật thể.

3 Bài Cảm Nhận Về Đoạn Thơ Sau Trong Bài Tây Tiến Của Quang Dũng: Tây

Em hãy nêu cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,…, Sông Mã gầm lên khúc độc hành” để hiểu hơn về cách viết bài cảm nhận về bài thơ Tây Tiến đồng thời nắm được những khó khăn, gian khổ, tinh thần lạc quan, yêu đời của các chiến sĩ cách mạng trên đường hành quân.

3 Bài văn mẫu Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

Mẹo Cách viết cảm nhận một tác phẩm thơ, văn chuẩn cấu trúc

1. Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”, mẫu số 1:

Viết về Tây Tiến – Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức. Và trong dòng hồi ức ấy nỗi nhớ đồng đội luôn xao động, gợi về những kỉ niệm, hình ảnh thân thương, tha thiết, sâu lắng. Ta bắt gặp dòng hoài niệm về đồng đội, về những tình cảm, nỗi lòng người lính Tây Tiến qua đoạn thơ:

Từ bối cảnh rừng núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu bài thơ đến đây hiện lên rõ nét hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Thoạt đầu, câu thơ tưởng như chỉ mang một chút ngang tàng, một chút đùa nghịch đầy chất lính, nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gieo neo, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến. Không mọc tóc – đó là hậu quà của những cơn sốt rét rừng run người làm tiều tụy, làm rụng hết cả tóc của các chiến sĩ. Rồi nước độc, rừng thiêng, bệnh tật hành hạ… tất cả như vắt kiệt sức lực khiến cho quân xanh màu lá…. Hai câu thơ cho ta thấy được hình ảnh rất thực của các chiến sĩ Tây Tiến khi phải đối phó với bệnh tật: ốm, xanh, rụng tóc… Nhưng không phải vì thế mà họ mất đi vẻ oai phong dữ dội “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…”

Đoàn quân mỏi, xanh tựa lá mà vẫn mang oai linh rừng thẳm. Mắt trừng lên dữ dội là để gửi mộng vượt biên cương và để “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Những người chiến sĩ Tây Tiến hầu hết là những chàng trai thị thành khoác áo lính dù ra đi chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh lịch, đa tình, một tâm hồn đầy thơ mộng. Mơ dáng kiều thơm là mơ dáng vẻ kiều diễm, quyến rũ, thanh lịch của những người bạn gái thủ đô ngàn năm văn hiến, có người cho rằng Quang Dũng viết câu thơ này là mộng rớt vì nó không phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Song thực chất đây là một tình cảm hết sức chân thật của người chiến sĩ, nó mang một ý nghĩa nhân văn chân chính bởi thể hiện ước mơ đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc đẩy người lính ra đi chiến đấu.

Cảm nhận về đoạn thơ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc trong bài Tây Tiến

Cả đoạn thơ bốn câu thì ba câu trên toàn nói về cái khác thường, oai dữ. Câu thơ thứ tư ngược lại đầy vẻ mềm mại, trữ tình, mơ mộng. Đoạn thơ khắc họa những hiện thực hết sức nghiệt ngã, nhưng lại không chỉ sử dụng phương pháp tả thực, mà thể hiện bằng bút pháp lãng mạn cho ta thấy hình ành của người lính không xanh xao, tiều tuỵ mà oai phong, dữ dội. Chữ nghĩa và bút pháp của Quang Dũng thật tài hoa. Các chữ không mọc tóc, dữ oai hùm, mắt trừng khắc họa rất sâu tư thế chủ động, vẻ kiêu hùng, ngang tàng của những chiến binh Tây Tiến. Hoàn cảnh gian khổ, những thử thách, gian nan của một miền Tây thâm u, hiểm trờ không làm cho những người lính Tây Tiên chùn bước, họ vẫn giữ ý chí, quyết tâm. Bên cái bi của hoàn cành vẫn trỗi lên cái tráng của ngoại hình và tinh thần. Bằng thủ pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hi sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…

Những người lính Tây Tiến không tiếc đời ra đi chiến đấu cho quê hương, không tiếc đời sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì “áo bào thay chiếu anh về đất”. Bằng hai chữ “áo bào”, nhà thơ đã nâng cao giá trị, đã tái tạo được vẻ đẹp cao quý. một vẻ đẹp như những người tráng sĩ xưa nơi những người Tây Tiến, vẻ đẹp ấy làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến trường. Rồi “anh về đất’, cái chết nhẹ như không, như về lại những gì thương ỵêu, thân thuộc ngày xưa. “Anh về đất là để sống mãi trong lòng quê hương, đất nước. Và sông Mã thay lời núi sông cất lên lời ai điếu bi hùng: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Nỗi đau thật dữ dội, chỉ một tiếng “gầm than trầm uất”, nỗi đau như dồn nén, quặn thắt từ bên trong. Không có nước mắt của đồng đội, chỉ có con sông Mã với nỗi đau cuộn chảy trong lòng, độc hành… chảy ngược vào tim.

Cả đoạn thơ nói đến cái chất thật bi mà cũng thật hùng. Những người lính Tây Tiến đã được nhà thơ khắc họa với nỗi nhớ thương tha thiết, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ đẹp của núi rừng.

Hình ảnh những người lính, tình cảm đồng đội, đồng chí vốn xuất hiện trong thơ ca kháng chiến. Ta vẫn thường bắt gắp những người lính chân chất, giản dị, gần gũi trong thơ Chính Hữu:

Hay trong bài thơ Hồng Nguyên:

Nhưng với Tây Tiến của Quang Dũng thì khác. Bài thơ đã khắc hoạ không phải lả những người lính xuất thân từ những người nông dân cày sâu cuốc bẫm mà là những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Với Tây Tiến, Quang Dũng đã đưa người đọc ngược lên một miền Tây thăm thẳm, nơi núi rừng, thiên nhiên mang nét đẹp hoang dại, hiểm trở. Và nỗi bật lên trên nền núi rừng miền Tây ấy là hình ảnh những người lính Tây Tiến vượt lên trên mọi khổ ải, gian lao, toả sáng ý chí anh hùng. Với tám câu thơ chan chứa niềm thương nỗi nhớ da diết, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại một thời Tây Tiến với biết bao đồng đội mến thương của nhà thơ… Tất cả đã giúp Quang Dũng tái tạo và khắc họa hình ảnh oai hùng về người lính Tây Tiến. Với bút pháp tài hoa và giàu tình, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh những chiến binh Tây Tiến không chỉ mang vẻ dữ dội, mãnh liệt mà còn mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng thật bi tráng. Và Tây Tiến không chỉ phổ đúng hồn thơ Quang Dũng má còn sáng lên chất thẩm mĩ hiếm thấy.

2. Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”, mẫu số 2:

Nói đến thơ ca kháng chiến chống Pháp chúng ta không thể không nhắc đến Quang Dũng-Một nhà thơ tài hoa được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây trắng”. Trong thơ Quang Dũng người đọc ấn tượng nhất khi khắc họa bức chân dung người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến vừa lẫm liệt, kiêu hùng vừa hào hoa lãng mạn thể hiện qua đoạn thơ

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt -Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”.

Trên cái nền hùng vĩ, dữ dội mà thơ mộng mĩ lệ của núi rừng Quang Dũng đã xây dựng bức tượng đài về người lính Tậy Tiến hiện lên vừa oai phong lẫm liệt, vừa lãng mạn hào hoa bằng bút pháp lãng mạn mà vẫn rất chân thực:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hai câu thơ mở đầu đã tạo nên ấn tượng trong lòng người đọc về vẻ đẹp bi tráng. Cái bi thương ấy gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da xanh như màu lá. Không phải là một người mà là cả một đoàn quân kì dị. Đoàn quân kì dị ấy lại được khắc họa bằng cái nhìn gân guốc bắt nguồn từ hiện thực đến từng chi tiết “không mọc tóc”, “xanh màu lá” là hiện thực mà người lính Tây Tiến phải trải chúng tôi lời kể của Quang Dũng thời kì đó bộ đội ta phải cạo trọc đầu để đánh giáp lá cà và dễ dàng trong sinh hoạt. Nhưng nguyên do quan trọng hơn cả chính là hậu quả của những ngày hành quân vất vả, đói rét, sốt rét rừng, những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn xuất hiện trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu:

“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnhSốt run người vầng trán đẫm mồ hôi”

Hay trong thơ ca kháng chiến chống Pháp chúng ta cũng không khó để bắt gặp những vần thơ:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tậtĐâu còn tươi nữa những ngày hoa”

Bên cạnh hình ảnh bi thương chính là vẻ đẹp hào hùng của những người lính Tây Tiến được thể hiện trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập giữa thân hình ốm yếu và tâm hồn bên trong làm nên khí chất, tư thế của người lính “dữ oai hùm” cho thấy người lính lạc quan, coi thường gian khổ, hiên ngang xung trận, oai phong, lẫm liệt, toát lên cốt cách, khí phách hào hùng. Ngay cả khi đánh giáp lá cà với kẻ thù hình ảnh người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp làm chủ núi rừng, chế ngự khó khăn, vượt qua gian khổ.

Cảm nhận về vẻ đẹp của người lính Tây Tiến trong đoạn thơ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Ẩn đằng sau ngoại hình ấy là một vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trong gian khổ nhưng những người lính Tây Tiến vẫn luôn “mắt trừng” đó là đôi mắt mở to nhìn thẳng kẻ thù, thề sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy như miêu tả cả sự phẫn nộ đối với kẻ thù, là đôi mắt của nội tâm sục sôi chiến đấu. Đôi mắt ấy còn “mộng qua biên giới”, đó là giấc mộng lập chiến công, giấc mộng của chiến thắng, của hòa bình. Không chỉ vậy mà đôi mắt ấy còn có tình, thao thức nhớ về Hà Nội nơi có hình ảnh “dáng kiều thơm” trong mộng và mơ. Những người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng theo tiếng gọi non sông mà còn vô cùng hào hoa, lãng mạn. Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều, làm giảm tinh thần chiến đấu. Nhưng thời gian đã chứng minh giấc “mộng” và “mơ” như tiếp thêm sức mạnh cho người lính Tây Tiến. Đó cũng chính là vẻ đẹp của một tấm lòng luôn hướng về tổ quốc. Chính quê hương là động lực sức mạnh giúp người lính vượt qua khó khăn, là sợi dây thiêng liêng của niềm tin mang họ vượt bao khó khăn bom đạn trở về với quê hương. Chẳng thế mà bài thơ “Đợi anh về” của Xi-mô-nốp trở thành bài thơ được nhắc nhiều đến vậy trong thời kì khỏi lửa. Đâu chỉ thế trong bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ cũng từng viết:

“Từ thuở mang gươm đi mở cõiNgàn năm thương nhớ đất Thăng Long”

Điều đặc biệt hơn những chàng trai Hà Thành trong đoàn quân Tây Tiến ấy họ ra đi không chỉ bằng trách nhiệm công dân mà còn cả lí tưởng của những chàng trai gác bút nghiên cầm súng vì lí tưởng. Những chàng trai ấy là những học sinh, sinh viên, nghệ sĩ họ lên đường bằng khát vọng tuổi trẻ, khát vọng của hòa bình cho những “dáng kiều thơm”. Tình yêu ấy đáng để mỗi chúng ta trân trọng và ngưỡng vọng trong mọi thời đại.

Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến còn là lí tưởng trong những chàng trai mười tám đôi mươi:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Với việc sử dụng từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” đã gợi không khí cổ kính,trang trọng về nơi xa xôi của tổ quốc. Khác với những nhà thơ cùng thời, Quang Dũng khi nói về chiến tranh đã dám nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, miêu tả cái chết, không né tránh hiện thực. Trong chặng đường hành quân gian khổ đã có những người lính ngã xuống. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên trên đường hành quân. Khi miêu tả cái bi thương ấy nhà văn lại nâng đỡ lên bằng đôi cánh lí tưởng, lãng mạn “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là tuổi trẻ, là bao ước vọng đang đón chờ mỗi người phía trước. Vậy nhưng với họ không có gì quý giá bằng độc lập, tự do của Tổ quốc. Vượt lên trên tất cả là khát vọng được ra đi và cống hiến. Đó là lí tưởng quên mình vì tổ quốc, dữ dội như lời thề sông núi. Đó là vẻ đẹp thời đại “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Đúng như Trần Lê Văn đã nhận xét “Tây Tiến phảng phất nét buồn, nét đau, nhưng buồn đau mà không hề bi lụy”. Và Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên nói rất cảm động sự hi sinh của những con người vô danh ấy để rồi hơn hai mươi năm sau trong kháng chiến chống Mĩ Nguyễn Khoa Điềm đã viết

(Trích “Đất Nước”))

“Chiến trường” khốc liệt mà câu thơ nghe sao bình tĩnh quá, có chút ngạo nghễ khinh đời để rồi hai từ “chẳng tiếc” mang vẻ bất cần cho “đời xanh”. Tuổi trẻ ai chẳng cần cho mình khát vọng tình yêu, thanh xuân thơ mộng. Họ hiểu lắm, biết lắm vẻ đẹp của “đời xanh” nhưng chết cho tổ quốc chính là chết cho lí tưởng thiêng liêng.

Chính lí tưởng thiêng liêng cao quý ấy của những người lính mà hi sinh của họ cũng thật cao đẹp:

“Áo bào thay chiếu anh về đấtSông mã gầm lên khúc độc hành”

Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Quan Dũng từng trải lòng về câu thơ trên “Sự thật khi người lính ngã xuống không có được mảnh vải liệm. Nói áo bào là nói theo cách của thơ xưa để an ủi những người đã nằm xuống”. Sự khắc nghiệt của chiến trường, sự khó khăn gian khổ trong chiến đấu, vậy mà khi ngã xuống câu thơ sao mà nghe nhẹ nhàng đến vậy. Không phải là ngã xuống, không phải là chết mà đơn giản là “anh về đất”. Mỗi chúng ta ai chẳng sinh ra từ đất mẹ Xi-ta, ai chẳng từ luống cày mà lớn lên. Vậy nên giờ đây các anh chỉ là đang ngủ một giấc thật dài, thật bình yên bên đất mẹ dịu dàng và ấm áp. Câu thơ với biện pháp nói giảm nói tránh đã tạo cho câu thơ bi mà không lụy ý ,thơ mang đến một cảm giác vĩnh hằng, là thế giới của:

“Những người chưa bao giờ khuấtĐêm đêm rì rầm trong tiếng đấtNhững buổi ngày xưa vọng nói về”

(Nguyễn Đình Thi)

Để rồi “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”, con sông Mã cũng chính là nhân chứng của lịch sử, người bạn đồng hành của những người lính Tây Tiến. Và giờ đây con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử. Tiếng gầm ấy là khúc nhạc bi tráng, khúc tráng ca tiễn biệt người lính Tây Tiến vào cõi vĩnh hằng hòa cùng muôn ngàn âm thanh của sống núi, trường tồn trong khúc bi tráng của sông Mã. Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ Hán Việt đã gợi không khí tôn nghiêm,trang trọng hi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn.

Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.

Khổ thơ trên trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng đã dựng nên một tượng đài bất tử về người lính. Người chiến sĩ Tây Tiến hào hoa, anh dũng, kiêu hùng một thời đã gây nên ân tượng sâu sắc cũng như mối xúc động lớn lao cho bao thế hệ người đọc. Hình tượng ấy dù vẫn có những hi sinh mất mát nhưng vượt lên tất cả vẫn là một khí phách hiên ngang, một khát vọng, lí tưởng sống cao đẹp đáng trân trọng. Đây cũng chính là chất bi tráng của tác phẩm.

3. Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”, mẫu số 3:

Nằm trong mảng đề tài viết về người lính Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, ‘Tây Tiến” là bài thơ thành công khi xây dựng được hình ảnh người lính không chỉ mang phẩm chất chung của tất cả những người lính Việt Nam mà còn mang những nét riêng độc đáo. Điểm nối bật trong bài thơ là hình tượng người lính với vẻ đẹp bi tráng, được khai thác thông qua bút pháp lãng mạn. Vẻ đẹp này của hình tượng người lính tập trung nhất trong khổ thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùmMắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơmRải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bài thơ ra đời vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng nhớ đến những người đồng đội cũ của mình trong binh đoàn Tây Tiến xưa. Đây là bài thơ viết về một binh đoàn mà phần lớn là thanh niên trí thức Hà Nội. Họ ra đi chiến đấu, mang trong mình nhiệt huyết hừng hực của tuổi hai mươi nhưng tâm hồn cũng chất chứa đầy nét hào hoa lãng mạn của một chàng trai Hà thành. Ở những khổ trước, người ta bắt gặp hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân vất vả nhưng vẫn đầy lãng mạn, mở rộng hồn mình ra để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời, sửng sốt trước sự xuất hiện của một “bông hoa về trong đêm hơi”, say đắm trong bức tranh “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Và cũng chính họ thật tinh nghịch, dí dỏm khi phát hiện ra hình ảnh đầy sức gợi “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Người lính không được miêu tả trực tiếp (trừ hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa”) mà chủ yếu hiện lên qua bức tranh thiên nhiên, trong nét vừa tương đồng vừa đối lập với thiên nhiên đó. Đến khố thơ này nhà thơ đã giành cả một đoạn thơ dài chỉ để nói về hình ảnh người chiến sĩ và sự hi sinh đầy bi tráng của họ. Người lính được miêu tả qua những hình ảnh thực, gợi cảm:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hình ảnh miêu tả xuất phát từ hiện thực những khó khăn gian khổ mà người lính gặp phải. Đó là thời tiết khắc nghiệt, đói ăn, bệnh tật, sốt rét hoành hành khiến cho hình hài trở nên tiều tụy: “không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Nói đến những gian khổ, vất vả nhưng giọng thơ Quang Dũng thật hào hùng. Ông gọi binh đoàn Tây Tiến là đoàn binh không mọc tóc. Cả một “đoàn binh” lại mang “oai” của hùm tạo cho người ta cảm giác ở đó dường như đang toát lên sức mạnh lớn lao không thế nào khuất phục được. Sức mạnh đó được bổ sung thêm bằng hình ảnh:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Hai hình ảnh, một thực tế, một lãng mạn được đặt cạnh nhau thậm chí còn là cầu nối cho nhau. Anh mắt trừng “gửi mộng qua biên giới” thế hiện cái uy phong lẫm liệt của họ. Ta tự hỏi tại sao lại là “mắt trừng gửi mộng” mà không phải là ánh mắt nào khác? Phải chăng khoảng cách là quá xa mà người chiến sĩ thì chỉ muốn rút ngắn nó lại trong chốc lát đế nhanh được trở về với Hà Nội thân thương? Cũng có thế, nhưng điều quan trọng là thông qua hình tượng ấy, người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ anh dũng, hào hùng mà còn đầy chất uy nghiêm và đầy sức mạnh. Ba câu thơ đang miêu tả theo cấp độ có thể nói là tăng tiến về hình ảnh đầy ấn tượng của người lính chợt chùng lại bởi một “dáng kiều thơm” ở mảnh đất quê hương. Chi tiết này thế hiện sự tinh tế của Quang Dũng, nhà thơ miêu tả người lính trong những nét phi thường nhưng vẫn không quên đồng cảm với một giấc mơ bình thường nhất và cũng là lãng mạn nhất: giấc mơ về một dáng kiều thơm. Họ là những chàng trai mười chín, hai mươi tràn đầy nhựa sống, khát khao yêu và khát khao hạnh phúc. Họ có quyền mơ về một bóng hình giai nhân nào đó chứ! Nhiều hơn thế, hình ảnh người con gái còn gắn với mảnh đất Hà thành, nơi người lính đã sinh ra nên có lẽ giấc mơ ấy còn là giấc mơ về gia đình, về quê hương, mảnh đất nơi họ đã sinh ra và gắn bó. Sự thay đổi đột ngột của hình tượng thơ làm cho bài thơ thêm hấp dẫn đồng thời khẳng định nét lãng mạn trong tâm hồn những người lính trẻ. Người lính trẻ hiện lên trong đoạn trích anh hùng bất khuất trước gian khổ nhưng cũng ngang tàng và đầy nghịch ngợm. Thêm một nét để họ trở nên gần gũi, đáng yêu và đáng quí.

Bài văn Cảm nhận về đoạn thơ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc hay nhất

Trước đó chỉ bằng hình ảnh “gục lên súng mũ bỏ quên đời”, Quang Dũng đã khiến cho người đọc ngậm ngùi về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Nhà thơ tránh không dùng đến từ hi sinh mà khắc họa người lính Tây Tiến ngã xuống nhưng vẫn trong tư thế bước tiếp khúc quân hành cùng đồng đội. Những câu thơ tiếp theo này lại một lần nữa nhắc đến hi sinh của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:

Bốn câu thơ trước hết dựng lên một thực tế trong cuộc chiến đấu. Người chiến sĩ ra đi là đã xác định trước được những gì mình sẽ phải trải qua:

“Làm cách mạng từ khi tôi biếtDấn thân vô là chịu tù đàyLà gươm kề cổ, súng kề taiLà thân sống chỉ coi còn một nửa”

Chiến trường khốc liệt không thể mang lại cho người nằm xuống một nơi an nghỉ vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu. Ngã xuống, họ sẽ là một trong những “nấm mồ viễn xứ” trên biên cương, tiếp tục làm công việc ngày đêm canh giữ từng tấc đất thân thương. Không ai không xác định được điều ấy. Vậy mà họ vẫn ra đi, vẫn cống hiến:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”Bởi nói như nhà thơ Thanh Thảo:

Chính bởi xác định được lí tưởng sống cao đẹp ấy mà lớp thanh niên vẫn ngày đêm hát vang khúc quân hành, ra đi bảo vệ quê hương, đất nước. Rồi có những người ngã xuống “giản dị và bình tâm” nhưng cái chết của họ lại mang dáng dấp của một vị anh hùng sử thi. Hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn, người hi sinh không có lấy một mảnh chiếu trước khi đưa về với đất. Tấm áo ngày thường vương bụi trường chinh trở thành áo bào đưa các anh về với đất mẹ. Cuộc ra đi có sự chứng kiến và tiễn đưa của đất trời. Dòng sông Mã “gầm lên” khúc bi ca độc hành đầy đau đớn xót xa nhưng cũng thật hào hùng.

Khổ thơ sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ có ý nghĩa trong việc khắc họa hình tượng người lính. Hình ảnh thơ cụ thể, gần gũi như “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “mắt trừng”… kết hợp với sự đối lập, so sánh (quân xanh màu lá), sự chuyển đổi linh hoạt của cảm xúc:

Làm cho người lính hiện lên chân thực, gần gũi: dữ dội, can trường nhưng cũng rất đa tình, hào hoa.

Có thể nói, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong đoạn thơ mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng được thế hiện ở những khó khăn, gian khố cũng như mất mát, hi sinh mà người lính phải trải qua nhưng tâm hồn và ý chí của con người thì luôn bất khuất, vượt qua và chiến thắng hoàn cảnh. Giữa cái khổ con người vẫn hiện lên thật đẹp. Trong cái chết nhưng vẫn thấm đẫm chất hùng. Nhắc đến đau thương, mất mát nhưng không làm nhụt chí mà chỉ góp phần thể hiện hình tượng người lính, tăng thêm vẻ đẹp hào hùng cho hình tượng đó. Chất bi tráng được kết hợp với cảm hứng lãng mạn và ngợi ca tạo nên hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến mang vẻ đẹp sử thi nhưng vẫn vô cùng gần gũi và thân thuộc.