Top 12 # Các Giải Pháp Xóa Đói Giảm Nghèo Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Thực Trạng Và Các Giải Pháp Xóa Đói Giảm Nghèo.

Niên giám Thống kê Việt Nam 2013 = Statistical yearbook of Vietnam 2013. – Hà Nội : Thống kê , 2014.- 935 tr. : biểu đồ ; 25 cm. 450000đ. Số phân loại: 315.97/N305

Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2014 = Statistical yearbook of Vietnam 2014. – Hà Nội : Thống kê , 2015.934 tr. : biểu đồ ; 25 cm. 450000đ. Số phân loại: 315.97/N305

TÀI NGUYÊN NỘI SINH DSPACE – Địa chỉ truy cập: http://dspace.agu.edu.vn:8080/ – Bản in được lưu trữ tại quầy Tham khảo Tầng 4 A. Khóa luận tốt nghiệp:

Tìm hiểu thực trạng xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay: Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm ngành Giáo dục Chính trị / Nguyễn Ngọc Ánh. – Xuất bản lần thứ nhất. – An Giang : Đại học An Giang, 2008. 48tr ; 31cm. Số phân loại: 362.5/A107

Xóa đói giảm nghèo ở phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang từ năm 2006-2009: Thực trạng và giải pháp / Lê Nguyễn Diễm Hương. Số phân loại: 362.5/H561/ SVLV000459

Thực trạng xóa đói giảm nghèo tại TP Long Xuyên – tỉnh An Giang: Khóa luận tốt nghiệp khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh / Huỳnh Thị Sương. Số phân loại: 362.5/S561/SVLV000111

TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ – Địa chỉ truy cập: http://lhtv.vista.vn/ (Chọn STD-Tài liệu KH&CN Việt Nam) – Lưu ý: Bạn đọc vui lòng truy cập theo hệ thống mạng nội bộ của Trường Đại học An Giang để đọc và download toàn văn tài liệu.

Thực trạng đói nghèo và giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam/ Hoàng Sỹ Kim .- Tạp chí Quản lý nhà nước, 2007, số 7, tr. 18-21

Xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam: những thành tựu, thách thức và những bài học / Phạm Văn Quyết .- Tạp chí Tâm lý học, 2012, số 9, tr. 25-36

Giảm thất nghiệp và đói nghèo: Nhớ lại mô hình của Yunus! / Nguyễn Lê Minh .- Tạp chí Lao động và xã hội, 2009, số 353, tr. 30-43 Đói nghèo và nông nghiệp: Trường hợp Việt Nam / Munim Kumar Barai .- Những vấn đề kinh tế & chính trị thế giới, 2008, số 2, tr. 48-62

Đầu tư công và giảm đói nghèo ở Việt Nam thời kỳ 2001-2010: Một số giải pháp trong thời gian tới / Nguyễn Đăng Bình .- Tạp chí Quản lý kinh tế, 2011, số 42, tr. 3-8

Đói nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh khu vực và quốc tế / Vũ Quỳnh Hương .- Tạp chí Nghiên cứu tài chính – kế toán, 2006, số 10, tr. 26-28

Để công tác xoá đói, giảm nghèo tiến triển vững chắc / Hồ Văn Vĩnh .- Tạp chí Cộng sản, 2007, số 782, tr. 84-88

Phát triển nông nghiệp với giảm đói nghèo ở Việt Nam / Nguyễn Thị Sơn .- Nghiên cứu khoa học và đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy địa lý: Kỷ yếu hội thảo khoa học. Khoa Địa lý – 50 năm xây dựng và phát triển. Trường đại học sư phạm Hà Nội 2006, 2006, số 0, tr. 153-160

Thực trạng, giải pháp xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc Khmer ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long / Nguyễn Thị Ánh, Nguyễn Thị Nghĩa .- Tạp chí khoa học, trường Đại học Cần Thơ, 2014, Số 30, tr. 84-91

Các yếu tố tác động đến tình trạng tái nghèo của hộ gia đình (Trường hợp huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp) / Nguyễn Minh Hà, Lê Thành Công, Nguyễn Hữu Tịnh .- Tạp chí Khoa học xã hội, 2013, Số 5(177)

Chính sách giảm nghèo và những vấn đề đặt ra / Lương Thị Hồng

Xóa đói, giảm nghèo giảm trừ bất bình đẳng xã hội kết quả và một số kinh nghiệm / Nguyễn Anh Cường; Phạm Quốc Thành

Cần có chính sách hợp lý và nguồn lực thực hiện giảm nghèo bền vững / Chí Tâm; Ngọc Cương

Chính sách giảm nghèo nhìn từ một số chương trình hộ trợ cụ thể / Hữu Bắc

Xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam: những thành tựu, thách thức và những bài học / Phạm Văn Quyết

Thực hiện đồng bộ các giải pháp xóa đói, giảm nghèo bền vững ở nước ta giai đoạn 2006 – 2010 / Đàm Hữu Bắc .- Tạp chí Cộng Sản, 2006, Số 10

Chính Sách Xóa Đói, Giảm Nghèo

Cuốn sách Chính sách xóa đói, giảm nghèo – Thực trạng và giải pháp là kết quả nghiên cứu của tập thể các nhà khoa học thuộc Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, do chúng tôi Lê Quốc Lý – Phó Giám đốc Học viện chủ biên.

Với 9 chương, hơn 300 trang sách, cuốn sách đã đánh giá một cách tổng quan về thực trạng đói nghèo ở Việt Nam; chủ trương, đường lối của Đảng và các chính sách của Nhà nước ta về xóa đói, giảm nghèo; các chương trình xóa đói, giảm nghèo điển hình; đánh giá tổng quát việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam giai đoạn 2001-2010; nêu ra những định hướng, mục tiêu xóa đói, giảm nghèo cùng những cơ chế, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam thời gian tới.

Có thể thấy rằng, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới (1986) đến nay, chính sách xóa đói, giảm nghèo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm và được xây dựng thành chương trình mục tiêu quốc gia. Qua đó, nhận thức về vai trò quan trọng của xóa đói, giảm nghèo đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội đã được thay đổi căn bản ở các cấp, các ngành, nhờ vậy, chính sách xóa đói, giảm nghèo đã đạt được những thành tựu hết sức ấn tượng, đặc biệt là trong giai đoạn 2001-2010, như: chính sách xóa đói, giảm nghèo góp phần làm tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, làm thay đổi mức sống của người nghèo, làm tăng lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước… Tuy nhiên, chính sách xóa đói, giảm nghèo vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định như: thành tựu chưa thực sự bền vững, chính sách còn chồng chéo, thiếu thống nhất và đồng bộ, chủ yếu thiên về lượng, chưa chú trọng đến chất lượng giảm nghèo, còn mang tính ngắn hạn…

Đây cũng chính là động lực để các tác giả thực hiện cuốn sách này, với mục đích rút ra những bài học, bổ sung luận cứ cho công tác hoạch định chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian tới. Với sự đầu tư nghiêm túc, tâm huyết của các tác giả, cuốn sách là một công trình khoa học có giá trị tham khảo tốt cho các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách, đặc biệt là chính sách xóa đói, giảm nghèo ở nước ta.

Các Giải Pháp Nhằm Đẩy Nhanh Xóa Đói Giảm Nghèo Ở Tỉnh Thanh Hóa

1. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các chính sách của Đảng và Nhà nước về xoá đói giảm nghèo

Như đã phân tích ở phần thực trạng công tác xoá đói giảm nghèo ở miền núi tỉnh Thanh Hoá cho thấy xoá đói giảm nghèo là một nhiệm vụ trọng tâm được cụ thể hoá bằng chiến lược, kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm về phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và xoá đói giảm nghèo được thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia.

Để thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các chính sách của Đảng và Nhà nước về xoá đói giảm nghèo, trong tổ chức chỉ đạo điều hành cần tập trung làm tốt các giải pháp cơ bản sau:

Một là, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, phát huy năng lực sáng tạo của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế – xã ở địa phương gắn với xoá đói giảm nghèo.

Như chúng ta đã biết, ở những địa phương tổ chức thực hiện quy chế dân chủ tốt thì quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân được phát huy, phương châm của quy chế dân chủ ở cơ sở là “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; đồng thời quy chế dân chủ ở cơ sở cũng phải đưa ra được các quy định cụ thể về những việc Hội đồng nhân dân và UBND xã phải thông tin kịp thời và công khai để dân biết; Những việc dân biết, dân bàn và quyết định trực tiếp; Những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định; Những việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở xã…Quyền bình đẳng và quyền tự do của người dân được phát huy trong đời sống kinh tế và xã hội, trong việc tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, quyền có việc làm, quyền có nhà ở, quyền học hành, quyền được chăm sóc y tế…không phân biệt tôn giáo, nam nữ, dân tộc ít người.

Điều đó thực sự là nguồn động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của dân cư trong phát triển kinh tế xã hội, cải thiện dân sinh, góp phần xoá đói giảm nghèo ở miền núi Thanh Hoá.

Hai là, Thực hiện tốt việc gắn kết phát triển kinh tế với mục tiêu tăng cường năng lực của người dân, nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện điều kiện và mức sống của các tầng lớp dân cư trở thành một động lực hết sức quan trọng góp phần thực hiện có kết quả mục tiêu xoá đói giảm nghèo của các địa phương.

Trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế luôn luôn đặt con người vào vị trí trung tâm, coi con người vừa là động lực và vừa là mục tiêu của sự phát triển, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường.

Đối với miền núi Thanh Hoá, ngoài việc thực hiện tốt chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn (chương trình 135) đang tổ chức triển khai trên địa bàn 89 xã, cần tập trung thực hiện tốt đề án phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo quốc phòn an ninh Miền Tây tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010 theo Quyết định số 253/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu “Đưa Miền Tây tỉnh Thanh Hoá thoát khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, bảo vệ tốt quốc phòng, an ninh biên giới và bảo đảm môi trường bền vững”. Thực hiện lồng ghép các chương trình 135 với dự án ổn định đời sống, sản xuất và phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào Mông huyện Mường Lát theo Quyết định số 456/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ. Với mục tiêu: “Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của huyện, thực hiện sắp xếp lại dân cư và đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng thiết yếu cho từng làng bản. Phấn đấu đến năm 2010 đồng bào Mông định canh, định cư vững chắc, không còn tình trạng di dân tự do, từng bước vượt ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển…”

Ngoài chính sách của Trung ương, đối với miền núi Thanh Hoá cần thực hiện tốt các chính sách của tỉnh như: Chính sách hỗ trợ cước và trợ giá sản xuất giống lúa, ngô chịu hạn, chính sách phát triển chăn nuôi đại gia súc, chính sách phát triển cao su tiểu điền, chính sách thuỷ lợi nhỏ ở miền núi…Nhằm hỗ trợ sản xuất nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc miền núi.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện các chính sách xoá đói giảm nghèo nhằm trợ giúp các xã nghèo, hộ nghèo phát triển kinh tế theo hướng sau:

– Tiếp tục tăng nguồn vốn tín dụng xoá đói giảm nghèo, đổi mới phương thức cho vay nhằm trợ giúp người nghèo phát triển sản xuất kinh doanh tạo điều kiện và khuyến khích các hộ nghèo vượt lên thoát nghèo. Nhà nước tiếp tục hỗ trợ về vốn tín dụng, tạo điều kiện về mặt bằng kinh doanh, tạo cơ hội làm ăn và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, đồng thời tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng phù hợp.

– Thực hiện xoá bao cấp trong xoá đói giảm nghèo, chuyển sang những phương pháp, phương thức hỗ trợ phù hợp với kinh tế thị trường sửa đổi chính sách trợ giá, trợ cước và chính sách cấp không thu tiền một số hàng hoá cho miền núi, sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh chính sách xã hội như: Các chính sách khám chữa bệnh, chính sách hỗ trợ giáo dục, chính sách hỗ trợ về nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sạch và vệ sinh môi trường theo phương thức trực tiếp đến đối tượng.

Bốn là, thực hiện tốt các chính sách trợ giúp xã hội đi đôi với đẩy mạnh xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo theo định hướng sau:

– Triển khai thực hiện các chính sách trợ giúp xã hội về phòng chống thiên tai, giảm thiểu rủi ro cho các nhóm yếu thế, hoàn thiện mạng lưới an sinh xã hội, đáp ứng nhu cầu bức xúc và khẩn cấp của những người có hoàn cảnh khó khăn, hạn chế tình trạng tái nghèo.

– Thực hiện tốt trợ giúp người nghèo tiếp cận các dịch vụ công thiết yếu, nhất là dịch vụ giáo dục và dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ. Mở rộng diện cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo và hộ nghèo vùng 135 theo Quyết định 139/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện miễn giảm học phí và hỗ trợ phụ cấp cho học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số ở các cấp học, Nhà nước hỗ trợ ngân sách để đầu tư trường lớp học cho người nghèo.

– Tổ chức tổng kết và nhân rộng các mô hình xã hội hoá xoá đói giảm nghèo có hiệu quả, tăng cường lồng ghép các chương trình dự án phát triển với mục tiêu xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống nhân dân ở vùng nghèo, xã nghèo miền núi. Đề cao tinh thần trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc tăng cường dân chủ và công khai hoá các hoạt động xoá đói giảm nghèo để dân biết,dân bàn, dân tham gia và giám sát thực hiện để công tác xoá đói giảm nghèo thực sự của dân, nhà nước hỗ trợ với vai trò là bà đỡ.

2. Nâng cao nhận thức và quyết tâm thoát nghèo của chính người nghèo, hộ nghèo ở miền núi Thanh Hoá

Để nâng cao nhân thức và quyết tâm thoát nghèo của chính người nghèo, ngoài việc tuyên truyền các chủ trương chính sách xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước đến đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa nhằm nâng cao nhận thức của chính người nghèo trong việc tổ chức thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp cơ bản sau:

– Một là, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng về kinh tế để mọi người có điều kiện tham gia đầy đủ vào quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói giảm nghèo ở địa phương. Nhà nước ban hành những cơ chế chính sách hỗ trợ đặc biệt cho các đối tượng yếu thế, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có điều kiện đặc khó khăn để người nghèo, hộ nghèo có điều kiện phát triển và thực sự được hưởng thụ thành quả của quá trình tăng trưởng kinh tế, xoá bỏ mặc cảm tự ti, vươn lên thoát nghèo.

– Hai là, tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở xã phường, thị trấn, ở thôn bản trong cộng đồng người nghèo, để người nghèo nắm được các chính sách và mục tiêu xoá đói giảm nghèo của địa phương, đồng thời có trách nhiệm tham gia vào quá trình tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách trợ giúp của Nhà nước và mục tiêu xoá đói giảm nghèo của địa phương.

– Ba là, tổ chức thực hiện đầy đủ các chính sách trợ giúp cho người nghèo, hộ nghèo hiện có như: Chính sách giao đất, giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình, chính sách định canh định cư ổn định sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc sinh sống ở miền núi; tạo điều kiện để các hộ nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về: Giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, kế hoạch hoá gia đình…Tiếp tục hoàn thiện các chính sách xoá đói giảm nghèo hiện có, đẩy mạnh việc trợ giúp người nghèo vươn lên thoát khỏi diện nghèo. Nhà nước tiếp tục hỗ trợ vốn tín dụng, tạo điều kiện về mặt bằng kinh doanh, tạo cơ hội làm ăn và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, đồng thời tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng phù hợp.

– Bốn là, cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và nguồn lực của người nghèo, đặc biệt là chăm sóc sức khoẻ sinh sản, nước sạch và vệ sinh môi trường, nhà ở…Bổ sung một số chính sách trợ giúp của nhà nước đối với nhóm người dễ bị tổn thương, những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, giúp họ có cơ hội tạo việc làm, có thu nhập, sẵn sàng tham gia vào các hoạt động cộng đồng và được hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế.

3. Các giải pháp trực tiếp hỗ trợ xã nghèo, hộ nghèo, người nghèo

Các chính sách xoá đói giảm nghèo cần tiếp tục được bổ sung hoàn thiện; Nhằm tập trung trợ giúp các địa phương nghèo phát triển kinh tế thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng vào chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, tập trung nghiên cứu để đổi mới phương thức cho vay, đẩy mạnh trợ giúp người nghèo phát triển sản xuất kinh doanh, xoá bỏ dần bao cấp bất hợp lý trong xoá đói giảm nghèo, chuyển sang những phương thức hỗ trợ phù hợp với kinh tế thị trường. Sửa đổi chính sách trợ giá, trợ cước và chính sách cấp (miễn phí) một số hàng hoá cho đồng bào miền núi để hạn chế thất thoát và tăng thêm tác dụng thiết thực của các biện pháp này. Áp dụng phương thức trợ giúp lãi suất đối với tín dụng cho người nghèo, mở rộng tín dụng bảo lãnh. Sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh chính sách xã hội như chính sách khám, chữa bệnh, chính sách hỗ trợ giáo dục, chính sách hỗ trợ nhà ở, chính sách cho vay tín dụng… các giải pháp chủ yếu cụ thể như sau:

Một là, thực hiện tốt tín dụng cho người nghèo góp phần phát triển sản xuất, nâng cao đời sống cho đồng bào.

– Tiếp tục đa dạng các nguồn vốn nhằm thực hiện tốt Chương trình tín dụng hộ nghèo, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng dư nợ hàng năm là trên 30%, đưa tổng dư nợ đến năm 2010 của các hộ nghèo vùng khó khăn và hộ nghèo vùng dân tộc đạt trên 1200 tỷ đồng và nâng mức vay bình quân đạt 8 – 10 triệu đồng/hộ gắn với hướng dẫn cách làm ăn cho hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập.

– Đảm bảo huy động đủ nguồn vốn cho số hộ nghèo và hộ có nguy cơ tái nghèo vay, tạo điều kiện để người nghèo dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, vốn vay thuận lợi và sử dụng có hiệu quả.

– Phối hộp chặt chẽ với các tổ chức hội: Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cực chiến binh…thực hiện tốt hợp đồng uỷ thác, các tổ tiết kiệm có lợi cho người nghèo.

Hai là, hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, trước mắt tập trung cho 7 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 50%.

– Phấn đấu đến năm 2010, đảm bảo 100% các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi Thanh Hoá có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu.

– Mức hỗ trợ đầu tư bình quân cho một xã đặc biệt khó khăn khoảng 1 tỷ đồng/năm (trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ 700 triệu đồng, nguồn ngân sách địa phương và hỗ trợ khác là 300 triệu đồng…)

– Cơ chế hỗ trợ đầu tư tiếp tục thực hiện cơ chế: Xã có công trình, dân có việc làm, đảm bảo các công trình đầu tư đúng mục tiêu, đúng đối tượng, có hiệu quả, công khai, minh bạch và không thất thoát.

Ba là, thực hiện tốt công tác hướng dẫn người nghèo cách làm ăn gắn với khuyến nông, khuyến lâm, chuyển giao kỹ thuật, phát triển ngành nghề.

– Tranh thủ nguồn hỗ trợ của chương trình khuyến nông của Bộ ngành trung ương và chính sách khuyến nông, khuyến lâm viên cơ sở của tỉnh để xây dựng và phát triển hệ thống khuyến nông, khuyến lâm phù hợp với xã nghèo, hộ nghèo và người nghèo.

– Bên cạnh việc thực hiện tốt các mô hình sản xuất của Đoàn kinh tế quốc phòng 5 trên địa bàn Mường Lát và mô hình sản xuất kinh tế các đồn biên phòng 485, 493.. tập trung xây dựng các mô hình ứng dụng công nghệ mới, mô hình định canh định cư, di dân kinh tế mới cho các vùng đồng bào dân tộc đặc biệt mô hình định cư cho đồng bào Mông ở Mường Lát…các mô hình để hướng dẫn người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình..

– Rà soát bổ sung một số chính sách phát triển ngành nghề nông thôn, khôi phục các nghề tiểu thủ công truyền thống như: Dệt thổ cẩm của người Thái (Quan Hoá), Rèn của người Mông (Mường Lát) Dệt vải của người Mường (Ngọc Lạc, Cẩm thuỷ).v.v.. Từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá.

Bốn là, thực hiện có hiệu quả các dự án định canh định cư, di dân xây dựng vùng kinh tế mới.

– Triển khai thực hiện tốt quy hoạch và chính sách đầu tư phát triển kinh tế – xã hội 15 xã biên giới Việt Lào theo quyết định số 160/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển kinh tế – xã hội vùng biên giới Việt Lào nhằm phân bố lại dân cư kết hợp với an ninh quốc phòng.

– Mục tiêu đến năm 2010, phấn đấu định canh, định cư cho 44 950 hộ (gần 240 000 khẩu) sống rải rác ở 620 bản thuộc 78 xã của 10 huyện miền núi, vùng đồng bào dân tộc: Mường Lát, quan Sơn, Quan Hoá, Ngọc Lạc, Cẩm Thuỷ… Trên cơ sở sắp xếp lại dân cư, tạo việc làm cho người lao động, thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng đến hộ; thông qua việc bảo vệ khoanh nuôi tái sinh và trồng mới, để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập nâng cao đời sống và hoàn thiện từng bước các cơ sở hạ tầng: giao thông, thuỷ lợi, nước sinh hoạt, điện, các công trình phúc lợi…cho vùng định canh định cư.

Năm là, thực hiện tốt chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn. Căn cứ vào đặc điểm từng địa bàn, tình hình kinh tế của các địa phương để có kế hoạch cụ thể đầu tư phát triển sản xuất, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn tập trung giải quyết các vấn đề sau:

– Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tiếp cận tổ chức hướng dẫn cách làm ăn và kỹ thuật mới cho đồng bào Mông ở xã Mường Lý (Mường Lát) với mục tiêu cụ thể: Đảm bảo 100% số bản người Mông định canh, định cư, trong đó có 70% số hộ định canh, định cư vững chắc, chấm dứt tình trạng di cư tự do. 100% thôn bản có đủ trường lớp cho học sinh và nhà ở cho giáo viên thu hút 80% số trẻ em trong độ tuổi đến trường, 100% thôn bản có nhà y tế, cán bộ y tế hoạt động. 100% số hộ đồng bào mông có nhà ở bán kiên cố…

Hỗ trợ di chuyển bố trí lại dân cư theo quy hoạch, hỗ trợ xây dựng nhà ở bán kiên cố cho 1 142 hộ đồng bào Mông hiện đang ở nhà tạm bợ; hỗ trợ giống lúa, ngô và cho vay vốn không lãi để phát triển chăn nuôi đại gia súc. Đầu tư hệ thống nước sinh hoạt gắn với nước sản xuất; tổ chức khai hoang thêm 99 ha ruộng nước, xây dựng 1800 ha nương rẫy định canh để tập trung phát triển 3 cây (ngô, lúa đậu tương)…với nguồn kinh phí của dự án khoảng 291,5 tỷ đồng (trong đó ngân sách trung ương hỗ trợ 184,5 tỷ đồng) tập trung cho các mục tiêu: Hỗ trợ sản xuất 63 tỷ, hỗ trợ đời sống 22,5 tỷ; đầu tư kết cấu hạ tầng 167 tỷ đồng, phát triển nguồn nhân lực 7,5 tỷ đồng.v.v..

– Thực hiện tốt chính sách về hỗ trợ đời sống, nâng cao dân trí, xoá bỏ tập tục lạc hậu của các dân tộc ít người như: Dao (Cẩm Thuỷ, Ngọc Lạc), Khơ Mú (Mường Lát).v.v..

Thực hiện tốt chính hỗ trợ về nhà ở, đất sản xuất cho các hộ nghèo người dân tộc thiểu số theo Quyết định số 134/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trước mắt tập trung nguồn vốn và tăng cường chỉ đạo vào các mục tiêu sau:

– Hỗ trợ đất để xây dựng nhà ở đối với đồng bào dân tộc nghèo không có đất làm nhà ở theo phương châm nhà nước hỗ trợ kinh phí, dòng họ sắp xếp dành đất cho hộ nghèo không có đất để làm nhà ở. Phấn đấu đến cuối năm 2009 hoàn thành 34 500 nhà đồng bào nghèo ở miền núi.

– Tạo điều kiện cho các hộ nghèo sản xuất nông nghiệp có nhu cầu về ruộng đất để sản xuất theo hướng: Hỗ trợ kinh phí cho các hộ thông qua hình thức khai hoang mở rộng diện tích với mức 7 triệu đồng/ha khai hoang, vận dụng cho hộ nghèo mượn đất sản xuất. Đối với những nơi không còn quỹ đất, cần hỗ trợ di dân vào các vùng kinh tế mới đã được quy hoạch. Mặt khác, tăng cường quản lý để đảm bảo đất sản xuất cho hộ nghèo và đồng bào dân tộc theo hướng sắp xếp lại diện tích của các nông lâm trường dành đất sản xuất cho bà con dân tộc.

Đối với những hộ không có đất sản xuất, tỉnh có chính sách hỗ trợ về vốn, phương tiện sản xuất, dạy nghề, công cụ, để chuyển sang các ngành nghề khác…

Sáu là, thực hiện tốt chính sách y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình:

– Tạo điều kiện để người nghèo được cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản, được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế chất lượng với giá cả phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và mức thu nhập của từng lớp dân cư.

– Sử dụng hiệu quả nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để đầu tư nâng cấp các bệnh viện đa khoa huyện, phòng khám đa khoa khu vực, tăng cường cán bộ y tế và tủ thuốc y tế thông thường cho các thôn bản, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ở các trạm y tế xã, tăng cường bác sỹ cho các xã nghèo và đội ngũ y tế thôn bản. Phấn đấu đến năm 2010: 100% các xã miền núi có nhà trạm y tế được xây dựng kiên cố, 70% trạm y tế xã có bác sỹ, 100% trạm y tế xã có nữ hộ sinh và 100% thôn bản có nhân viên y tế trình độ sơ học trở lên, tỉnh có chính sách cử tuyển tạo nguồn cán bộ y tế là người dân tộc thiểu số.

– Huy động sự đóng góp của cộng đồng trong việc xây dựng quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo, quỹ bảo trợ người nghèo khám chữa bệnh nhân đạo từ thiện, xác định trách nhiệm của người nghèo trong phòng bệnh, tự bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của bản thân. Vận động làm chuyển biến nhận thức đối với người nghèo, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc về ý nghĩa của công tác kế hoạch hoá gia đình.

Đa dạng hoá các hình thức khám chữa bệnh miễn phí, giảm phí và dịch vụ kế hoạch hoá gia đình cho người nghèo (đặc biệt quan tâm đến phụ nữ, trẻ em) như: Cấp thẻ bảo hiểm y tế, cấp giấy chứng nhận khám chữa bệnh miễn phí, khám chữa bệnh nhân đạo và từ thiện.

Cân đối đủ nguồn kinh phí để mua bảo hiểm y tế cho người nghèo, đồng bào dân tộc sinh sống khu vực 3 theo quyết định 139/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ.

Bảy là, nâng cao khả năng tiếp cận của người nghèo với giáo dục cơ bản.

Để tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với giáo dục, cần phải giải quyết được 2 vấn đề là giảm chi phí cho việc đi học của người nghèo và nâng cao lợi ích của việc giáo dục, tức là tạo ra những hiệu quả thiết thực nhận được từ giáo dục của người nghèo. Để giải quyết 2 vấn đề trên ở Thanh Hoá cần tập trung vào các vấn đề sau:

+ Tranh thủ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ theo Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ để đầu tư, kiên cố hoá trường lớp và nhà ở giáo viên cho các xã đặc biệt khó khăn, gắn với sắp xếp lại mạng lưới trường lớp đảm bảo thuận tiện cho người học.

Nâng cấp cơ sở vật chất các trường học nội trú hiện có và xem xét mở thêm một số trường nội trú theo hình thức “bán trú dân nuôi” ở những nơi khó khăn cho con em đồng bào dân tộc để tạo nguồn cán bộ.

Tám là, thực hiện tốt chính sách an ninh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế.

Đồng thời với việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách trên, trong những năm tới cần phải xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách, mạng lưới an sinh xã hội nói chung và đối với người nghèo, người bị rủi ro nói riêng, nhất là với đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ và trẻ em nghèo, cụ thể là:

– Bổ sung một số chính sách cứu trợ đột xuất cho đối tượng là: Hộ nghèo, người nghèo khi gặp rủi ro (thiên tai, hoả hoạn, mất mùa) được ngân sách nhà nước trợ cấp có thời hạn hoặc một lần (cứu đói, trợ giúp chữa trị người bị thương, mai táng phí, dựng lại nhà bị sập đổ…) thực hiện tốt chương trình phòng chống giảm nhẹ thiên tai đặc biệt quan tâm đến đối tượng nghèo, hạn chế rủi ro, tái nghèo đói. Xây dựng hệ thống các giải pháp cứu trợ xã hội đột xuất hữu hiệu đối với người nghèo. Chuẩn bị sẵn sàng các phương tiện cứu trợ kịp thời, nhanh chóng ứng phó và hạn chế thiệt hại về người và của khi thiên tai xảy ra, trợ giúp người nghèo khắc phục hậu quả thiên tai.

– Tăng cường mạng lưới bảo trợ xã hội và an sinh xã hội thông qua các quỹ. Tiến hành cải cách cơ chế hình thành và điều phối quỹ cứu trợ đột xuất; trợ giúp nhân đạo thường xuyên đối với người nghèo, triển khai hoạt động quỹ này một cách công khai, minh bạch, có hiệu quả ngay từ cộng đồng thôn bản, xã…

4. Thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ về văn hoá – thông tin cho người nghèo, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân miền núi Thanh Hoá

– Phát triển văn hoá thông tin, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, bảo tồn phát huy văn hoá của đồng bào các dân tộc ít người. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, phấn đấu đến năm 2010 có trên 60% số gia đình đạt gia đình văn hoá; trên 50% số làng bản tiêu chuẩn đơn vị văn hoá; có trên 30% số xã, thị trấn khai trương xây dựng đơn vị văn hoá; 11/11 huyện có trung tâm văn hoá thể thao, thư viện; 80% số xã thị trấn có nhà văn hoá, hệ thống truyền thanh, hệ thống truyền thanh, tụ điểm văn hoá thông tin – thể thao; 70% số làng bản có thiết chế văn hoá (nhà văn hoá, nhà sinh hoạt cộng đồng hoặc tụ điểm sinh hoạt văn hoá…) tổ chức tốt các hoạt dộng văn hoá thể thao dân tộc trong các dịp tết và lễ hội truyền thống.

– Tiếp tục thực hiện chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình cho vùng đồng bào dân tộc gắn với việc tăng cường thời lượng và nâng cao chất lượng phát thanh và truyền hình tiếng dân tộc (trước mắt là tiếng Thái, Mông…) mở rộng vùng phủ sóng đến các vùng xa xôi, hẻo lánh, phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 95%, phủ sóng phát thanh đạt 100% dân số góp phần nâng cao trình độ dân trí bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc ít người.

– Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ cho các xã đặc biệt khó khăn, các xã nghèo, hộ nghèo một số sách báo, văn hoá phẩm thiết yếu, phương tiện nghe nhìn, các tài liệu tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng. Mở rộng việc sử dụng các phương tiện thông tin, văn hoá phẩm nhằm phổ biến kiến thức mới và nâng cao dân trí cho người nghèo.

– Rà soát, bổ sung chính sách cho phù hợp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ văn hoá ở những xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, mở các lớp bồi dưỡng dài hạn và ngắn hạn về văn hoá, thông tin cho các cán bộ làm văn hoá xã, trang bị và mở rộng việc sử dụng các phương tiện hoạt động văn hoá – thông tin nhằm phổ biến kiến thức mới, nâng cao trình độ dân trí cho người nghèo.

5. Các giải pháp về tổ chức thực hiện: nâng cao vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng, trách nhiệm của các cấp chính quyền, các tổ chức quần chúng

Chương trình xoá đói giảm nghèo được thực hiện theo cơ chế phối hợp liên ngành, theo từng nội dung của chương trình, căn cứ vào hướng dẫn của các Bộ, Ngành Trung ương, từng Ban, Ngành của tỉnh trên cơ sở chức năng được phân công có trách nhiệm xây dựng cơ chế chính sách và hướng dẫn các địa phương thực hiện; trong quá trình thực hiện cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ với mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể xã hội. Để thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo bền vững; ngoài các giải pháp đã trình bày ở các phần trên, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Một là, thực hiện kiện toàn bộ máy chỉ đạo xoá đói giảm nghèo các cấp, tuyên truyền sâu rộng chủ trương chính sách về xoá đói giảm nghèo, các mô hình xoá đói giảm nghèo có hiệu quả:

Tiếp tục duy trì cơ cấu bộ máy ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo cả 3 cấp từ tỉnh đến cơ sở, thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành của các ban chỉ đạo cho phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương. Tăng cường mỗi xã một cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo cho các xã đặc biệt khó khăn, xã có tỷ lệ nghèo trên 30%, ở 7 huyện nghèo có tỷ lệ nghèo trên 50% (Mường Lát, quan Sơn, Quan Hoá, Bá Thước, Lang Chánh, thường Xuân, Như Xuân). Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo các cấp cho phù hợp với nhiệm vụ, sát với thực tiễn nhằm nâng cao trách nhiệm của các thành viên Ban chỉ đạo. Đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ trực tiếp là công tác xoá đói giảm nghèo ở các huyện, các xã nhằm trang bị cho họ những kiến thức cần thiết về công tác dân vận.

Phát huy vai trò của mặt trận tổ quốc các cấp, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trong việc tuyên truyền, vận động và tham gia vào các hoạt động xoá đói giảm nghèo trên địa bàn, đặc biệt chú ý vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ và những người có uy tín trong cộng đồng tham gia tuyên truyền, vận động và gương mẫu thực hiện xoá đói giảm nghèo.

Cũng thông qua thông tin tuyên truyền kịp thời giới thiệu những nhân tố điển hình, mô hình sản xuất, kinh doanh và cách làm ăn thoát nghèo có hiệu quả, kinh nghiệm hay để nhân rộng các mô hình làm ăn tốt trên địa bàn. Tích cực vận động nhân dân phát huy truyền thống đoàn kết trên địa bàn. Tích cực vận động nhân dân phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau, nêu cao đạo lý “uống nước nhớ nguồn” ” Nhường cơm xẻ áo” lúc khó khăn, hoạn nạn để giúp đỡ người nghèo mà trước hết là giúp đỡ ngay những người nghèo khó bên cạnh mình, cộng đồng mình.

Hai là, tổ chức tốt việc huy động các nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo.

Tăng cường dân chủ và công khai hoá các hoạt động xoá đói giảm nghèo để dân biết, tham gia và giám sát thực hiện. Đề cao tinh thần trách nhiệm tính chủ động sáng tạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, phát hiện và xử lý nghiêm những trường hợp làm thất thoát kinh phí, nhất là ngân sách nhà nước, vốn đóng góp của từng lớp dân cư cho công tác xoá đói giảm nghèo.

Tổ chức tốt việc lồng ghép chương trình dự án phát triển với mục tiêu xoá đói giảm nghèo, đồng thời vận động các tổ chức quốc tế tăng cường nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo.

Ba là, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở trong việc triển khai thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.

Gắn việc thực hiện nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo với thực hiện quy chế dân chủ cơ sở để người nghèo, xã nghèo trực tiếp tham gia vào xây dựng và thực hiện các kế hoạch, chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo nhằm phản ánh được nguyện vọng, nhu cầu thiết thực của dân và đảm bảo công bằng đối với người nghèo.

Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá.

– Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát ở tất cả các cấp, tăng cường sự tham gia của cộng đồng và người dân trong hoạt động giám sát việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo

– Thực hiện hiện thiết lập hệ thống chỉ tiêu theo dõi đánh giá hàng năm và định kỳ cho các cấp, làm cơ sở cho việc hoàn thiện chính sách đã có, rà soát bổ sung và xây dựng chính sách mới và làm cơ sở cho tổ chức chỉ đạo thực hiện.

Năm là, phân công trách nhiệm và phân công thực hiện:

Các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, các sở ban ngành, các tổ chức đoàn thể phải quán triệt sâu sắc chiến lược xoá đói giảm nghèo; xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là của chính quyền các cấp với vai trò pháp luật và chính sách hoá các giải pháp về tổ chức xã hội và nâng cao nhận thức để chính người nghèo thực hiện xoá đói giảm nghèo.

Từ đó triển khai cụ thể hoá bằng nghị quyết của Đảng bộ, chương trình, kế hoạch hành động của HĐND và UBND các cấp gắn với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương để tổ chức chỉ đạo, điều hành chương trình xoá đói giảm nghèo đạt mục tiêu, đúng đối tượng và hiệu quả. Trong quá trình thực hiện cần có sự phối hợp chặt chẽ với mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể – xã hội.

Trong quá trình tổ chức cần thực hiện phân công trách nhiệm và phân công được cụ thể như sau:

– Sở Lao động thương binh và xã hội: Là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo chương trình xoá đói giảm nghèo, phối hợp với các ngành, tổ chức đoàn thể, các địa phương (huyện, xã) xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nghèo các huyện miền núi tỉnhThanh Hoá đến năm 2010 và các năm tiếp theo; xác định đối tượng, địa bàn ưu tiên, nhu cầu nguồn lực và đào tạo cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo, trước hết tập trung vào 7 huyện có tỷ lệ hộ nghèo trên 50% và các xã nghèo có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên để đạt được mục tiêu giảm nghèo đến năm 2010 xuống còn 25%.

Tham mưu kịp thời cho UBND tỉnh thực hiện tốt chế độ trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất trên địa bàn, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các huyện xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm nghèo, đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra.

– Sở Kế hoạch và Đầu tư: Hướng dẫn các huyện xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, làm cơ sở cho việc phối hợp với các sở ban ngành, UBND các huyện xây dựng kế hoạch giảm nghèo gắn với việc sắp xếp lại quy hoạch dân cư, kế hoạch lồng ghép các dự án đầu tư trên địa bàn với mục tiêu giảm nghèo. Cân đối các nguồn lực cho việc thực hiện kế hoạch giảm nghèo của địa phương.

– Sở Tài chính: Chủ trì phối hợp với Sở Lao động thương binh và Xã hội, Sở Kế hoạch và Đầu tư cân đối nguồn lực cho các dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn với mục tiêu xoá đói giảm nghèo cho các huyện, xây dựng cơ chế quản lý tài chính; chỉ đạo việc cấp phát kinh phí và hướng dẫn địa phương thực hiện.

– Ban Dân tộc tỉnh: Thực hiện giám sát việc thực hiện chính sách đối với vùng miền núi và đồng bào dân tộc; đề xuất việc thực hiện chính sách, cơ chế hỗ trợ và kế hoạch thực hiện dự án hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn (CT 135 giai đoạn II) và chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.

– Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Thực hiện việc rà soát các chính sách phát triển nông, lâm nghiệp hiện có, đề xuất cơ chế chính sách khuyến khích đưa kỹ thuật gieo trồng trên đất dốc ở vùng núi cao, chính sách phát triển chăn nuôi miền núi.

Thực hiện tốt chính sách, cơ chế và kế hoạch hỗ trợ ruộng đất cho hộ nghèo, dự án định canh định cư, di dân xây dựng vùng kinh tế mới, thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề nông thôn, triển khai thực hiện khuyến nông, khuyến lâm.

– Sở Giao thông: Phối hợp với các ngành, các huyện rà soát quy hoạch giao thông và đề xuất chính sách phát triển giao thông nông thôn, tạo điều kiện nguồn vốn để xây dựng giao thông nông thôn để đến năm 2010 cơ bản giải quyết xong 14 xã chưa có đường giao thông.

– Sở Công thương, phối hợp với các sở ban ngành, UBND các huyện miền núi đề xuất chính sách phát triển tiểu thủ công nghiệp gắn với chính sách tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường miền núi.

– Sở Giáo dục: Hướng dẫn các huyện thực hiện tốt chính sách hỗ trợ giáo dục miền núi, đặc biệt chính sách hỗ trợ học sinh dân tộc, xây dựng cơ sở vật chất trường học và nhà công vụ giáo viên theo quyết định số 20/2008/QĐ-TTg.

– Sở Y tế: Chủ trì phối hợp với các ngành hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chế độ khám chữa bệnh cho hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc; chỉ đạo các huyện tổ chức tốt việc xây dựng các bệnh viện đa khoa huyện gắn với tăng cường đội ngũ bác sỹ cho các trạm y tế theo đề án được duyệt.

– Sở Văn hoá thể thao và du lịch: Phối hợp với các ngành, các huyện có hình thức tuyên truyền chương trình xoá đói giảm nghèo phù hợp nhằm nâng cao nhận thức của người nghèo, phổ biến các mô hình giảm nghèo hiệu quả, cách làm hay để nhân ra diện rộng.

– Sở Nội vụ: Tham mưu đề xuất trình UBND tỉnh chính sách và biên chế cán bộ làm chuyên trách xoá đói giảm nghèo ở các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao từ 25% trở lên; Hướng dẫn các huyện thực hiện tuyển chọn đáp ứng yêu cầu xoá đói giảm nghèo.

– Ngân hàng chính sách xã hội: Tập trung huy động các nguồn vốn cho vay hộ nghèo, cho vay phát sản xuất vùng khó khăn theo quyết định số 31/2007/QĐ-TTgvà quyết định số 32/2007/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ. Thực hiện cải tiến quy trình, thủ tục vay để cho người dân tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi cho vay hộ nghèo đúng đối tượng, đúng chính sách.

– Mặt trận tổ quốc các cấp: Phối hợp với các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội tiếp tục triển khai kế hoạch hoạt động gây quỹ “Ngày vì người nghèo”, tổ chức tốt cuộc vận động của Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam “Xây dựng nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo”. Đẩy mạnh việc xây dựng mạng lưới tổ tiết kiệm của Hộ phụ nữ, cựu chiến binh…Sử dụng có hiệu quả quỹ tín dụng dành cho người nghèo và nhân rộng các mô hình giảm nghèo có hiệu quả.

– UBND các huyện, xã: có trách nhiệm xây dựng kế hoạch giảm nghèo toàn diện báo cáo cấp uỷ cùng cấp ra nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo và tổ chức triển khai thực hiện các chính sách, chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, trình độ cán bộ địa phương, nhất là cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn lực hỗ trợ xoá đói giảm nghèo từ bên ngoài. Đồng thời kiện toàn ban chỉ đạo giảm nghèo, tổ chức rà soát lại tỷ lệ hộ nghèo, phân loại theo tình trạng nguyên nhân để có kế hoạch cụ thể đề xuất các giải pháp giảm nghèo.

Đối với 7 huyện có tỷ lệ hộ nghèo trên 50% cần xây dựng dự án giảm nghèo cụ thể để tập trung chỉ đạo, thực hiện lồng ghép với các chương trình đầu tư trên địa bản, phối hợp chặt chẽ với mặt trận tổ quốc cùng cấp và các tổ chức xã hội để chỉ đạo thực hiện, phấn đấu đạt mục tiêu giảm nghèo đến 2010 còn 30%.

Tóm lại: Chương trình xoá đói giảm nghèo muốn đạt hiệu quả cao, thì phải được quản lý, chỉ đạo thống nhất từ tỉnh đến cơ sở, trong tổ chức thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo thực hiện phân cấp cụ thể cho chính quyền các cấp (huyện, xã) nhằm mục tiêu sát với dân, phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, chính quyền các địa phương trong việc xây dựng, đề xuất kế hoạch, huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện

các bien phap thoat ngheo cho thanh nien

can cu phap ly xoa doi giam ngheo

giải pháp xóa đói giảm nghèo ở nông thôn

đề ra các biện pháp mâng cao hiệu quả việc triển khai công tác xóa đói giảm nghèo

,

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Giải Pháp Xóa Đói, Giảm Nghèo

Ngày đăng: 06/06/2018 03:28

Với việc xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ăn no, mặc ấm, được học hành, có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc đưa người dân thoát khỏi đói nghèo chính là góp phần thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: “Ngày nay, nhiệm vụ của Đảng ta là lãnh đạo quần chúng đánh thắng tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân. Như thế là xây dựng chủ nghĩa xã hội”(1). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng xã hội “dân giàu” chứ không phải “người giàu”. Vì vậy, nâng cao đời sống của tất cả mọi thành viên trong xã hội là nhiệm vụ hàng đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”(2). Tuy nhiên, là một nhà hoạt động và lãnh đạo cách mạng nhiều kinh nghiệm, Người không rơi vào chủ nghĩa lạc quan cách mạng, cho rằng chỉ cần có nhiệt tình cách mạng là có thể vượt mọi khó khăn. Người hiểu rất rõ những thách thức của việc phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, “chúng ta còn phải tiếp tục kháng chiến chống một giặc khác, đó là giặc nghèo nàn, lạc hậu. Đấu tranh chống loại giặc này còn khó khăn hơn chống giặc Pháp, giặc Nhật trước kia nhiều”(3). Để vượt qua những khó khăn và thách thức đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra hệ thống các giải pháp đồng bộ để thực hiện xóa đói, giảm nghèo một cách hiệu quả, cụ thể là:

Thứ nhất, xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch, chính sách xóa đói, giảm nghèo một cách hiệu quả, khoa học.

Người nghèo là những người thiếu nguồn lực hoặc không có cơ hội tiếp cận với các nguồn lực để phát huy nội lực của mình trong việc đảm bảo và nâng cao thu nhập nói riêng, đời sống vật chất và tinh thần nói chung. Vì vậy, họ rất cần có những chính sách hỗ trợ của nhà nước để có khả năng tiếp cận các nguồn lực này nhằm không ngừng cải thiện điều kiện sống, mức sống của mình. Đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan Đảng và Nhà nước với trình độ nhận thức cao và những nguồn lực vật chất của Nhà nước cần nắm bắt những khó khăn của người dân để xây dựng những chương trình, kế hoạch, chính sách phù hợp giúp người nghèo phát huy nội lực để vươn lên thoát nghèo. Ở mỗi địa phương, nguyên nhân nghèo của đồng bào khác nhau, có những lợi thế và hạn chế không giống nhau để phát triển kinh tế, do đó, cán bộ địa phương phải tùy theo hoàn cảnh để chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch xóa đói, giảm nghèo, không trông chờ vào kế hoạch chung của Chính phủ, “không phải Chính phủ xuất tiền ra làm. Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động. Vì vậy, nhiều kế hoạch của địa phương có thể tự thực hành được, cứ giúp cho đồng bào làm giàu dần”(4). Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán một số địa phương do cán bộ làm việc quan liêu, không biết gần dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân để xây dựng những chương trình, kế hoạch có tính khả thi giúp nhân dân nâng cao sản xuất, “các đồng chí ở huyện phải đi xuống xã mà xem xét, kiểm tra, chớ làm theo lối quan liêu, tỉnh gửi giấy về huyện, huyện gửi giấy về xã. Giấy không che rét cho trâu bò được. Làm như vậy trâu bò sẽ bị gầy đi vì đói vì rét, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất”(5).

Người nghèo thiếu nguồn lực và thiếu tri thức để sản xuất có năng suất, chất lượng, từ đó luẩn quẩn trong cái nghèo. Những chương trình, kế hoạch, chính sách xóa đói, giảm nghèo phải có sự hỗ trợ cần thiết, đồng bộ giúp người dân tiếp cận được các nguồn lực, từ đó mới phát huy hiệu quả các nguồn lực cho giảm nghèo. Từ thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: do cách làm việc quan liêu, thiếu trách nhiệm và thiếu trình độ của một số cán bộ mà những nguồn lực của đất nước đã không góp phần nâng cao đời sống của người nghèo, “tín dụng sản xuất thì thi hành sai mục đích. Cho vay để tiêu pha nhiều hơn cho vay để sản xuất. Cũng không có tổ chức trong đám đồng bào nghèo cần vay để sản xuất”(6). Người chỉ rõ, sở dĩ vốn tín dụng cho người nghèo vay không sử dụng đúng mục đích, không góp phần nâng cao sản xuất để giúp người nghèo thoát nghèo là do sự chia cắt, tách rời của các chính sách. Vốn là một nguồn lực quan trọng, là đầu vào thiết yếu để người nghèo tiến hành sản xuất nhưng do cán bộ khi cho vay lại không biết tổ chức, hướng dẫn đồng bào nghèo cách làm ăn để sử dụng đồng vốn có hiệu quả, cho nên gây lãng phí nguồn lực. Vì vậy, để thực hiện xóa đói, giảm nghèo, trước hết từng cán bộ phụ trách phải gần dân, sát dân với tinh thần trách nhiệm cao để xây dựng những chính sách hỗ trợ phù hợp; tổng hợp, đồng bộ các nguồn lực mà người nghèo còn thiếu để thực sự góp phần nâng cao sản xuất, giúp người nghèo cải thiện chất lượng đời sống.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức tự vươn lên thoát nghèo của người nghèo.

Để có thể thoát nghèo, cách duy nhất là tăng gia sản xuất. Bên cạnh việc xây dựng những chương trình, kế hoạch và hỗ trợ những nguồn lực cần thiết, phải tổ chức tuyên truyền, giáo dục, vận động để đồng bào nghèo có quyết tâm thực hiện những chương trình, kế hoạch đó, “đề ra kế hoạch biến đổi tình hình đói khổ hiện nay, các cấp bộ Đảng từ tỉnh đến xã đã ra sức tuyên truyền giáo dục nhân dân tin tưởng sức người thắng được sức trời. Cán bộ triệt để tin tưởng vào trí khôn và lực lượng của nông dân. Các cấp lãnh đạo lại thường xuyên điều tra, nghiên cứu, đúc kết và phổ biến kinh nghiệm. Nhân dân khi đã hiểu rõ và được tổ chức lại, đều ra sức thi đua vượt mức kế hoạch”(7).

Với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chính nhân dân, chính người nghèo mới là lực lượng chủ yếu trong việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo. Họ chính là người thực hiện những chính sách xóa đói, giảm nghèo mà nhà nước đưa ra, vì vậy dù chính sách đưa ra có phù hợp, hay đến mấy nhưng bản thân người nghèo không có ý chí nỗ lực thoát nghèo thì sẽ không nâng cao được sức sản xuất trên thực tế. Vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục trước hết phải góp phần thay đổi giúp người nghèo nhận thức rõ chỉ thực sự thoát nghèo khi bản thân nỗ lực vươn lên, tích cực lao động, suy nghĩ để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, sự trợ giúp của nhà nước chỉ mang tính chất hỗ trợ để phát huy nội lực, “nay ta phải vượt nghèo khó đó. Có tổ chức, có lãnh đạo, theo đúng đường lối của quần chúng, thì nhất định vượt được… Cứ chờ Đảng và Chính phủ giúp đỡ, thì không đúng đâu. Đảng và Chính phủ đề ra chính sách, phái cán bộ về hướng dẫn, thế là giúp đỡ. Nhưng đó là phụ, lực lượng nhân dân tổ chức nhau lại là chính. Không nên ỷ lại mà phải tự lực cánh sinh”(8).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt phê phán những tư tưởng ỷ lại trong một bộ phận đồng bào nghèo “nông dân muốn sắm trâu bò, nông cụ, không có tiền thì đến ngân hàng cho vay. Chính phủ làm thế là tốt. Nhưng có vay thì phải có trả. Có trả, mới có để cho người khác vay. Đằng này khi vay thì nói ngon nói ngọt “em vay về tăng gia sản xuất, em sẽ trả ngay”. Nhưng khi vay được rồi thì không chịu trả. Cho rằng Chính phủ là của nhân dân, thương nhân dân, Chính phủ không bỏ tù đâu, rồi ỳ ra không trả. Như thế chẳng những có hại cho Chính phủ mà còn ảnh hưởng không tốt đến toàn dân nữa”(9). Do đó, công tác tuyên truyền, vận động phải giúp cho đồng bào nghèo tin tưởng vào khả năng của mình, đồng thời giúp họ nhận thức rằng cuộc sống của mình phải do chính mình quyết định, sự giúp đỡ của nhà nước, cộng đồng chỉ có thể giải quyết những khó khăn trước mắt và tạo điều kiện để họ vươn lên trong cuộc sống.

Bên cạnh đó, cần giúp đồng bào nghèo thay đổi tập quán sản xuất lạc hậu, thực hiện những biện pháp và kỹ thuật canh tác hiện đại. Người viết: “Ai hướng dẫn nông dân sản xuất? Cán bộ sản xuất, cán bộ nông lâm phải hướng dẫn… Cán bộ phải tuyên truyền, giải thích làm cho nông dân hiểu và làm, không thể gò ép, mệnh lệnh”(10). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để giúp bà con thay đổi tập quán sản xuất phải kiên trì, bền bỉ thuyết phục, thậm chí phải làm mẫu để bà con hiểu, tin và làm theo. Bà con một khi đã hiểu, đã tin tưởng thì sẽ nhiệt thành làm theo.

Như vậy, công tác tuyên truyền, vận động phải nhằm mục tiêu tăng gia sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất của đồng bào nghèo, “phải dùng nhiều thứ tuyên truyền cổ động để thúc đẩy tăng gia sản xuất. Tuyên huấn mà không làm tốt những cái đó thì tuyên cái gì, huấn cái gì”(11). Cán bộ làm công tác tuyên truyền cho đồng bào trên phương châm tất cả vì mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của đồng bào nghèo để suy nghĩ, tìm kiếm những hình thức, phương pháp tuyên truyền phù hợp với tâm lý, thói quen của đồng bào nghèo.

Thứ ba, kiên quyết chống tham nhũng trong quá trình tổ chức thực hiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo là một biểu hiện rõ nét nhất bản chất tốt đẹp của chế độ ta, Nhà nước ta. Vì vậy, Người kiên quyết phê phán và lên án những cán bộ đã tham ô, lãng phí những đồng tiền mà Nhà nước đã chắt chiu dành cho dân nghèo. Theo Người, tham ô, lãng phí là một tội lớn không khác gì gián điệp, kẻ đi xâm lược, đó là thứ giặc nội xâm, nhưng tham ô, lãng phí những đồng tiền dành cho người nghèo thì lại càng gây tội lớn với nhân dân, với Tổ quốc, “khi nhận được gạo lại còn cấp phát tràn lan, chậm chạp, gạo đến người đói chậm, người không đói cũng nhận được gạo. Quá tệ hơn nữa là gạo của Chính phủ giúp dân, chừng một nửa đến tay dân đói, còn một nửa bị tham ô, lãng phí”(12). Những cán bộ đó chẳng những làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ, làm mất ý nghĩa tốt đẹp của chủ trương xóa đói, giảm nghèo mà còn trái với truyền thống, đạo lý của dân tộc, do đó cần phải nghiêm trị và trừng phạt thích đáng.

Thực tế hiện nay, tình trạng tham nhũng trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo ở Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn bị xóa bỏ. Theo số liệu của Bộ Lao động, thương binh và Xã hội, Quỹ xóa đói giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2013 đạt mức 120 nghìn tỷ đồng/năm (5,5 tỷ USD). Việt Nam hiện nay có khoảng 500 nghìn đến 3 triệu hộ nghèo. Nếu 120 nghìn tỷ đồng/năm được chi cho 500 nghìn hộ nghèo thì kinh phí giúp cho một hộ thoát nghèo là 240 triệu đồng, tức 20 triệu đồng/hộ/tháng(13). Nếu một hộ có 4 thành viên, thì thu nhập bình quân của hộ nghèo nhận hỗ trợ là 5 triệu đồng/người/tháng, lớn hơn thu nhập bình quân của nông dân, như vậy nước ta xem như đã cơ bản xóa nghèo vĩnh viễn cho toàn bộ các hộ nghèo. Tuy nhiên trên thực tế, mỗi năm số tiền người nghèo tiếp cận được chỉ khoảng 10 – 15 triệu đồng/hộ, tức bằng 4 – 6% tổng số tiền Quỹ trích ra để chăm lo cho mỗi hộ(14). Theo tìm hiểu thì 94% còn lại được chi cho bộ máy hành chính, đầu tư cho những dự án phát triển vùng, dự án nông nghiệp, dự án cơ sở hạ tầng… Vấn đề ở chỗ, số tiền dành cho xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông thôn là một mục rất quan trọng được Quốc hội thông qua hàng năm khi phê duyệt ngân sách quốc gia. Câu hỏi đặt ra: nếu các địa phương sử dụng nguồn tiền xóa đói, giảm nghèo để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, dự án nông nghiệp tại địa phương thì nguồn ngân sách hàng năm dành cho việc này dùng vào việc gì? Cần phải làm rõ, công khai, minh bạch việc nhiều địa phương đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nông dân nhưng đều tính vào đầu tư xóa đói, giảm nghèo.

Việc làm thất thoát nghiêm trọng hoặc sử dụng không đúng mục đích nguồn lực vật chất và sức mạnh tinh thần không thể thiếu trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững càng cho thấy việc thực hiện những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kiên quyết loại bỏ và trừng trị những kẻ đang làm giàu trên đồng tiền mà Nhà nước dành cho người nghèo vẫn mang tính thời sự nóng hổi.

Thứ tư, huy động các nguồn lực của toàn xã hội cho công tác xóa đói, giảm nghèo.

Huy động các nguồn lực của toàn xã hội là một giải pháp quan trọng để thực hiện có hiệu quả mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Bởi lẽ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước ta còn nghèo, nguồn lực của Nhà nước còn hạn chế và phải sử dụng để thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng khác của đất nước. Chỉ có huy động từ trong nhân dân mới có nguồn lực mạnh mẽ cho việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo. Người khẳng định: “Muốn chống nạn đói, cũng phải huy động và tổ chức tất cả lực lượng của toàn quốc đồng bào”(15); “công việc chống nạn đói, cũng như công việc to lớn khác, phải kiên quyết, phải phấn đấu, phải sẵn lòng hy sinh, phải toàn dân nhất trí”(16). Thực tế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dùng các biện pháp tuyên truyền để giúp toàn dân hiểu rằng giúp đồng bào mình thoát khỏi đói nghèo chính là cách thể hiện thiết thực nhất lòng yêu nước, yêu Tổ quốc và đồng bào mình, “làm cho mình khỏi đói rét, đồng bào mình khỏi đói rét tức là kháng chiến”(17). Người kêu gọi mọi người trong điều kiện của mình hãy “giúp cho kẻ có vốn thì có thể tự lực được, kẻ không vốn thì giúp họ cho có công ăn việc làm”(18). Điều đó là sự thể hiện truyền thống tương thân tương ái của dân tộc ta. Sự giúp đỡ cho hộ nghèo, người nghèo có thể bằng nhiều cách như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra như bày cho người nghèo những mô hình, cách thức làm ăn có hiệu quả hoặc khi mình phát triển kinh tế, cần người làm có thể ưu tiên giải quyết công ăn việc làm cho những người nghèo. Quan điểm đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở để Đảng ta đề ra chủ trương “kết hợp chính sách của Nhà nước với sự giúp đỡ trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ nghèo”(19); “tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo”(20).

Có thể nói, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các giải pháp xóa đói, giảm nghèo đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, quán triệt sâu sắc những chỉ dẫn của Người là yêu cầu cấp bách để công tác xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam thực sự bền vững và hiệu quả, không chỉ khởi đầu thành công mà còn có kết quả tốt đẹp.

ThS. Hà Thị Thùy Dương – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khu vực IV

Ghi chú:

(1),(3) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.2000, tr 599, tr.166.

(2),(4),(6),(15),(16),(17),(18) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2000, tr.65, tr.65, tr.372, tr.93, tr.94, tr.62, tr.62.

(5) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.2000, tr.213.

(7),(11) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H.2000, tr.183, tr.398 – 399

(8),(9),(10) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.2000, tr.150, tr.422, tr.152.

(12) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.2000, tr.573.

(13) http://baomoi.com/ai-giam-sat-tien-ho-tro-giam-ngheo/c/12052686.epi

(14) http://cafef.vn/thoi-su/mot-bo-may-ngon-77-san-van-dong-my-dinh-2014022014353114719.chn

(19) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.217.

(20) http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&articleId=1003838.

tcnn.vn