Top 10 # Các Giải Pháp Giáo Dục Toàn Diện Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

9 Giải Pháp Đổi Mới Toàn Diện Giáo Dục

– Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) với nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT.

Nghị quyết nêu rõ, thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH-HĐH, lĩnh vực GD-ĐT nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả GD-ĐT còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục ĐH, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống GD-ĐT thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức GD-ĐT. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc…

ẢnhLê Anh Dũng

Quản lý GD-ĐT còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.

Do vậy, định hướng đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT xác định rõ quan điểm, mục tiêu và các nhóm giải pháp triển khai trong thời gian tới.

2030 – Việt Nam đạt trình độ tiên tiến khu vực

Nghị quyết đặt mục tiêu chung tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả GD-ĐT; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.

Xây dựng nền giáo dục mở…. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

Mục tiêu cụ thể với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020.

Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện…

Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ THCS (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau THCS; THPT phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.

Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục THPT và tương đương.

Giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp.

Giáo dục ĐH, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học.

Giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề…

Đối với việc dạy Tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài, có chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài…

9 nhiệm vụ, giải pháp

Trước hết tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới GD-ĐT.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Trên cơ sở mục tiêu đổi mới GD-ĐT, cần xác định rõ và công khai mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo.

Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp THPT theo hướng giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và giáo dục ĐH.

Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Trước mắt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở THPT. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế giới. Thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục ĐH theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực hành. …

Đổi mới căn bản công tác quản lý GD-ĐT, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở GD-ĐT.

Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD-ĐT. Trong đó, khẳng định, lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.

Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển GD-ĐT. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển GD-ĐT, ngân sách nhà nước chi cho GD-ĐT tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở GD-ĐT công lập…

Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý và cuối cùng là chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong GD-ĐT…

Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong GD-ĐT…

Lập Ủy ban Quốc gia đổi mới giáo dục

Các cấp ủy, tổ chức Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tổ chức việc học tập, quán triệt tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động thực hiện Nghị quyết.

Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành mới hệ thống pháp luật về GD-ĐT, các luật, Nghị quyết của Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực hiện.

Ban cán sự Đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản dưới luật; xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết.

Thành lập Ủy ban Quốc gia Đổi mới GD-ĐT do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch Ủy ban.

Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban Đảng, ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, Đảng ủy trực thuộc Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.

Tăng Cường Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Toàn Diện

Trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện có 772 trường Tiểu học với gần 762.000 học sinh (tăng 8 trường và hơn 23.000 học sinh so với năm học 2018 – 2019). Sĩ số trung bình học sinh/lớp là 40 học sinh. Tỷ lệ học sinh học 2 buổi/ngày tiếp tục tăng với 96,5%.

Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên được các đơn vị tiếp tục duy trì. Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên của các trường Tiểu học trên địa bàn thành phố là gần 36.000 người, trong đó 100% cán bộ, giáo viên đạt chuẩn về trình độ đào tạo. Tỷ lệ trên chuẩn đạt 99,9% đối với cán bộ quản lý và 96,3% đối với đội ngũ giáo viên.

Giám đốc Sở GD&ĐT Hà Nội Chử Xuân Dũng phát biểu tại Hội nghị.

Tính đến hết tháng 10/2019, toàn thành phố có 519 trường Tiểu học được công nhận đạt Chuẩn quốc gia (chiếm 67,2%), trong đó có 30 trường đạt Chuẩn quốc gia mức độ 2. Ngoài ra, còn có 5 trường được công nhận trường Tiểu học Chất lượng cao.

Học kỳ I vừa qua, 100% các trường đã thực hiện nghiêm túc chương trình môn học, đảm bảo các yêu cầu đạt về kiến thức, kỹ năng theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của Bộ GD&ĐT quy định. Chất lượng giáo dục đạo đức, chất lượng dạy và học tiếp tục được nâng cao. Công tác quản lý chỉ đạo và thực hiện đổi mới phương pháp dạy học luôn chủ động, tích cực đã đem lại hiệu quả tốt.

Bên cạnh đó, các quận, huyện, thị xã đều đã xây dựng kế hoạch, triển khai và tổ chức tập huấn bồi dưỡng đội ngũ cho cán bộ, giáo viên cốt cán về công tác phổ cập giáo dục; tăng cường các giải pháp, đẩy mạnh ứng dụng phần mềm phổ cập giáo dục nhằm nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học. Công tác giáo dục trẻ khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm.

Phát biểu tại Hội nghị, Giám đốc Sở GD&ĐT Hà Nội Chử Xuân Dũng đã ghi nhận những nỗ lực của cấp học Tiểu học trong học kỳ I. Thời gian tới, Giám đốc Sở GD&ĐT Hà Nội đề nghị các Phòng GD&ĐT cần tích cực chủ động tham mưu với địa phương làm tốt công tác quy hoạch mạng lưới trường lớp.

Các nhà trường xây dựng kế hoạch cụ thể khắc phục triệt để những tồn tại yếu kém; triển khai công nghệ thông minh vào công tác quản lý, các phần mềm hỗ trợ bài giảng nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các thầy cô giáo và học sinh tiếp cận với đổi mới phương pháp dạy học; quan tâm hơn nữa đến vấn đề an ninh, an toàn trường học; tăng cường công tác tuyên truyền phòng ngừa xâm hại trẻ em…

Với công tác tuyển sinh năm học 2020 – 2021, Giám đốc Sở GD&ĐT Hà Nội nhấn mạnh, các đơn vị thực hiện nghiêm các quy định về tuyển sinh, hạn chế tối đa việc tuyển sinh trái tuyến. Đồng thời chuẩn bị tốt nhất mọi mặt về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cũng như đội ngũ giáo viên để triển khai có hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông 2018 trong năm học tới.

P.V

Nguồn :

Giải Pháp Quan Trọng Để Giáo Dục Toàn Diện Cho Học Sinh

(GD&TĐ) -Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” (THTT-HSTC) đã được phát động và triển khai trong toàn ngành 2 năm qua. Phong trào thi đua đã tạo nên diện mạo mới trong các trường học, góp phần gắn bó thầy, trò trong học tập, rèn luyện, trau dồi kỹ năng sống và tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Các cấp chính quyền, các ban ngành, đoàn thể địa phương đã thể hiện sự quan tâm và hỗ trợ có hiệu quả trong việc triển khai thực hiện phong trào.

Để tăng cường nhận thức về phong trào và triển khai đúng định hướng, chúng tôi xin lược dẫn một số ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân – người khởi xướng và phát động phong trào có ý nghĩa này cách đây 2 năm, khi còn kiêm nhiệm Bộ trưởng Bộ GD-ĐT.

Phó Thủ tướng CP Nguyễn Thiện Nhân và HS Trường Phổ thông Nguyễn Tất Thành HN.

I-Những nhận thức chung

Xây dựng THTT-HSTC chính là sự cụ thể hóa của yêu cầu “dạy tốt, học tốt” trong hoàn cảnh hiện nay. Dạy tốt không chỉ là hoạt động của các cá nhân giáo viên, mà còn là hoạt động của tập thể thầy cô, là sự tham gia của gia đình, đoàn thể vào quá trình sư phạm, là việc thiết kế các hoạt động để các em tham gia trong và ngoài nhà trường, tạo môi trường thân thiện cho các em. Dạy tốt không chỉ là nói cho các em nghe, chỉ cho các em làm, mà còn là tạo điều kiện để các em tự tìm hiểu, tự khám phá, để các em nói, để các em tự đề xuất việc cần làm và tự làm. Dạy và học tốt không chỉ là dạy qua sách vở, mà còn qua thực hành, không chỉ hiểu biết mà còn làm, thực hành kỹ năng sống, tìm hiểu cuộc sống thực và cuộc sống quá khứ của dân tộc. Dạy tốt, học tốt không chỉ có thầy cô là người dạy, mà chính các em, qua các hoạt động tích cực trong học tập, hoạt động tập thể, hoạt động xã hội mà tự giúp nhau trưởng thành, tự rèn luyện. Các em học sinh không chỉ là đối tượng cần được giáo dục mà thông qua hoạt động tích cực của các em, các em chính là những người nuôi dưỡng và phổ biến văn hóa dân tộc, truyền thống cách mạng của đất nước. Các em cũng là chủ thể của quá trình giáo dục xã hội.

THTT-HSTC chính là dạy học có chất lượng. Thầy cô phát huy tính chủ động, sáng tạo để đổi mới phương pháp dạy-học trong điều kiện hội nhập quốc tế; học sinh tích cực, chủ động trong học tập, vui chơi, chăm sóc các di tích lịch sử văn hóa và tham gia các hoạt động xã hội; tăng cường giáo dục và thực hành kỹ năng sống. Năm nội dung xây dựng THTT-HSTC chính là sự cụ thể hóa yêu cầu dạy tốt – học tốt trong giai đoạn hiện nay.

Làm thế nào để đánh giá các trường trong phong trào thi đua Xây dựng THTT-HSTC? Thực ra, phần thưởng lớn nhất đối với các nhà trường, với các em học sinh khi thực hiện phong trào này là niềm vui đến trường của các em, là hiệu quả và chất lượng giáo dục, là sự trưởng thành về nhân cách của các em, là niềm vui của gia đình, là niềm tin của xã hội đối với nhà trường và ngành giáo dục. Sự đánh giá chính xác nhất đối với nhà trường khi tham gia phong trào thi đua Xây dựng THTT-HSTC chính là sự thừa nhận của học sinh nhà trường, của các thầy cô giáo trong trường về việc trường đã đạt được 5 nội dung ở mức nào, bằng cách nào. Như vậy, việc đánh giá kết quả phong trào thi đua ở mỗi trường cần đối chiếu với tình hình của trường trước khi triển khai phong trào thi đua, hoặc trước mỗi đầu năm học, đối chiếu với 5 nội dung của phong trào, nhà trường đã chọn mức phấn đấu cho từng năm học thế nào theo tinh thần: mỗi năm học tạo sự chuyển biến, tiến bộ thực sự ở một số nội dung, phát huy tối đa khả năng của nhà trường và xã hội, nhưng không chạy theo “bệnh thành tích”. Trường nào có điều kiện xuất phát khó khăn, nhưng đạt được tiến bộ cụ thể, có cách làm hiệu quả, sáng tạo, đã tự nâng mình lên qua mỗi năm học đều xứng đáng được đánh giá cao và khen thưởng. Có thể nói đơn giản, việc đánh giá phong trào thi đua ở mỗi cơ sở theo tiêu chí 5+1, tức là 5 nội dung của phong trào thi đua, cộng với cách làm thế nào để thực hiện 5 nội dung đó (tính chủ động, sáng tạo, hiệu quả).

Việc đánh giá kết quả phong trào thi đua của một trường theo tiêu chí 5+1 nên làm ở 2 hình thức:

*Tự tập thể học sinh, giáo viên và trường phân tích, đánh giá, sau đó nhà trường tổng hợp và công bố.

*Cấp trên và các tổ chức ngoài nhà trường đánh giá: Trên cơ sở hoạt động thực tế của nhà trường, báo cáo của hiệu trưởng, ý kiến đánh giá của giáo viên, học sinh, Phòng và Sở GD-ĐT phối hợp với ngành Văn hóa-Thể thao-Du lịch và Đoàn TNCS HCM, các đoàn thể và chính quyền địa phương đánh giá và đề nghị các cấp khen thưởng.

Việc đánh giá và khen thưởng cần được tiến hành hàng năm, có sơ kết vào cuối học kỳ 1.

II-Hai nội dung trọng tâm cần lưu ý 1-Đổi mới phương pháp dạy học *Về định hướng chỉ đạo

Phải tạo động lực đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) cho giáo viên, hoạt động đổi mới PPDH chỉ có thể thành công khi giáo viên có động lực hành động và chuyển hóa được từ ý chí trở thành tình cảm và tinh thần trách nhiệm đối với học sinh, đối với nghề dạy học. Phải có sự hướng dẫn của các cấp quản lý giáo dục về phương hướng và những việc cần làm để đổi mới PPDH. Hướng dẫn về đổi mới PPDH phải thông suốt từ các cơ quan thuộc Bộ GD-ĐT đến các Sở, Phòng GD-ĐT, cán bộ quản lý các trường học và từng giáo viên, không để giáo viên phải đơn độc trong việc đổi mới PPDH. Hoạt động đổi mới PPDH phải có sự hỗ trợ thường xuyên của đồng nghiệp thông qua dự giờ thăm lớp và cùng rút kinh nghiệm. Trong quá trình chỉ đạo đổi mới PPDH, cần nghiên cứu để tổ chức hợp lý việc lấy ý kiến của học sinh về PPDH của thầy cô giáo với tinh thần xây dựng. Quá trình thực hiện đổi mới PPDH phải là quá trình hoạt động tự giác của bản thân giáo viên và phù hợp với yêu cầu của cơ quan quản lý giáo dục. Cần tổ chức phong trào thi đua và có chính sách khen thưởng nhằm động viên kịp thời đối với các đơn vị, cá nhân tích cực và đạt hiệu quả trong hoạt động đổi mới PPDH ở các trường, tổ chức nhân rộng các điển hình tập thể, cá nhân tiên tiến trong phong trào đổi mới PPDH.

*Về trách nhiệm của giáo viên và các cơ quan quản lý giáo dục:

Để đổi mới PPDH, mỗi giáo viên phải thực hiện tốt các yêu cầu sau đây:

-Nắm vững nguyên tắc đổi mới PPDH, cách thức hướng dẫn học sinh lựa chọn phương pháp học tập, coi trọng tự học và biết xây dựng các tài liệu chuyên môn phục vụ đổi mới PPDH.

-Biết những giáo viên dạy giỏi có PPDH tiên tiến ở địa phương và giáo viên giỏi cùng môn để học hỏi kinh nghiệm ở trong trường và trường bạn.

-Nắm chắc điều kiện của trường để có thể khai thác giúp bản thân đổi mới PPDH. Biết và tranh thủ được những ai có thể giúp đỡ mình trong việc đổi mới PPDH.

-Biết cách tiếp nhận những thông tin phản hồi từ sự đánh giá nhận xét của học sinh về PPDH của mình; kiên trì phát huy mặt tốt, khắc phục mặt yếu, tự tin, không tự ti hoặc chủ quan thỏa mãn.

-Hướng dẫn học sinh về phương pháp học tập và biết cách tự học, tiếp nhận kiến thức và rèn luyện kỹ năng, tự đánh giá kết quả học tập.

Các tổ chuyên môn phải hình thành giáo viên cốt cán về đổi mới PPDH. Thường xuyên tổ chức dự giờ thăm lớp và nghiêm túc rút kinh nghiệm, tổ chức sinh hoạt chuyên môn với nội dung phong phú, thiết thực, động viên tinh thần cầu thị trong tự bồi dưỡng của giáo viên, giáo dục ý thức khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp. Đánh giá đung đắn và đề xuất khen thưởng những giáo viên tích cực đổi mới PPDH và thực hiện đổi mới PPDH có hiệu quả.

Hiệu trưởng phải phấn đấu làm người đi tiên phong về đổi mới PPDH. Kiên trì tổ chức hướng dẫn giáo viên thực hiện đổi mới PPDH. Chăm lo các điều kiện, phương tiện phục vụ giáo viên đổi mới PPDH. Tổ chức hợp lý việc lấy ý kiến của giáo viên và học sinh về chất lượng giảng dạy, giáo dục của từng giáo viên trong trường. Đánh giá sát đúng trình độ, năng lực và sự phù hợp trong PPDH của từng giáo viên trong trường, từ đó kịp thời động viên khen thưởng những giáo viên thực hiện đổi mới PPDH mang lại hiệu quả. Thực tế đã chỉ rõ: Không thể và không nên đánh giá giáo viên một cách cảm tính. Cần đưa ra tiêu chí rõ ràng, dễ hiểu, dễ lượng hóa và quy trình đánh giá giáo viên sau mỗi năm học và công bố kết quả đánh giá.

Sở GD-ĐT, Phòng GD-ĐT sẽ chịu trách nhiệm cụ thể hóa chủ trương chỉ đạo của Bộ GD-ĐT về đổi mới PPDH cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và tổ chức tổng kết thực tiễn, tiếp tục phát triển lý luận về đổi mới PPDH. Tổ chức bồi dưỡng bằng mọi hình thức cho giáo viên về đổi mới PPDH, cung cấp những nguyên tắc đổi mới PPDH. Xây dựng đội ngũ giáo viên cốt cán của từng bộ môn và đội ngũ cộng tác viên thanh tra chuyên môn. Giới thiệu các điển hình, chăm sóc các điển hình, tổ chức trao đổi, phổ biến và phát huy tác dụng của các gương điển hình về đổi mới PPDH. Huy động, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất của địa phương, của ngành để tạo điều kiện tốt nhất có thể nhằm hỗ trợ tích cực cho việc đổi mới PPDH.

Các cơ quan thuộc Bộ GD-ĐT chỉ đạo tốt phong trào thi đua, kịp thời động viên khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích, tổng kết để phổ biến kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến về đổi mới PPDH. Bố trí các nguồn nhân lực, tài chính để không ngừng xây dựng, chuẩn hóa, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và chuẩn hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất, tạo những điều kiện then chốt cho giáo viên tiếp cận và áp dụng PPDH tiên tiến.

2-Giáo dục đạo đức và rèn luyện kỹ năng sống

Trước đòi hỏi “giáo dục phổ thông là giáo dục và hình thành nhân cách công dân tốt của nước Việt Nam” thì đây là một điểm hạn chế của các nhà trường chúng ta hiện nay. Qua 2 năm triển khai phong trào Xây dựng THTT-HSTC, hạn chế này đã được khắc phục bước đầu. Rất nhiều hoạt động ngoài giờ lên lớp đã tạo môi trường để giáo dục đạo đức lối sống cho các em, rèn luyện cho các em những kỹ năng sống cần thiết. Tuy nhiên, cần lưu ý thêm một số điểm sau đây:

-Môi trường giáo dục phải luôn gắn với GD đạo đức để trở thành công dân tốt. Cần phải tăng cường nguồn lực trong và ngoài nhà trường cho giáo dục đạo đức, hình thành các chuẩn đạo đức (định hướng giá trị sống). Cần khoa học hóa việc giáo dục đạo đức lối sống, xây dựng công nghệ giáo dục đạo đức, công dân để học sinh trở thành chủ thể các giá trị đạo đức và văn hóa, trong đó đặc biệt lưu ý ý thức xây dựng và phát huy giá trị của gia đình. Gia đình là cái nôi giáo dục đầu tiên của mỗi con người; môi trường giáo dục gia đình là rất quan trọng trong mối quan hệ phối hợp với nhà trường và xã hội. Gia đình là tế bào hạnh phúc suốt đời của mỗi con người. Giáo dục giá trị gia đình, văn hóa gia đình là rất cần thiết hiện nay, bên cạnh giáo dục lòng yêu nước và truyền thống văn hóa dân tộc.

Trong các kỹ năng sống của thời kỳ hội nhập toàn cầu, có hai kỹ năng không thể thiếu, đó là kỹ năng sử dụng ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Bộ GD-ĐT cũng đã vào cuộc trong việc tăng cường giáo dục 2 kỹ năng quan trọng này, nhưng cần phải quyết liệt hơn nữa.

Trong thời gian tới đây, phong trào thi đua “Xây dựng THTT-HSTC” sẽ có thêm nội dung mới và sẽ xuất hiện nhiều sáng kiến, nhiều kinh nghiệm hay từ các nhà trường. Từ năm học tới, cùng với 5 bộ, ngành sẽ có thêm sự phối hợp của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm, của gia đình cũng sẽ được phát huy tốt hơn. Với những kết quả tốt đẹp đầu tiên của phong trào thi đua, với sự chung tay góp sức của toàn xã hội, sự nỗ lực gương mẫu của hơn 1 triệu thầy cô giáo và CBQLGD và sự cố gắng của hơn 16 triệu học sinh trong cả nước, phong trào thi đua chắc chắn sẽ phát huy tác dụng và mang đậm dấu ấn của từng địa phương, sẽ trở thành điểm hội tụ của toàn xã hội cho sự phát triển vững chắc của nhà trường, góp phần xây dựng các thế hệ học sinh giàu lòng yêu nước, hiếu nghĩa với gia đình, có ý chí và năng lực công dân vì tương lai tươi sáng của dân tộc, của mỗi gia đình và mỗi người Việt Nam.

GS. Nguyễn Thiện Nhân Phó Thủ tướng Chính phủ

Lạng Sơn Triển Khai Đồng Bộ Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Toàn Diện

Trong năm học 2018 – 2019, ngành GDĐT tỉnh Lạng Sơn đã triển khai sâu rộng các cuộc vận động và các phong trào thi đua; qua đó, đã góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị trong đội ngũ nhà giáo; vai trò của từng trường, từng cán bộ quản lý giáo dục, từng giáo viên, nhân viên được khẳng định và phát huy, tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển chung của giáo dục Lạng Sơn, tạo được niềm tin đối với chính quyền địa phương, cha mẹ học sinh và của cộng đồng đối với Ngành.

Toàn Ngành đã đổi mới mạnh mẽ theo yêu cầu của Nghị quyết 29-NQ/TW, việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh và phương pháp dạy học đã được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Công tác giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh đã được các trường đặc biệt quan tâm. Chất lượng giáo dục được giữ vững, phong trào học sinh giỏi tiếp tục được duy trì và đạt kết quả.

Các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục trong toàn tỉnh được đẩy mạnh và có kết quả; công bằng xã hội trong giáo dục được bảo đảm tốt hơn, đặc biệt là các chính sách cho học sinh và giáo viên vùng khó khăn, vùng biên giới; đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục chuẩn mực và không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Từng bước điều chỉnh, sắp xếp tổ chức bộ máy, nhân sự theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả.

Quan tâm rà soát, sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở giáo dục. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học tiếp tục được bổ sung, cải thiện; ngân sách cho GDĐT đã được ưu tiên phân bổ phù hợp. Trường Mầm non, phổ thông đạt chuẩn Quốc gia tiếp tục được xây dựng theo lộ trình. Các nguồn lực đầu tư cho giáo dục được quản lý và triển khai hiệu quả; Chú trọng phân cấp và giao quyền tự chủ, tăng cường quản lý chất lượng và hiệu quả giáo dục. Tăng cường công tác quản lý nhà nước; công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh.

Tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập Mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS, xóa mù chữ. Củng cố và phát triển các Trung tâm GDNN-GDTX, Trung tâm học tập cộng đồng, tạo môi trường thuận lợi cho người lao động tiếp tục tham gia học tập nâng cao trình độ. Việc ứng dụng công nghệ thông tin được đẩy mạnh. Các chương trình, các phần mềm phục vụ cho công tác quản lý giáo dục, dạy học được sử dụng ngày càng rộng rãi, có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng GDĐT.

Về chất lượng giáo dục các cấp: Toàn tỉnh Lạng Sơn hiện duy trì 698 đơn vị trường học. Tổng số trẻ/học sinh/sinh viên 196.253. Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên toàn ngành 20.526 người. Công tác phổ cập GDMN cho trẻ em 5 tuổi được duy trì bền vững, đến nay toàn tỉnh đã có 226/226 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn, tỷ lệ 100%. Tỷ lệ huy động trẻ em ra lớp đạt cao, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và thể thấp còi ở nhà trẻ và mẫu giáo giảm. Số trường tổ chức bán trú, học 2 buổi/ngày các cấp học đều tăng. Công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia đã đạt 100% kế hoạch năm 2019. Chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn đạt được kết quả đáng ghi nhận. Các kỳ thi, hội thi, chất lượng thi học sinh giỏi quốc gia tiếp tục được duy trì. Năm học 2018 – 2019 có 15/48 học sinh đạt học sinh giỏi Quốc gia, (trong đó 01 nhì, 05 Ba, 09 khuyến khích; có 01 học sinh được tham dự vòng loại Olympic Quốc tế); học sinh giỏi cấp tỉnh, thi KHKT được duy trì. Đảm bảo tổ chức kì thi THPT Quốc gia 2019 an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế, phổ điểm các môn thi tăng so với năm trước, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 90,34%.

Tỉnh quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao; mở rộng quan hệ hợp tác GDĐT trong và ngoài nước để học tập kinh nghiệm trong quản lý và giảng dạy; duy trì và tiếp tục tạo điều kiện để các thầy, cô nghiên cứu khoa học, thi đua dành thành tích cao trong giảng dạy. Phối hợp với trường CĐSP Lạng Sơn, cán bộ quản lý, giáo viên cốt cán trong các trường THPT tập huấn bồi dưỡng cho cán bộ, giáo viên nòng cốt cấp THCS đối với các môn: Toán, Ngữ văn, Vật lý, Hóa học, Sinh học và Tiếng Anh về đổi mới phương pháp dạy học, bồi dưỡng học sinh giỏi với tổng số 330 người; Bồi dưỡng kỹ năng tổ chức triển khai cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học cấp trường và cấp huyện với tổng số 210 cán bộ, giáo viên; cử 01 giáo viên đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài, 01 giáo viên đào tạo thạc sĩ ở nước ngoài, 48 giáo viên đào tạo thạc sĩ trong nước; 76 cán bộ quản lý và cán bộ nguồn tham gia lớp trung cấp lý luận chính trị; gần 329 cán bộ quản lý, giáo viên các cấp học tham gia bồi dưỡng CBQL; trên 1800 giáo viên tham gia bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp… Từ đó, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, giáo dục theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực, tự học, phát triển năng lực học sinh. Đáp ứng đào tạo theo nhu cầu xã hội hiện nay, tạo tiền đề thúc đẩy giáo dục Lạng Sơn phát triển một cách “Nhanh chóng – bền vững”.

Sở GDĐT được Bộ GDĐT tặng Bằng khen về thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua đổi mới sáng tạo trong dạy và học năm học 2018 – 2019; 32 tập thể được UBND tỉnh tặng Cờ thi đua về thành tích xuất sắc, dẫn đầu phong trào thi đua yêu nước năm học 2018 – 2019; có 13 tập thể và 5 cá nhân được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen về các thành tích xuất sắc trong thực hiện các nhiệm vụ giáo dục năm học 2018 – 2019.

Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Ngọc Thưởng ghi nhận, đánh giá cao những nỗ lực của ngành GDĐT trong năm học 2018 – 2019, đồng thời chỉ ra những mặt còn hạn chế của ngành trong thực hiện các nhiệm vụ giáo dục. Đồng chí nhấn mạnh, trong năm học mới 2019 – 2020, ngành GDĐT tỉnh cần nâng cao tinh thần làm việc, quán triệt sâu rộng đến cán bộ, giáo viên các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và của Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra đối với công tác giáo dục; thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm về giáo dục đã được UBND tỉnh phê duyệt; đẩy mạnh tham mưu cho UBND tỉnh các văn bản chỉ đạo về GDĐT.

Giám đốc Sở GDĐT Lạng Sơn Trần Quốc Tuấn chia sẻ, bước sang giai đoạn phát triển mới, ngành giáo dục tỉnh Lạng Sơn cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về GDĐT. Trong năm học 2019 – 2020, ngành GDĐT tập trung triển khai 9 nhiệm vụ cơ bản với 5 nhóm giải pháp nhằm hoàn thành thực hiện mục tiêu chung của toàn ngành là xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, dân chủ, kỷ cương; tăng cường an ninh, an toàn trường học; chú trọng công tác giáo dục thể chất, y tế trường học; xây dựng văn hóa học đường, giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên; quan tâm chế độ chính sách đối với giáo dục vùng khó; nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ và chất lượng giáo dục các cấp học; tăng cường kỷ luật kỷ cương, đảm bảo an ninh, an toàn và công tác vệ sinh trường học; phối hợp nâng cao hiệu quả hoạt động các Trung tâm GDNN – GDTX; tăng cường rà soát, sàng lọc đội ngũ và có kế hoạch đào tạo đội ngũ chuẩn bị cho chương trình đổi mới sách giáo khoa; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường công tác giao lưu, hợp tác quốc tế về GDĐT; đẩy mạnh tự chủ và xã hội hóa giáo dục; tổ chức Lễ khai giảng năm học mới đảm bảo trang trọng, tiết kiệm, hiệu quả…

Phát huy truyền thống 72 năm xây dựng và phát triển, tin rằng ngành giáo dục tỉnh Lạng Sơn tiếp tục đổi mới, sáng tạo để nâng cao chất lượng mọi mặt hoạt động, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao, xây dựng tỉnh Lạng Sơn văn minh, giàu đẹp./.

Kim Dung