Top 7 # Các Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Chị Em Thúy Kiều Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Biện Pháp Nghệ Thuật Được Sử Dụng Trong Chị Em Thúy Kiều

Trong dòng văn học cổ Việt Nam,Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm văn học kiệt xuất . Tác phẩm không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, hấp dẫn ,lời văn trau chuốt, giá trị tố cáo đanh thép , giá trị nhân đạo cao cả mà còn vì các nhân vật trong truyện được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du miêu tả vô cùng đẹp đẻ, sinh động . Đặc biệt là các nhân vật mà tác giả tâm đắc nhất như Thúy Vân, Thúy Kiều .

Ngay phần đầu của Truyện Kiều Nguyễn Du đã khắc họa bức chân dung xinh đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân :

” Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị , em là Thúy Vân Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Nói đến Mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh tao ; nói đến tuyết là nói đến sự trong trắng ,tinh sạch . Cả mai và tuyết đều rất đẹp .Tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao , trong trắng của hai chị em nhưlà mai là tuyết và đều đạt đến độ hoàn mĩ ” Mười phân vẹn mười” .

Tiếp đó tác giả giới thiệu vẻ đẹp của Thúy Vân :

” Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn ,nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với ẩn dụ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân . Nàng có một vẻ đẹp mà hiếm thiếu nữ nào có được với khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm ,lông mày cong hình cánh cung như mày ngài . Miệng cười của nàng tươi như hoa nở, giọng nói của nàng trong như ngọc . Lại nữa da trắng mịn đến tuyết phải nhường . Ôi , thật là một vẻ đệp đoan trang, phúc hậu ít ai có được . Nguyễn Du đã miêu tả bức chân dung nàng Thúy Vân có thể nói là tuyệt đẹp .Đọc đoạn này ta thấy rung động trước vẻ đệp tuyệt vời cảu Thúy Vân và thêm thán phục thiên tài Nguyễn Du. Ông đã vận dụng biện pháp tu từ của văn thơ cổ vừa đúng đắn vừa sáng tạo .

Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân đã khiến ta rung động đến vậy , ông miêu tả Thuý Kiều thì ta còn bất ngờ hơn nữa . Bất ngờ đến kinh ngạc . Bắt đầu từ câu :

” Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn”

Nàng Vân đã tuyệt diệu như vậy rồi , nàng Kiều còn đẹp hơn nữa ư ? Có thể như vậy được không ? Ta hãy xem ngòi bút của Nguyễn du viết về nàng Kiều :

” Làn thu thuỷ nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kếm xanh Một hai nghiên nước nghiên thành Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”

Đến đây , chắc hẳn ta sẽ hài lòng và vô cùng thán phục . Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp Thuý kiều không dài , chỉ vài cau thôi , vậy mà ta như thấy hiện ra trước mắt một thiếu nữ ” tuyệt thế gia nhân” . Mắt nàng thăm thẳm như làn nước mùa thu , lông mày uốn cong xinh đẹp như dáng núi mùa xuân ; dung nhan đằm thắm đến hoa củng phải ghen , dáng người tươi xinh mơn mởn đén mức liễu cũng phải hờn . Khi đọc đến đoạn này ta không chỉ rung động , thán phục mà có một cảm giác xốn xang khó tả bởi nàng Kiều Xinh đẹp quá . Thủ pháp ước lệ,nhân hoá là biện pháp tu từ phổ biến trong văn học cổ được tác giả sử dụng xuất sắc , kết hợp với việc dùng điển cố “nghiêng nước nghiêng thành” , tác giả đã làm cho ta không chỉ đọc, chỉ nghe, chỉ cảm nhận , mà như thấy tận mắt nàng Kiều . Nàng quả là có một vẻ đẹp ” sắc sảo mặn mà” Ta có thể nói là “có một không hai” làm mê đắm lòng người . Đọc hết những câu trên, ta mới hiểu được dụng ý của Nguyễn Du Khi miêu tả vẻ đẹp “đoan trang phúc hậu” của Thuý Vân trước vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” của Thuý Kiều . Nhà thơ đã sử dụng biện pháp đòn bẩy , dùng vẻ đệp của Thuys Vân để làm để làm tôn thêm vẻ đẹp yêu kiều , quyến rũ của Thuý Kiều rất có hiệu quả .

Sắc đã vậy còn tài của nàng Kiều thì sao ? ta sẽ không cảm nhận được hết toàn bộ vẻ đẹp hình thể củng như vẻ đẹp tâm hồn cua Thuý Kiều nếu như ta không biết đến tài của nàng , mặc dù Nguyễn Du đã nói ” Sắc đành đòi một , tài đành hoạ hai” . Về sắc thì chắc chắn chỉ có miònh nàng là đẹp như vậy , về tài hoạ chăng có người thứ hai sánh kịp :

: Thông minh vốn sẳn tính trời Pha mùi thi hoạ đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”

Nàng có cả tài thơ , tài hoạ , tài đàn , tài nào cũng xuất sắc , cũng thành “nghề” cả . Riêng tài đàn nàng đã sáng tác một bản nhạc mang tiêu đề ” Bạc mệnh” rất cuốn hút lòng người .

Với hai nhân vật như Thuý Kiều Thuý Vân , Nguyễn Du đã sử dụng các biện pháp tu từ phổ biến trong văn thơ cổ như ước lệ , ẩn dụ , nhân hoá , dùng điển cố . Qua đó ta thấy vẻ đẹp phúc hậu , đoan trang của Thuý Vân Và vẻ đẹp ” sắc sảo măn mà” của Thuý Kiều . Hai bức chân dung của hai chị em Thuý Kiều Thuý Vân , mà Nguyễn Du khắc hoạ phải nói là rất thành công . Đặc biệt là Thuý Kiều nhà thơ đã giành trọn tâm huyết , sức lực và tài năng của mình để sáng tạo nên nàng . Bởi nang là nhân vật chính của Truyện Kiều

Như đã nói . Truyện Kiều thu hút người đọc phần lớn là nhờ nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du . Quả vậy nghệ thuật tả người của Nguyễn Du có thể gọi là bạc thầy trong nền văn học cổ Việt Nam . Tả hình dáng bên ngoài của nhân vật ông luôn làm toát lên cái tính cách , tâm hồn bên trong của nhân vật đó .

Với Thuý Vân ông đã thực hiện biện pháp ước lệ để miêu tả vẻ đẹp :

” Khuôn trăng dầy đặn , nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

Tất cả các từ ngữ , hình ảnh được ông sử dụng trong các câu thơ trên đều tập trung làm cho người đọc thấy được vẻ đẹp ” đoan trang , thuỳ mị” của Thuý Vân . Không những khắc hoạ vẻ đẹp hình thể bên ngoài Nguyễn Du còn như dự báo số phận bình lặng, êm ả của nàng qua từ ” thua” và từ ” Nhường”. Mây và tuyết thua avẻ đẹp của Thuý Vân nhưng cả hai đều chịu ” thua” và chịu ” nhường”một cách êm ả .

Với Thuý Kiều , Tác giả dùng nhiều biện pháp tu từ để miêu tả vẻ đẹp “sắc sảo , mặn mà” của nàng.Những câu thơ miêu tả nàng có thể xem là tuyệt bút :

” Làn thu thuỷ nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kém xanh”

Trong hai câu thơ ,Nguyễn Du như đã dự báo số phận bấp bênhchìm nổi của Kiều qua các hình ảnh hoa và liễu thua vẻ đẹp của nàng nhưng không cam chịu thua mà còn ” ghen” còn ” hờn” và khúc nhạc bạc mệnh nàng sáng tác cũng như dự báo điều đó .

Nói tóm lại , Nguyễn Du có nghệ thuật tả người rất đặc sắc và tiêu biểu . Mỗi nhân vật ông miêu tả dù tốt hay xấu , dù chính diện hay phản diện cũng đề biểu hiện được bản chất tâm hồn bên trong qua hình dáng bên ngoài . Nghệ thuật miêu tả , xây dựng nhân vật của Nguyễn Du rất đáng để chúng ta trân trọng và học tập .

Nghệ Thuật Tả Người Trong Chị Em Thúy Kiều Của Nguyễn Du

[Văn mẫu lớp 9] – Anh chị hãy phân tích nghệ thuật tả người của Nguyễn Du qua đoạn trích: “Chị em Thúy Kiều”

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc , là một nhà nhân đạo chủ nghĩa. “Truyện Kiều” của ông là viên ngọc sáng ngời trong kho tàng văn học nước nhà. Gía trị của tác phẩm này không chỉ ở nội dung hiện thực, tư tưởng nhân đạo mà còn ở nghệ thuật đặc sắc của một cây bút tài hoa bậc thầy. Một trong yếu tố làm nên nghệ thuật tả người của Nguyễn Du . Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” có thể coi là đoạn thơ tiêu biểu cho nghệ thuật ấy. Nét nổi bật trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du là ông đã vận dụng biện pháp ước lệ tượng trưng một cách tài tình, đầy sáng tạo, khiến nhân vật hiện lên thật đậm nét, sinh động có hồn.

Truyện Kiều được sáng tác dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) . Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm, giới thiệu gia cảnh Thúy Kiều.

Đối với mỗi nhân vật trong truyện “Truyện Kiều” Nguyễn Du đều có lời giới thiệu khái quát chung. Tả chị em Thúy Kiều, ông cũng bắt đầu từ cái rất chung, giới thiệu những nét chung rất hay của họ:

“Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.”

Theo quan niệm thẫm mũ phong kiến, có tính chất lí tưởng hóa, thì cái “tốt” phải đi liền cái “đẹp”. Nhân vật đã tốt về đức hạnh thì dứt khoát phải đẹp về hình thức. Do vậy, cả hai chị em Kiều đều đẹp, cái đẹp từ dáng vẻ bên ngoài đến tâm hồn, phẩm cách bên trong. Tác giả dùng hình ảnh mang tính chất tượng trưng kết hợp với phép ẩn dụ để miêu tả vẻ đẹp chung của hai chị em: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Đó là lấy cái đẹp mĩ lệ trong thiên nhiên (mai, tuyết) để so sánh ngầm với nhan sắc của người thiếu nữ: cả hai chị em đều xin đẹp, một vẻ đẹp mang cái dáng vẻ, cốt cách thanh tao của hoa mai và tâm hồn trong trắng của tuyết. Tuy thế, dẫu có đẹp đến độ hoàn mĩ “mười phân vẹn mười” vẫn là “mỗi người một vẻ” . Với câu thơ này nhà thơ đã chuẩn bị để miêu tả riêng, so sánh và phân biệt cho ra cái “mỗi người một vẻ” ấy. Cách chuyển ý thật là tài tình dẫn dắt thơ thật khéo léo.

Để tả từng nhân vật, Tố Như tiên sinh chọn Thúy Vân trước. Ông rất kĩ lưỡng trong việc lựa chọn từ ngữ và hình ảnh để miêu tả. Thúy Vân hiện lên với vẻ ddejp trang trọng, đài cát:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Bút pháp ước lệ thường không cho ta biết một cách cụ thể, tỉ mỉ nhưng lại giúp ta hình dung được cái cực điểm của nhan sắc vì nó mượn những cái đẹp tuyệt vời, vĩnh cửu của thiên nhiên để biểu hiện. Nhan sắc Thúy Vân thật tuyệt trần: Khuôn mặt đẹp và trong sáng như “trăng”, long mày thanh tú như mày “ngài”, miệng cười tươi như “hoa”, tiếng nói trong như “ngọc”, tóc mượt hơn “mây”,da trắng hơn cả “tuyết”. Tất cả đều trọn vẹn, đều đạt đến mức lí tưởng khiến thiên nhiên cũng phải “thua”, phải “nhường”. Tác giả đã khéo kết hợp những từ láy gợi tả “trang trọng”, “đầy đặn”, “nở nang”. Với lối tiểu đối trong câu để khắc họa bức chân dung đoan trang, phúc hậu của Thúy Vân. Và khi nói “khuôn” (trăng) thì nhan sắc của Thúy Vân đã nằm trong “khuôn khổ” mà chế độ phong kiến chấp nhận được. Phải chăng dưới ngòi bút đầy lòng nhân ái của Nguyễn Du, con người với vẻ đẹp ấy ắt hẳn sẽ có cuộc đời êm đềm, bình lặng, chẳng biết sóng gió là gì?

Nguyễn Du tả Thúy Vân trước với dụng ý cốt để làm nề. Đó là một kết cấu sáng tạo theo phép “đòn bẩy” nhằm tôn vinh cái đẹp của Thúy Kiều. Người đọc có cảm tưởng đẹp như Thúy Vân là “tột đỉnh”, nhưng sau đó, đến Thúy Kiều mới thấy là “tuyệt đỉnh nhan sắc”:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn”

Cũng dùng bút pháp ước lệ như đã tả Thúy Vân, nhưng ngòi bút thiên tài của Tố Như không hề lặp lại một cách vụng về như một người thợ tầm thường. ông không tả tỉ mỉ nào khuôn mặt, nụ cười, tiếng nói, mái tóc , làn da mà chỉ phác thảo vài nét cốt nêu bật cái thần thái trong bức chân dung: “làn thu thủy, nét xuân sơn”. Hình ảnh ẩn dụ đó rất ấn tượng và gợi nhiều liên tưởng: từ dung nhan đến tâm hồn Kiều đang ở độ trong veo như nước mùa thu, không chút gợn , đang dạt dào sức sống thanh xuân như màu xanh của dáng núi mùa xuân. Cả vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời như hội tụ ở đây. Cái nhan sắc đến độ “nghiêng nước nghiêng thành” ấy lại kèm theo cái tài “so bề tài sắc lại là phần hơn” nên nó cao quá vượt lên cái khuôn khổ mà xã hội phong kiến có thể chấp nhận được, khiến “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Với Thúy Vân thì thiên nhiên “thua, nhường” vốn chỉ là sự hơn ém không tranh chấp, còn với Kiều thì “ghen , hờn” mới thực sự biểu hiện được cả lòng đố kị sâu cay của tạo hóa. Bởi vậy, tả bức chân dung “sắc sảo mặn mà” của Kiều, Nguyễn Du như dự báo trước tấm bi kịch “hồng nha bạc phận” của nàng sau này, vì ngay từ đầu tác giả đã khẳng định: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

Tả Thúy Vân , Nguyễn Du chỉ tả sắc không điểm thêm một chút tài hoa nào. Còn Kiều thì “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, không những tuyệt đỉnh nhan sắc mà còn tuyệt đỉnh tài năng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên “Bạc mệnh”lại càng não nhân”

Theo quan niệm phong kiến thì cái tài của người phụ nữ khuê các là “cầm kì thi họa ca ngâm”, Thúy Kiều gồm đủ. Nàng không những có tư chất thông minh do trời phú mà còn rất mẫu mực tài hoa: tài thơ, tài họa, tài ca ngâm, và đặc biệt alf tài đàn, môn nào cũng giỏi , cũng thành “nghề” cả. Nhà thơ không tiếc lời ca ngợi tài năng của Thúy Kiều bằng hàng loạt từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: “tính trời”, “đủ mùi”, “làu bậc”, ‘ăn đứt”… Kiều còn có một tâm hồn nhạy cảm và sáng tạo . Dường như nàng linh cảm được số phận bất hạnh của mình nên đã tự sáng tác nên khúc đàn “Bạc mệnh” mà ai nghe cũng “não lòng”. Phải chăng, đó cũng là một dự báo cho cuộc đời nàng về sau, vì “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” và:

“Anh hoa phát tiết ra ngoài

Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa”

Kết thúc đoạn giới thiệu chân dung Thúy Vân – Thúy Kiều là bốn câu thơ khái quát về cuộc sống phong lưu, yên bình và khuôn phép, mẫu mực của hai cô gái:

“Phong lưu rất mẫu hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

Cũng với giọng thơ đề cao, ca ngợi , Nguyễn Du nói về đức hạnh của hai cô gái “ấm cúng”. Tuy đã đến độ tuổi lấy chồng hai cô vẫn sống êm đềm, giữ gìn tư cách đúng đắn, không săn đón, vồ vập một ai, mặc cho các nam nhi như “ong bướm” bay lượn dập dìu bên ngoài tường đông. Bốn câu thơ như một bức tranh sinh hoạt đầm ấm, êm ả của tranh phong lưu hồng quần.

Đoạn thơ chị em Thúy Kiều sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người, khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều. Ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh là biểu hiện của cảm hứng nhân văn nơi Nguyễn Du.

Tóm lại, chỉ riêng nghệ thuật miêu tả nhân vật, Nguyễn Du xứng đáng là nghệ sĩ bậc thầy. Dưới ngòi bút tài hoa, điêu luyện của ông, chân dung chị em Kiều hiện lên thật sinh động, đều là “mười phân vẹn mười” nhưng “mỗi người một vẻ”, có diện mạo riêng, tích cách và số phận riêng. Điều đáng quý là tấm lòng ưu ái đặc biệt mà nhà thơ dành cho nhân vật, nhất là Thúy Kiều. Và điều đó càng chứng tỏ tấm lòng nhân đaoọ của Nguyễn Du.

Phân Tích Bút Pháp Ước Lệ Trong Đoạn Trích Chị Em Thúy Kiều

Phân tích bút pháp ước lệ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”

Mở bài:

Quan niệm về cái đẹp của người xưa chính là cơ sở thẩm mỹ của tính ước lệ trong văn chương trung đại. Thời trung đại, con người có tinh thần sùng cổ và quan niệm rằng ở  người xưa có những lý tưởng thẩm mỹ không thể nào đạt tới. Những gì cao đẹp của người xưa đều đạt đến chuẩn mực, đáng tôn thờ, học hỏi. Vì vậy, nắm bắt cái xưa, phục cổ đã trở thành một thói quen, một khuôn sáo cho nếp nghĩ, cách sống của con người thời trung đại. Tính ước lệ trong văn thơ bắt đầu từ đó.

Thân bài:

Bút pháp ước lệ là thủ pháp nghệ thuật miêu tả có tính quy ước biểu trưng, có tính chất khuôn mẫu trong biểu hiện nghệ thuật. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng không thể vượt khỏi ảnh hưởng của đặc trưng thi pháp ấy. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” thể hiện rất rõ đặc điểm ấy.

Đoạn trích là những vần thơ tuyệt bút, là bức tranh con người được vẽ bằng ngôn ngữ Tiếng Việt đạt đến mức hoàn chỉnh. Chỉ 24 câu thơ lục bát Tố Như đã miêu tả trọn vẹn và hoàn hảo tài năng, sắc đẹp, đức hạnh của chị em Thuý Kiều, Thuý Vân, hai tuyệt thế giai nhân, bằng tất cả tấm lòng cảm mến và sự nâng niu, trân trọng.

Nói đoạn thơ là bức tranh, bởi lẽ ngôn từ trong văn bản không chỉ tác động đến cảm xúc, mà nó còn gợi nên hình ảnh sống động về con người một cách rõ nét. Gấp trang sách lại, người đọc hình dung được Thuý Kiều, Thuý Vân từ dáng vẻ bên ngoài đến tâm hồn bên trong.

Trong họa pháp cổ điển, chuẩn mực của nghệ thuật cốt ở cái tinh. Cho nên nhà họa sĩ thường chú trọng đến cái thần của tác phẩm. Khi vẽ rồng nhất định chú ý đến đôi mắt, vẽ mùa thu nhất thiết phải có lá vàng… Người xưa lấy thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp. Cái đẹp của thiên nhiên vượt lên mọi giới hạn, bất biến với thời gia, là cơ sở để con người nghĩ về cái đẹp, nói về cái đẹp.

Nguyễn Du tả Thuý Kiều, Thuý Vân trên cơ sở bút pháp ước lệ cổ điển nhưng được soi chiếu và trình diễn đạt đến độ vi diệu. Chất liệu của nó không phải là màu sắc và âm thanh mà bằng ngôn từ. Qua bàn tay tài hoa của Nguyễn Du ta có cảm giác các con chữ vừa được đánh bóng lại và thổi vào đó sức sống mới.

Bốn câu thơ đầu là lời giới thiệu, khái quát chung về hai cô gái đầu lòng của nhà Viên ngoại họ Vương:

“Đầu lòng hai ả tố nga Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười”.

Hình ảnh mang ý nghĩa ước lệ, tượng trưng, kết hợp với phép ẩn dụ: hai nàng có “cốt cách” thanh cao như mai, “tinh thần” trong trắng như tuyết. Miêu tả như thế cho thấy sự nâng niu, quý trọng của nhà thơ với các nhân vật. Họ đẹp một cách lộng lẫy, đẹp “mười phân vẹn mười”. Thật khó để nói được vẻ đẹp riêng của hai ả tố nga nhà họ Vương. Chỉ có thể nói là vẻ đẹp của họ đã đạt đến bực hoàn hảo.

Nếu quan niệm đoạn trích là một bức tranh, thì đây là phần nền của hai bức chân dung chị em Thuý Kiều. Chưa tả nhưng hai nàng hiện lên thật nổi bật. Đó là cái tài đặc biệt của Nguyễn Du: giới thiệu nhưng mang yếu tố tả, kể nhưng như vẽ.

Trên cái phong nền ấy đại thi hào lần lượt cho các nhân vật của mình xuất hiện hết sức tự nhiên, đầy thần thái. Sau lời giới thiệu chung, là bức chân dung của Thuý Vân :

“Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười, ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”.

Vẫn bút pháp ước lệ, kết hợp với hệ thống từ ngữ chọn lọc, Thuý Vân hiện lên với những gì đẹp đẽ nhất, đặc sắc nhất, thiêng liêng nhất của tinh hoa đất trời: Hoa, trăng, ngọc, mây, tuyết. Đó là sự quy tụ của vẻ đẹp trời đất, của thiên nhiên. Đó cũng là chuẩn của vẻ đẹp con người cần hướng đến trong thi pháp văn học trung đại. Mỗi câu thơ, là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân. Cử chỉ, dáng đi đứng rất trang trọng, quý phái. Cách xử sự rất đúng mực, đoan trang. Đây là vẻ đẹp toàn bích của một thiếu nữ trong sáng, dịu hiền, không vướng một chút bụi trần.

Tác giả miêu tả khuôn mặt của Thuý Vân đầy đặn, sáng trong như khuôn trăng tròn vành vạnh. Tiếng nói trong như ngọc. Miệng cười tươi như hoa. Tóc mềm bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng làm cho tuyết phải “nhường”. Rõ ràng, ở nàng Vân là cái đẹp phúc hậu, đoan trang, cái đẹp chinh phục được xung quanh.

Nhưng nhà họa sĩ hình như không dụng công nhiều trong miêu tả Thuý Vân . Bút lực của ông chủ yếu khắc họa cho nhân vật Thuý Kiều . Tưởng Vân là một trang quốc sắc thiên hương không ai sánh kịp nữa, nào ngờ đâu, sau đó Thuý Kiều xuất hiện thì Thuý Vân chỉ làm nền tôn thêm vẻ đẹp của Kiều. Bằng cách tạo dựng tình huống theo kiểu đòn bẫy, Nguyễn Du chứng tỏ mình là bậc thầy trong việc miêu tả nhân vật. Thuý Vân đã đẹp đến mức thiên nhiên cũng nhường bước nhưng Kiều còn đẹp hơn thế:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Nếu vẻ đẹp của Vân là thuần phác, dịu hiền, đằm thắm, thì Kiều hiện lên với sự sắc sảo, mặn mà hiếm có. Vẻ đẹp này rất đài các, kiêu sa. Nó không thuộc về đời thường, chỉ để dành chiêm ngưỡng, ngước nhìn mà thôi. Khi miêu tả Thuý Kiều, theo tôi tác giả đặc tả đôi mắt. Người ta thường nói : đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn là vì nói đến đôi mắt là nói đến thế giới quan, nhân sinh quan của con người. Mắt đẹp là tự thân mang vẻ đẹp của tâm hồn. Cái thần của bức chân dung Thuý Kiều nằm ở chỗ này. Người đọc truyện Kiều tinh ý sẽ thấy được, Nguyễn Du không chú ý tả vẻ đẹp hình thức của Thuý Kiều. Ông chỉ dùng hai hình ảnh có giá trị biểu trưng : làn thu thuỷ, nét xuân sơn. Mắt nàng Kiều xanh trong như nước mùa thu, lông mày thanh tú như dáng vẻ, nét núi mùa xuân. Thế là đủ cho một tuyệt sắc. Trong nhân tướng học Trung Hoa, phàm ai có đôi mắt vậy thì rất đa đoan và nặng tình. Chính “làn thu thủy” ấy đã dự cảm cho số phận nghiệt ngã của nàng Kiều trong suốt 15 năm trời lưu lạc sau này.

Nói vậy, bởi quan sát kĩ chân dung hai chị em Thuý Kiều, tôi thấy hình như khi tả Thuý Vân, Nguyễn Du không hề miêu tả đôi mắt. Đây là điểm nhấn quan trọng để thấy dụng ý xây dựng nhân vật, tài năng của nhà thơ. Sách giáo khoa và nhiều tài liệu cho rằng “ nét ngài” trong câu tả Thuý Vân “ Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” là nói đến đôi lông mày đậm, thanh tú như con bướm tằm. Rõ ràng, “ngài” ở đây là người . “Nét ngài nở nang” là muốn nói bề ngoài của Vân đẫy đà, căng tràn sức sống. Điều này phù hợp với quan niệm của cụ Nguyễn Du với thuyết tướng pháp. Sự đầy đặn về ngoại hình của Thuý Vân cũng như định báo trước một cuộc đời mĩ mãn , bằng phẳng “ Phong lưu phú quý ai bì”.

Chính vì điều đó, nên vẻ đẹp của Thuý Kiều không bình thường chút nào, đẹp đến mức “hoa ghen”, “liễu hờn”. Thế thì không cần nói nhiều, người đọc cũng có thể thấy được sự khác biệt trong nét vẽ của cụ Nguyễn Tiên Điền với hai nhân vật chính của thiên truyện bất hủ này.

Miêu tả Thuý Vân với chỉ 4 câu thơ, song nói về Thuý Kiều tác giả dành 12 câu để nói về tài sắc của nàng. Nhà thơ dùng nhiều câu kiến trúc theo lối tiểu đối nhằm khắc họa nhân vật đạt mức độ tới hạn của vẻ đẹp :

“Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm. Cung thương lầu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.

Các từ ngữ tả Kiều đã được tuyệt đối hoá: sắc sảo, mặn mà, phần hơn, ghen, hờn, đòi một, họa hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân. Hình ảnh thơ đối chọi với nhau đã tạo nên nhịp thơ trang trọng, càng tôn thêm vẻ đẹp của nàng Kiều .

Nàng không chỉ đẹp về hình thức mà nàng còn hội tụ vẻ đẹp của sự thông minh “vốn sẵn tính trời”, cho nên các môn nghệ thuật : cầm, kì, thi, họa nàng rất sành điệu, điêu luyện “lầu bậc”, “ăn đứt” thiên hạ. Theo tôi, không những thiên nhiên “ghen”, “hờn” mà trước tài năng của nàng loài người cũng khó chấp nhận, Kiều phải lâm vào kiếp đoạn trường như là một điều dễ hiểu. Các cụ xưa đã dạy chẳng sai chút nào:

“Một vừa hai phải ai ơi, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.

Chính Nguyễn Du cũng phải thừa nhận sắc, tài sẽ là ngọn roi quất xuống đời Kiều, làm cho nàng bầm dập, đớn đau không tránh khỏi những lụy hệ cuộc đời :

“Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan , Vô duyên là phận hồng nhan đã đành. Lại mang lấy một chữ tình, Khư khư mình buộc với mình vào trong”.

Thiên lý “ bỉ sắc tư phong” như định sẵn ,chờ chực để đọa đày , vùi dập Kiều dù rằng nàng là một trang quốc sắc thiên hương , vừa có sắc – tài – tình – mệnh theo quan niệm của Tố Như :

“Có đâu thiên vị người nào. Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai”.

Như vậy, khi tả Thuý Kiều Nguyễn Du không chỉ nói đến nhan sắc khuynh nước khuynh thành, tài hoa trí tuệ, mà còn nói đến trái tim đa sầu đa cảm, tâm hồn vô cùng phong phú của nàng. Chính cung đàn bạc mệnh do Kiều soạn là tiếng lòng của nàng, trong đó có sự thương cảm sâu sắc của nhà thơ làm rung động đến tất cả mọi nhân vật trong truyện, kể cả tên mặt sắt Hồ Tôn Hiến. Dưới ngòi bút thiên tài Tố Như, Kiều càng đẹp bao nhiêu, có tài, có tình bao nhiêu thì số phận nàng càng oan nghiệt bấy nhiêu . Đứng trước chân dung của Thuý Kiều, nhà thơ Chế Lan Viên đã thổn thức xót xa :

“Chạnh thương cô Kiều như cuộc đời dân tộc Sắc tài sao mà lắm truân chuyên Bỗng quý Kiều như cuộc đời dân tộc Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường”.

Kết bài:

Miêu tả nhân vật là một trong những biệt tài của Nguyễn Du. Có lẽ ngàn năm sau cũng chưa nói hết cái hay, cái đẹp ngòi bút của đại thi hào. Chúng ta chỉ biết rằng, tài năng của nhà thơ trong việc khắc họa chân dung nhân vật như một giếng nước trong càng khơi càng trào ra những dòng nước mát ngọt ngào. Hy vọng rằng, với những suy nghĩ còn nông cạn trên, bạn đọc sẽ tìm được những điều bổ ích, dẫu rằng nó có thể “mua vui cũng được một vài trống canh”.

Cảm Nhận Của Em Về Nhân Vật Thúy Kiều Trong Đoạn Trích “Kiều Ở Lầu Ngưng Bích”

Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Bài làm 1

Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa:

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Cụm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi.

Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương.

Nghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm

Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ.

Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của Kiều.

Con người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh bật dường như càng thê lương hơn:

Buồn trông của bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồn xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Những câu thơ chua xót, cứa vào lòng người người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải trải qua. “Chiều hôm” là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng đành câm lặng. Điệp từ “Buồn trông” như khắc khoải, như chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như “hoa trôi” vô định, không có điểm dừng, không biết về đâu.

Màu xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến cho cảnh thêm tái tê hơn:

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh

ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Một bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu “xanh xanh”, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người, mờ mịt và đầy tối tăm.

Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Bài làm 2

Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.

Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.

Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.

Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.

Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu… Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.

Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.

Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Bài làm 3

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động từ nỗi buồn mênh mang vô tận đã lan toả, thấm đượm vào cảnh vật. Một mình Kiều sống trong cảnh cấm cung bơ vơ nơi quê người đất khách. Không gian vắng lặng, hoang sơ không một bóng người, chỉ có thiên nhiên làm bạn với Kiều:

“Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.

Ngày nàng ngắm núi xa, cảnh núi non xa mờ gợi lên nỗi buồn, niềm thương nhớ da diết với cha mẹ, người yêu. Đêm nàng ngắm vầng trăng và cảm thấy nó rất gần như ở chung với mình. Tuy chỉ là những câu thơ tả cảnh nhưng chúng ta cũng thấy hình ảnh Kiều cô đơn. Không gian thơ càng mở rộng bốn bề bát ngát thì hình ảnh Kiều càng trở nên bé nhỏ, côi cút bơ vơ. Nàng không có ai để cùng chia sẻ nỗi lo âu sợ hãi của người thiếu nữ lần đầu tiên xa nhà. Giữa nền thiên nhiên mênh mông rộng lớn, bát ngát ấy, một nỗi niềm choáng ngợp tâm hồn nàng là nỗi bẽ bàng. Đó là nỗi chán ngán cô đơn, chán cho cảnh ngộ của mình, thân phận mình xinh đẹp là thế, tài hoa là thế mà giờ đây chỉ còn biết làm bạn với mây buổi sớm, ngọn đèn đêm khuya:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Cảnh ở đây gắn vào tình người, làm nên bức tranh tâm tình sinh động và bức tranh này được hình thành bằng tâm cảnh của Thuý Kiều, đó là bi kịch nội tâm.

Một mình cô đơn lẻ bóng trước lầu Ngưng Bích, trong lòng Kiều trào lên nỗi nhớ những người thân yêu. Nàng hướng tình cảm của mình tới Kim Trọng. Trong kí ức của nàng kỉ niệm của đêm thề nguyện đính ước dưới trăng vẫn còn đang nóng hổi, tươi rói:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.”

Giờ đây Kiều đang ngóng đợi hình bóng chàng Kim với nỗi sầu tư. Nguyễn Du đã miêu tả chính xác, qua từ “tưởng” đó là tưởng nhớ, tưởng tượng lại. Không những thế, sau tình cảm bồi hồi da diết nhớ đến Kim Trọng, trái tim Kiều lại thổn thức tình cảm của đứa con xa nhà nhớ về cha mẹ. Tự nguyện bán mình để lấy tiền chuộc cha, Kiều đã làm tròn chữ hiếu. Nhưng trong lòng người con gái hiếu thảo vẫn canh cánh một nỗi xót xa khi cha mẹ đã già mà không có mình bên cạnh để nâng giấc, chăm sóc. Nàng hình dung ra bóng dáng song thân đang mỏi lòng tựa cửa ngóng tin con và xót xa tự hồi giờ đây ai là người đang thay mình quạt nồng, ấp lạnh:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ”

Nhìn đâu Kiều củng thấy buồn, đúng như Nguyễn Du đúc kết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, Kiều dù đang bơ vơ nơi góc bể chân trời nhưng nàng không hề nghĩ tới mình, luôn lo lắng cho người khác. Dù trong cảnh ngộ nào Kiều cùng ngời sáng lên đức hi sinh tấm lòng vị tha, nhân hậu.

Qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du, nỗi buồn của Kiều càng được tô đậm thêm qua mỗi lần điệp từ “buồn trông” được cất lên là mở ra một bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng. Không gian bao la bát ngát nơi cửa bể vào lúc chiều tà, bóng xế để gợi lên trong lòng người nỗi nhớ thương. Nhìn cánh buồm thấp thoáng xa xa, trong lòng Kiều trào lên nỗi khát khao cùng cánh buồm về quê hương. Rồi trông cánh hoa mỏng manh trôi dạt trên dòng nước cuốn, nàng nghĩ tới thân phận lênh đênh của mình. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu giữa một không gian chân mây, mặt đất gợi trong lòng nàng nỗi lo lắng cho một tương lai mờ mịt:

“Buồn trông cửa bề chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm trong cảnh gió cuốn mặt duềnh là nỗi sợ hãi của Kiều trước bão tố cuộc đời đang chờ đón nàng phía trước. Nàng tưởng như mình đang ngồi giữa biển khơi, bốn bên sóng dữ gào thét, dội cả vào tâm hồn, vây bủa lấy nàng:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Bức tranh thiên nhiên ấy cũng là bức tranh tâm cảnh trong tâm hồn Kiều đầy lo âu, thấp thỏm, bất an.

Nguyễn Du quả là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật và sử dụng các biện pháp tu từ rất độc đáo. Đó là một bức tranh tả cảnh ngụ tình thể hiện một đặc sắc trong bút pháp nhà thơ: cảnh và tình bao giờ cũng hoà quyện với nhau. Nhưng phải chăng đặc sắc nhất vẫn là tình của nhà thơ với nhân vật của mình, đối với con người và đối với cuộc đời, nói một cách khác, đó là giá trị nhân văn của đoạn trích, bắt nguồn từ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du.

Qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, hẳn người đọc sẽ có suy nghĩ về nhân vật Kiều, một cô gái chung thuỷ với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ. Và ta càng căm giận xã hội bất công, tàn bạo đã đày đọa những con người tài hoa như nàng phải sa vào kiếp sống tủi nhục ở chốn lầu xanh.

Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Bài làm 4

Người ta cho rằng Truyện Kiều không phải là một cuốn tiểu thuyết tài tử giai nhân khuôn sáo như Kim Vân Kiều truyện, mà chính là một cuốn tiểu thuyết tâm lí vĩ đại của văn học Việt Nam.

Thật vậy, với ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã nhào nặn nên những thế giới tâm linh nhân vật cực kì sống động, đã chinh phục trái tim triệu triệu người đọc suốt gần 200 năm nay, Nói đến nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du, người ta tất sẽ nhớ ngay tới đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là một trích đoạn thuộc vào hàng hay nhất trong Truyện Kiều, diễn tả tâm trạng của Kiều trong những tháng ngày ở lầu Ngưng Bích của mụ Tú Bà.

Quãng thời gian Kiều ở lầu Ngưng Bích là khoảng tĩnh lặng giữa hai cơn giông tố của đời nàng. Nhưng trong tâm hồn nàng lại không tĩnh lặng, lúc nào lòng nàng cũng đang diễn ra bão tố dữ dội, ngổn ngang trăm mối tơ vò không sao nguôi ngoai được.

Lầu Ngưng Bích – đúng như cái tên thơ mộng của nó – là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp. Nếu nhìn bằng con mắt hội hoạ thì đây quả là một chốn thần tiên: Bốn bề thoáng đãng mênh mông, xa xa có núi non, có con đường đất đỏ uốn lượn, cồn cát vàng trải dưới nắng và màu xanh biếc đọng khắp nơi khi mùa xuân ngự trị. Nhất là những ngày nắng đẹp, những đêm trăng sáng thì phong cảnh càng thêm hữu tình. Thế nhưng cảnh đẹp với ai, chứ với Kều thì không. Bao cảnh đẹp của lầu Ngưng Bích đều vô nghĩa khi nó là chiếc lồng son khoá kín đời Kiều. Qua đôi mắt nặng trĩu tâm trạng buồn đau của Kiều, thiên nhiên cũng trở nên buồn thảm, đồng điệu với lòng nàng.

Bằng cái nhìn hờ hững chán chường, Kiều chỉ thấy dáng núi xa như một vết mờ tít tắp. Cái huyền diệu của đêm trăng chỉ làm nàng cảm thấy vũ trụ bao la quá mà mình sao nhỏ nhoi quá, để cho nỗi cô đơn lại tăng lên gấp bội:

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.

Đọc câu thơ này, tôi chạnh nhớ tới buổi hẹn hò của Kim – Kiều dưới trăng đêm nào:

Góp lời phong nguyện, nặng nguyền non sông.

Khi xưa hẹn núi thề sông, có vầng trăng làm chứng, Thế mà nay, non xa trăng gần, khoảng cách vời vợi khó mà hàn gắn được, cũng như lòng Kiều đang chia đôi vì bao nỗi đau thương.

Ban đêm với trăng và núi đã buồn như vậy, ban ngày nàng cũng chẳng vui gì hơn. Những cát vàng cồn nọ, những bụi hồng dặm kia với những từ để trỏ “nọ”, “kia” gợi lên nỗi tê tái của sự sẻ chia rời rã bao trùm lên phong cảnh bốn bề bát ngát. Vũ trụ thì vô hạn, mà đời người thì hữu hạn. Trong mắt Kiều, vũ trụ chỉ toàn là bụi bặm dơ bẩn muốn nhuốm đen chút lòng trinh bạch của nàng.

Bởi cảnh như thế nên tình càng “bẽ bàng”. Bẽ bàng là buồn, là chán, là thẹn, là nỗi buồn đè nặng hết ngày này qua ngày khác; để đến nỗi Kiều chỉ biết buồn với mây sớm những lúc tan giấc mơ, trở lại với hiện thực và khóc với đèn khuya trong những đêm dài không ngủ được, bởi vậy mà:

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Nàng tự đối thoại với lòng mình trong cô đơn vì thương nhớ. Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Tại sao Nguyễn Du lại để Kiều nghĩ đến người yêu trước cha mẹ mặc dù nàng là người con chí hiếu, xem hiếu nặng hơn tình? Điều này có lẽ là vì: Công lao cha mẹ Kiều đã đền đáp một phần rồi, nhưng còn nợ tình với chàng Kim là nàng không bao giờ trả được nữa! Nhớ lại những lời đã từng thề thốt:

Dẫu thay mái tóc, dám rời lòng tơ

Đã nguyền hai chừ đồng tâm

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai

Nàng lại càng đau đớn nghĩ đến “Thề hoa chưa ráo chén vàng” thì đã phải “Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa”. Và nhất là đã phải phụ chàng để rồi thất thân với một gã con buôn đê tiện như Mã Giám Sinh thì sao khỏi xót xa, tủi hổ, sao không cảm thấy có lỗi nặng với người mình yêu?

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”.

“Tưởng” là mơ tưởng, là nhớ, là thương. Bao nhiêu nỗi xót xa gửi vào chữ “tưởng” ấy. Và bây giờ, sau khi đã lỗi thề với Kim Trọng, nàng chỉ còn dám nhớ tới Kim Trọng với một chữ “người”. “Người” chứ không phải là “Kim lang”, “tình quân” hay “chàng”. Bao thiên lí cách ngăn trong chữ “người” đó. Thương người yêu đã vậy, nàng lại thương mình:

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Với cha mẹ, mặc dầu đã bán mình chuộc cha, nàng vẫn chưa xem đó là đã làm tròn đạo con:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.

Sân Lai cách mấy năng mưa,

Có khi gốc Tử đã vừa người ôm.

Chính trong hoàn cảnh lưu lạc quê người của nàng ta mới thấy hết tấm lòng chí hiếu của người con gái ấy. Nàng biết sẽ còn bao cơn “cát dập sóng vùi” nhưng vẫn chỉ canh cánh lo cho cha mẹ thiếu người đỡ đần phụng dưỡng vì hai em còn “sân hoè đôi chút thơ ngây”. Bốn câu mà đóng tới bốn điển tích “người tựa cửa”, “quạt nồng ấp lạnh”, “sân Lai”, “gốc Tử”, Nguyễn Du đã làm cho nỗi nhớ của Kiểu đậm phần trang trọng thiết tha và có chiều sâu nhưng cúng không kém phần chân thực. Tình đã là nửa mảnh lòng của Kiều, mà cảnh cũng là nửa mảnh lòng nữa. Nhìn vào đâu nàng cũng thấy nỗi buồn phủ dâng. Giữa cái mênh mông của biển trời hoàng hôn, nàng chỉ còn đủ sức để thấy một cánh buồm lẻ loi:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Như một con người bất hạnh đạt vào cô đảo, nàng cứ mỏi mòn chờ một con thuyền đến cứu vớt, mà thuyền chỉ thấp thoáng xa xa trên biển rồi mất hút ở đường chân trời chứ không bao giờ cập bến. Thà rằng không nhìn thấy gì còn hơn loé lên tia hi vọng rồi vụt tắt, thì sự dày vò của nỗi thất vọng thật khủng khiếp. Càng chờ càng lún sâu vào tuyệt vọng, lòng Kiều cứ dần dần chán chường nhàu nát theo ước mơ lụi tàn. Đổ rồi nàng chợt rùng mình:

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Dòng đời như dòng nước cuốn xiết mà thân con gái như “hoa đã lìa cành” bị va đập vào bao con sóng cho đến tả tơi, rồi theo nước trôi đi vô định. Tim người đọc như nhói lên trước câu hỏi đau đáu của Kiều ” biết là về đâu”. Nước mênh mang buồn, cỏ cây cũng dầu dầu thảm:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

vẫn sắc xanh một màu trải tới chân trời nhưng bất động, ủ rũ chứ không rợn lốn như sóng chạy toả đến tận chân trời trong tiết thanh minh nữa. Giữa cảnh chết lặng của trời đất thì vẫn có một âm thanh gầm gào quanh đây. Nhưng đó tiếng của sóng ngoài kia hay tiếng gầm gào của nỗi sự dâng lên trong lòng nàng: Con sóng gầm của định mệnh lại sắp ập xuống thân phận lạc loài, mà cuộc đời là “một cung gió thảm mưa sầu”.

Tám câu thơ chia làm bốn cặp, mỗi cặp diễn tả một nỗi buồn khác nhau, lặp đi lặp lại một kiểu cấu trúc cảnh – tình song song, với điệp ngữ “buồn trông” đằng đẵng như tiếng thở dài, cùng nhịp thơ chậm, gợi buồn rười rượi bởi thanh bằng chiếm ưu thế. Nghệ thuật của đoạn thơ đã thực sự đóng một vai trò quan trọng góp phần làm nổi bật lên bức tranh tâm trạng của Kiều. Quả như Nguyễn Du đã viết:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?.

Hiện thực khách quan luôn uốn lượn theo tình điệu, cảm xúc chú quan của con người, đồng điệu với tình người, nên qua đôi mắt tâm hồn tan nát của Kiều, cảnh vật tươi đẹp ở lầu Ngưng Bích nhuộm đẫm màu thảm sầu và không khí u uất. Ngược lại với cái tên “Ngưng Bích (xanh biếc), đọc xong đoạn thợ, tôi chỉ thấy toàn một màu xám đen phủ khắp chân mây mặt biển trước lầu.

Đào Nguyên Phổ từng khen Truyện Kiều: “Nói tình thì vẽ được hình trạng hợp, li, cam, khổ, mà tình không rời cảnh. Tả cảnh thi bày hết thi vị tuyết, nguyệt, phong, hoa mà cảnh tự vướng tình, mực muốn múa mà bút muốn bay”, quả nhiên không sai. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích mượn cảnh ngụ tình hay vào bậc nhất của Truyện Kiều cũng như của văn học trung đại Việt Nam, chứng tỏ được “Tay tiên gió táp mưa sa” của cụ Nguyễn Tiên Điền. Truyện Kiều có tới hơn 3000 câu, mà “Kiều ở lầu Ngưng Bích” chỉ có 22 câu – chiếm một phần rất nhỏ trong tác phẩm lừng danh ấy. Nhưng đằng sau 22 câu thơ ít ỏi đó không chỉ có một tài năng lớn mà trước hết là một trái tim lớn của nhà thơ dành cho nhân vật; cho con người và cuộc đời. Chính trái tim ấy đã hoà tan máu mình cho 3254 câu Kiều để rồi “khiến người cười, khiến người khóc, khiến người vui, khiến người buồn, khiến người giở đi giở lại ngàn lần, càng đọc thuộc lại càng không biết chán” (Đào Nguyễn Phổ – tựa Loạn trường tân thanh). Và để mãi mãi người đọc còn khóc thương cho tấm lòng trinh bạch và tâm sự đau đớn của nàng Kiều.

Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Bài làm 5

Sau khi bán mình chuộc cha và em, Thúy Kiều đã bị tên bán tớ mua nguyệt Mã Giám Sinh câu kết với Tú Bà đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh. Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất đó là một sự giam lỏng. Sau lưng nàng là biết bao song gió, đoạn trường. Tại lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ người yêu, nhớ mẹ cha và xót xa cho bản thân mình.

Cảnh lầu Ngưng Bích hiện ra trước mắt Thúy Kiều với sự mênh mông, trơ trọi:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Không gian rộng lớn “non xa trăng gần” “bát ngát” ấy có sự cô đơn, lẻ loi của con người. Từ “xa trông” biểu lộ rất rõ tâm trạng thẫn thờ, đón đợi từ cảnh vật thiên nhiên, mong muốn phá tan sự đơn độc của con người với cảnh vật, nhưng càng đón đợi, ngóng trông, cảnh vật càng trở nên vắng lặng.

Trăng gần vì sáng nhưng ánh trăng nhỏ quá, núi rộng và to nhưng xa vì trong đêm trăng non mờ quá. Cả “cát vàng cồn nọ” cũng xa con người. Thúy Kiều trở nên cô đơn trước không gian vũ trụ bao la ấy. Và cảm nhận ” Khóa xuân” là cảm nhận rất thực tế. Kiều thấy mình như không còn tuổi trẻ, đoạn tuyệt với tuổi trẻ khi đã rơi vào chốn lầu xanh.

Cảnh mở đầu bát ngát, mênh mông, làm con người cô đơn trong cảnh ấy, cũng là cảnh mở ra những tâm trạng của nàng Kiều:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Từ láy “bẽ bàng” cho thấy sự hổ thẹn của Kiều, nàng đang tự vấn bản thân, nỗi chán nản hòa với buồn tủi đang tràn ngập trong tâm trạng Kiều. Cảnh rộng lơn, tình cô đơn, con người không có nơi neo đậu. Kim Trọng là người Thúy Kiều nhớ đến đầu tiên trong cảnh ấy:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những dày trông mai chờ

Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ là lời thổn thức của một trái tim từng tha thiết mặn nồng với tình yêu đầu nhưng dường như thổn thức lắm. Nàng nhớ lại cảnh thề nguyền cùng Kim Trọng, lại tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng đang mòn mỏi, ngóng trông tin tức của nàng một cách vô vọng. Bởi vậy nàng xót xa, thấu hiểu tấm lòng chàng Kim nhưng lại thấm thía cảnh bơ vơ, trơ trọi của mình. Nàng hiểu rõ tấm lòng son sắt, thuỷ chung của mình với Kim Trọng nhưng nàng cũng hiểu rõ sự trong trắng sẽ không bao giờ “gột rửa” được. Những câu thơ lảy lên nỗi nhớ nhung tha thiết, đồng cảm và tự trách bản thân của Kiều.

Sau nỗi nhớ người yêu nàng nhớ cha mẹ:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Vì thương nhớ cha mẹ nên hình ảnh cha mẹ sớm hôm tựa cửa đón đợi người con hiếu thảo cứ lẩn quất quanh Kiều, nàng xót xa vì điều đó, càng xót xa hơn khi nghĩ cha mẹ đã già yếu “có khi gốc tử đã vừa người ôm” giờ đây ai sẽ là người thay mình chăm sóc cha mẹ “Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Đoạn thơ có sử dụng điển tích, điển cố, cùng câu hỏi tu từ cho thấy rõ nỗi nhớ cha mẹ tha thiết trong xót xa không kém nỗi nhớ người yêu. Đó là nỗi nhớ của người con hiếu thuận với cha mẹ.

Kiều nhớ tới chàng Kim trước sau đó nhớ đến cha mẹ. Đó cũng là sự cảm thông hết sức lạ lùng của đại thi hào Nguyễn Du. Tác giả là người hiểu sâu sắc nhất những tâm trạng mà Thúy Kiều đang trải qua. Người con gái có trái tim yêu thương mặn nồng ấy từng “cậy em, em có chịu lời”, từng mong muốn sự đáp đền tình cảm riêng tư của mình với người yêu nhờ vào sự giúp đỡ của em gái thì khi đã lỗi với lời hẹn ước trước kia, trái tim nàng mới đớn đau tột độ. Tâm trạng phụ bạc lấn án nàng cả mười lăm năm lưu lạc. Bởi vậy nhớ người yêu trước là nỗi nhớ được cất lên từ chính sự thấu hiểu của đại thi hào có con mắt thấu suốt ngàn đời.

Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ nhưng cuối cùng nàng vẫn quay lại với cảnh ngộ của mình. Sống với tâm trạng và hoàn cảnh hiện tại. Tám câu thơ cuối là bức tranh cảnh vật được khắc họa thông qua điệp từ “buồn trông”. Mỗi cảnh vật qua con mắt , cái nhìn của Kiều đều mang theo những tâm trạng, sự khắc khoải riêng. Nàng mỗi lúc lại chìm sâu trong nỗi buồn của mình. Điệp từ “buồn trông” vang lên dồn dập đẩy nàng Kiều vào tâm thế của con người cô đơn đến bơ vơ, bất định:

Buồn trông của bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

………………………………………… Ầm ầm tiếng song kêu quanh ghế ngồi

Những câu thơ miêu tả tâm trạng bất ổn, buồn chán, ,lo lắng thoát ra từ thiên nhiên ấy được kết thúc bằng tiếng “ầm ầm” của sóng như báo trước cơn tai biến sẽ đổ sập xuống đầu Kiều.

Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, lấy cảnh vật làm nền cho con người, Nguyễn Du mở đầu đoạn trích bằng không gian rộng lớn nhưng cô đơn. Kết thúc bằng nỗi cô đơn vô vọng đã đẩy lên cao độ trong không gian của sự vắng lặng không một bóng người. Tất cả đẩy Kiều đến nhưng lối rẽ không rõ ràng của vận mệnh.

Cảm nhận của em về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Bài làm 6

ruyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. Trong truyện Kiều Nguyễn Du không chỉ thành công trong việc xây dựng nhân vật mà còn đặc biệt thành công trong việc sử dụng bút pháp ” Tả cảnh ngụ tình”, tức là lấy cảnh vật để nói lên tâm trạng của con người. Đoạn trích được coi là thành công và thể hiện rõ nhất được bút pháp này chính là ” Kiều ở lầu Ngưng Bích”

Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, tủi nhục và phẫn uất, Thúy Kiều đã dùng dao tự vẫn,Tú Bà sợ mất vốn mất lãi nên đã hết sức thuốc thang rồi đưa Thúy Kiều vào ở trong lầu Ngưng Bích, đợi thời cơ thực hiện mưu ma chước quỷ, buộc Thúy Kiều phải làm theo ý mình.

Mở đầu, Nguyễn Du đã vẽ ra khung cảnh không gian và thời gian ở lầu Ngưng Bích.Không gian càng rộng lớn, tịch mịch thì càng làm nổi bật nên tâm trạng cô đơn và cảnh ngộ bi kịch của nàng Kiều.

” Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Hai chữ ” khóa xuân” đã bộc lộ được rõ nét tình cảnh hiện tại đáng thương của Thúy Kiều khi bị giam hãm, cầm tù ở lầu Ngưng Bích.Quá khứ là gia biến, hiện tại là mất tự do, lại thân gái dặm trường nơi đất khách. Đóchính là cảnh ngộ đầy bi kịch của nàng Kiều trong những ngày bị giam ở lầu Ngưng Bích. Nguyễn Du đã đặt nhân vật của mình trong hoàn cảnh ấy để bộc lộ tâm trạng,nhưng tác giả chủ yếu thể hiện tâm trạng qua ngoại cảnh.

Không gian thật là mênh mông với ” vẻ non xa tấm”, ” bốn bề bát ngát”,” cát vàng cồn nọ”, gợi lên không gian mênh mông mà rợn ngợp.Từ lầu cao trông ra chỉ thấy những dãy núi xa mờ xa, bụi cây, cồn cát. Lầu Ngưng Bích như mây trời giữa trăng núi, gợi ra cái tịch mịch, lạc long, bơ vơ giữa đất trời rộng lớn.Trăng non xa với trăng gần không phải khoảng cách được đo bằng chiều dài vật lí mà là khoảng cách trong tâm tưởng của nàng Kiều.Cảnh có thể là thực đấy nhưng cũng có thể chỉ là tượng trưng, ước lệ gợi không gian bao la, bát ngát.Theo khung tranh mỗi lúc càng thêm lới rộng không giới hạn, không đường viền. Bức tranh có đường nét mền mại của non cao, có sắc vàng ánh hồng tươi tắn của trăng thanh, của bụi cát nhưng vắng bóng con người,vắng âm thanh của sự sống. Cảnh lầu Ngưng Bích vì thế mà trở nên trống trải, hoang vắng và lạnh lẽo.

Từ cảnh vật lạnh lẽo, không gian rộng lớn mênh mông vô cùng,vô tận, Thúy Kiều lại ý thức sâu sắc về cảnh ngộ bi kịch của bản thân.

” Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Chỉ một câu ” bẽ bàng” thôi,Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng hoang mang đến tột độ, niềm chua sót về cuộc đời, số phận của mình.Cụm từ ” mây sớm đèn khuya” gợi ra không gian tuần hoàn khép kín, cũng gợi ra nỗi đau không có điểm dừng,cũng không có điểm kết thúc. Ở đây, tình cảnh của con người đã đã hòa nhập làm một với cái khung cảnh u buồn, trống vắng của cảnh vật. Hay nói cách khác, khi tâm trạng người ta buồn thì cảnh vật dù sống động,vui tươi đến đâu thì cũng bị nhúng một màu tâm trạng, đúng như Nguyễn Du đã từng viết:

” Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Trong tám câu thơ tiếp theo,Kiều không còn sống với thế giới cô đơn của mình nữa mà lại chín dần vào không gian,thời gian của tâm trạng,của kí ức với hình bong của những người thân yêu. Cảnh tả mờ đi để nỗi nhớ thương cồn lên da diết.

Trước hết đó là nỗi thương nhớ hướng về chàng Kim.

” Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Nỗi nhớ Kim Trọng được Nguyễn Du giới thiệu bằng từ ” tưởng” thật tinh tế và ý nhị. ” người dưới nguyệt chén đồng” là hoán dụ chỉ chàng Kim, đồng thời gắn với kỉ niệm đêm trăng hẹn thể của hai người.

Bằng cách diễn đạt này ta không chỉ thấy nỗi nhớ kín đáo của Kiều dành cho chàng Kim mà còn thấy tiếc nuối, xót xa cho những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ cùng lời hẹn ước trăm năm.

Nàng Kiều đã tưởng tượng nơi xa xôi nào đó Kim Trọng cũng đang hướng về mình,đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích. Sau đó Kiều phải đối diện với chính mình, đó chính là nỗi mặc cảm về bản thân và tình trạng đơn độc, bơ vơ nơi đất khách quê người.

” Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”

Nghĩ về cha mẹ, nàng xót xa thương cảm vì cha mẹ hôm mai ” tựa cửa” ngóng tin con mà mình lại một mình nơi đất khách. Sự xa cách về không gian, trói buộc về thân phận đã không thể cho Kiều quạt nồng ấp lạnh” gần gũi, phụng dưỡng bậc sinh thành.

Miêu tả nỗi nhớ về chàng Kim trước nỗi nhớ về cha mẹ, Nguyễn Du đã thể hiện được một cái nhìn đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nàng Kiều. Sở dĩ Kiều hướng nỗi nhớ về Kim Trọng trước vì cảm thấy có lỗi khi phụ tấm lòng, phá bỏ đi lời thề nguyền với chàng Kim; còn cha mẹ nàng dù không thể ở bên chăm sóc nhưng cũng đã kịp báo hiếu phần nào và niềm tin khi có Vân và em trai chăm sóc cho cha mẹ.

Tám câu thơ cuối bài thể hiện tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều ở nhiều cung bậc thông qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.Đoạn thơ gồm bốn cặp thơ lục bát, mỗi cặp câu làm hiện lên bức tranh cảnh vật, mỗi bức tranh cảnh vật đồng thời là một ẩn dụ về cảnh ngộ và tâm trạng nàng Kiều.

” Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

” Buồn trông” được điệp đi điệp lại ở đầu bốn câu thơ làm nhấn mạnh nỗi nhớ ngày càng dâng lên tha thiết trong lòng Kiều. Cũng gợi liên tưởng về thân phận bọt bèo, trôi nổi giữa dòng đời như ” hoa trôi”

Bốn câu thơ cuối lại như dự báo về một tương lai đầy đau khổ, sóng gió bủa vây lấy cuộc đời của Kiều

” Buồn trông song cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng song kêu quanh ghế ngồi”

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm trạng của nàng Kiều thật sinh động và chân thực. Qua đó ta cảm nhận được cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Từ khóa tìm kiếm nhiều:

cảm nhận về nhân vật thúy kiều trong đoạn trích kiều ở lầu ngưng bích

cảm nhận của em về thuý kiêu trong đoan trích kiêu ơ lầu ngưng bích