--- Bài mới hơn ---
Nội Dung Và Nghệ Thuật Trong Truyện Ngắn Hai Đứa Trẻ Phân Tích Nghệ Thuật Tương Phản Trong Truyện Hai Đứa Trẻ Phân Tích Tính Nghệ Thuật Trong Hai Đứa Trẻ Của Thạch Lam Phân Tích Nghệ Thuật Tương Phản Trong Truyện Ngắn Hai Đứa Trẻ Của Thạch Lam. Phân Tích Nghệ Thuật Tương Phản Trong Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HỒ THỊ THÙY
MSSV: 6095851
CÂU HỎI TU TỪ TRONG THƠ NGUYỄN
KHUYẾN
Luận văn tốt nghiệp ngành Ngữ văn
Niên khóa: 2009 – 2013
Cán bộ hướng dẫn: ThS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
Cần Thơ, tháng
5/2013
1
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ CÂU HỎI VÀ CÂU HỎI TU TỪ
1.1. Khái quát về câu hỏi
1.1.1. Khái niệm câu hỏi
1.1.2. Phân loại câu hỏi
1.1.2.1. Quan điểm của Diệp Quang Ban
1.1.2.2. Quan điểm của Nguyễn Kim Thản
1.1.2.3. Quan điểm của Đào Thanh Lan
1.1.2.4. Quan điểm của Đỗ Thị Kim Liên
1.1.2.5. Quan điểm của Nguyễn Thị Lương
1.2. Khái quát về câu hỏi tu từ
1.2.1. Khái niệm câu hỏi tu từ
1.2.2. Phân loại câu hỏi tu từ
1.2.2.1. Quan điểm của các tác giả Bùi Tất Tươm, Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân
Tâm, Nguyễn Thị Quy, Hoàng Dịu Minh
1.2.2.2. Quan điểm của tác giả Đinh Trong Lạc
1.2.2.3.Quan điểm của tác giả Nguyễn Xuân Hoa
CHƯƠNG II: KHẢO SÁT CÂU HỎI TU TỪ TRONG THƠ
NGUYỄN KHUYẾN
2.1. Vài nét về tác giả và tác phẩm
2.1.1. Tác giả
2.1.2. Tác phấm
2.2. Thống kê, phân loại
2.3. Các dạng câu hỏi tu từ trong thơ Nguyễn Khuyến
2.3.1. Câu hỏi tu từ có từ nghi vấn
2.3.1.1. Câu hỏi tu từ có đại từ nghi vấn
2.3.1.2. Câu hỏi tu từ có quan hệ từ lựa chọn ” hay”
2.3.1.3. Câu hỏi tu từ có tình thái từ
2.3.1.4. Câu hỏi tu từ có cặp phó từ nghi vấn
2.3.2. Dạng câu hỏi tu từ không có từ để hỏi
CHƯƠNG III: MỤC ĐÍCH SỦ DỤNG CÂU HỎI TU TỪ TRONG
THƠ NGUYỄN KHUYẾN
3.1. Câu hỏi tu từ thể hiện thái độ trào lộng trước đối tượng khách thể
2
3.2. Câu hỏi tu từ thể hiện tâm trạng qua thơ tự trào
3.3. Câu hỏi tu từ thể hiện tình cảm chân thành
3.4. Câu hỏi tu từ thể hiện nỗi đau thầm kín trước thời cuộc nước nhà
PHẦN KẾT LUẬN
1. Lí do chọn đề tài
Như đã biết, Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học
dân tộc. Ông là đại diện xuất sắc cuối cùng của nền văn học trung đại ở cuối thế kỉ
XIX, đầu thế kỉ XX.
Hầu hết các nhà thơ lớn thường chỉ nổi tiếng ở một thể loại. Chẳng hạn về thơ
chữ Nôm thì có hai đại diện xuất sắc là Hồ Xuân Hương “bà chúa thơ Nôm” và Trần
Tế Xương được mệnh danh là bậc “thần thơ thánh chữ”, Cao Bá Quát nổi tiếng qua
thơ chữ Hán, còn Nguyễn Khuyến nổi tiếng cả hai phương diện, thơ chữ Hán lẫn thơ
chữ Nôm. Thơ của ông thường theo thể thất ngôn, ngũ ngôn, luật hoặc trường thiên,
riêng chữ Nôm thỉnh thoảng còn có thêm song thất lục bát, thất ngôn bát cú vẫn là thể
thơ cụ Tam nguyên làm nhiều hơn và thành thạo hơn cả. Thất ngôn bát cú luật Đường
là thể thơ mà vần, chữ, niêm, luật, với kết cấu: khai, thừa, luận, kết vô cùng chặt chẽ,
vậy mà thơ Nguyễn Khuyến trong cái vỏ hình thức vô cùng bó thắt ấy vẫn cứ tự
nhiên, thoải mái, không chút khó khăn, gò bó, như nước chảy mây bay. Thơ ông
nhiều người biết đến, không chỉ những người cùng thời ông mà đến tận hôm nay và
mai sau bởi những giá trị đó sẽ tồn tại vĩnh hằng. Cái dễ dàng đi vào lòng của mọi
người là những vần thơ trong sáng, mộc mạc, dễ hiểu gần gũi với lời ăn tiếng nói
hàng ngày, nó còn là điều kiện tốt, là cơ sở đầu tiên cho người viết nghiên cứu đi sâu
vào tìm hiểu cái giá trị rất riêng làm nên nhà thơ Nguyễn Khuyến. Thành công góp
phần không nhỏ làm nên giá trị của nhà thơ, chúng ta không thể kể đến đó là Câu hỏi
tu từ. Với đề tài “Câu hỏi tu từ trong thơ Nguyễn Khuyến”, người viết mong muốn
góp phần nhỏ của mình, để có cái nhìn toàn diện về đặc sắc nghệ thuật trong thơ ca
3
của ông. Đề tài này còn mang lại niềm thú vị cho người viết trong quá trình nghiền
ngẫm để tìm ra những dụng ý nghệ thuật của tác giả. Đây là dịp để người viết củng
cố, mở rộng những kiến thức cho mình, đặc biệt là khả năng vận dụng lý thuyết của
ngôn ngữ học vào lĩnh hội tác phẩm văn chương. Cùng với sự ngưỡng mộ tài năng và
những phẩm chất cao quý của ông, người viết càng muốn đi sâu vào phân tích, tìm
hiểu tác phẩm nhằm hiểu thêm về tư tưởng, tâm tư tình cảm của nhà thơ. Đó là lí do
để người viết chọn đề tài này.
2. Lich sử vấn đề
Trong quyển Ngữ pháp tiếng Việt, tác giả Đỗ Thị kim Liên xếp Câu hỏi tu từ
(CHTT) vào loại có hình thức là câu hỏi nhưng mục đích không tương ứng. Tác giả
nhận định: “Trong loại này, mục đích, ý định thông tin của người nói nằm chính ngay
câu hỏi đó, vì vậy không cần người nghe đáp lại. Người nói chọn hình thức thể hiện ở
dạng câu hỏi nhằm mục đích tu từ, tác dụng đến người nghe một cách tinh tế, biểu
cảm hơn” . Về giá trị CHTT tác giả nhận định:
“Trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, CHTT giúp nhà văn miêu tả sâu sắc nhân
vật, nó khơi dậy những suy tưởng cho người đọc. Trong phong cách ngôn ngữ chính
luận, biện pháp này tạo ra sự đồng cảm ở người đọc, nó làm cho lời văn ngắn gọn,
bình dị, thân mật, lí luận đỡ khô khan, và cách trình bày thêm phần sinh động, gợi
cảm” .
Trong quyển 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, tác giả Đinh Trọng
Lạc đưa ra khái niệm về CHTT, dạng thức và hiệu quả của nó. Về dạng thức và hiệu
quả, tác giả nhận định: “Trong thơ ca thường thấy sau CHTT có ý nghĩa khẳng định
là sự miêu tả đầy hình ảnh và cảm xúc và nhiều khi CHTT là nhằm bộc lộ một tâm tư,
tình cảm, cảm xúc của người nói hay “có lúc CHTT
có ý nghĩa phủ định một ý tưởng, cũng là để diễn tả một tâm trạng, tình cảm, cảm
xúc”
Trong quyển Ngữ pháp tiếng Việt (tập hai), tác giả Diệp Quang Ban đưa ra
nhận định về CHTT: “Đó là cách dùng câu nghi vấn không cần sự trả lời, và nhiều
khi hỏi về những điều đã biết, nhằm thu hút sự quan tâm và làm cho thế văn trở nên
hoạt bát” . Tác giả cho rằng CHTT là dạng câu hỏi đa tình
thái và chỉ ra cách nhận diện chúng: “Để nhận ra tình thái đích thực của CHTT trong
thơ trữ tình, người đọc phải dựa chủ yếu vào ngữ cảnh tu từ”
Trong quyển Luận đề về Nguyễn Khuyến, Trần Ngọc Hưởng đề cập sơ nét về
tác giả Nguyễn Khuyến và đôi nét về thơ của ông. Trong thơ, ông lên án quan lại thối
nát và giả dối, chế giễu những kẻ chạy theo đồng tiền, chạy theo quyền lợi vật chất
làm việc bỉ ổi mất nhân cách, đả kích việc học lúc bấy giờ. Thơ của ông còn có nhiều
bài viết về nông thôn rất đáng chú ý. Ông dựng lên bức tranh cuộc sống nông thôn
một cách chân thực và sinh động, với những bài thơ này, ông xứng đáng được gọi là
nhà thơ nông thôn. Trong những bài thơ khác của ông còn có cảnh nông thôn ngày
giáp tết, nước lụt…Không chi miêu tả thiên nhiên, ông còn nói lên tâm tình của người
nông dân. Trong thơ của ông còn thấy được tình cảm của Nguyễn Khuyến chan hòa
được với tình cảm của con người nông thôn. Về ngôn ngữ thì ngôn ngữ mang được
cái duyên dáng, hóm hỉnh, sinh động của ngôn ngữ nông dân. Ngôn ngữ sử dụng rộng
rãi ngôn ngữ của đời sống hàng ngày, của ca dao, tục ngữ” .
Cũng trong quyển Nguyễn Khuyến – tác giả và tác phẩm, tác giả Vũ Thanh đã
đề cập đến vấn đề “tâm trạng của nhà thơ Nguyễn Khuyến qua thơ tự trào”. Ông
khẳng định “Nguyễn Khuyễn không chỉ viết nhiều về người khác, cười người khác mà
ông còn viết khá nhiều về mình, tự cười mình cũng nhiều. Nhưng về cơ bản gía trị tư
tưởng nghệ thuật lớn nhất ở đây là sự phản ánh sâu sắc tâm trạng trữ tình của tác
giả qua từng chặng đường, qua từng cảnh ngộ của cuộc sống, những biến đổi của
6
thời cuộc và sự trưởng thành của nhận thức”.
Trong quyển Đến với thơ Nguyễn Khuyến, tác giả Nguyễn Xuân Hiếu và Trần
Mộng Chu đã đưa ra nhận định: Nguyễn Khuyến là một thi sĩ yêu nước, từ một bộ
phận thơ ca thể hiện tậm trạng u uất, đau đớn, dằn vặt của ông trước cảnh quốc phá
gia vong. Từ một bộ phận thơ ca này hai tác giả đi đến khẳng định: “Nguyễn Khuyến
là thi sĩ yêu nước”
Trong quyển Đến với thơ Nguyễn Khuyến, tác giả Vũ Tân có đề cập đến vấn đề
nghệ thuật thơ văn của Nguyễn Khuyến, tác giả đưa ra nhận định: “Nghệ thuật thơ
văn của Nguyễn Khuyến về căn bản do yêu cầu của nội dung tư tưởng trong thơ ông
quy định. Thơ ông biểu hiện sự quan tâm của ông đối với tổ quốc, đối với nhân dân.
Thơ của ông là hình thái biểu đạt tư tưởng, tình cảm để phục vụ chính trị, phục vụ lý
tưởng nho giáo chân chính của ông” .
Thực tế đã cho thấy sức sống và vị trí của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong nền
văn học Việt Nam. Thơ văn của tác giả như một sinh thể có đời sống riêng, có vị trí
7
và tầm quan trọng riêng, và nếu thiếu nó thì nền văn học trung đại dường như có một
khoảng trống không thể lấp được. Thấy được giá trị sự nghiệp thơ văn của Nguyễn
Khuyến, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học dành thời gian, tâm huyết
để nghiên cứu thơ văn của tác giả.
Việc nghiên cứu thơ văn của ông đã đạt được rất nhiều thành tựu, ở các
phương diện khác nhau: sưu tầm, dịch thuật, nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp, nội
dung, nghệ thuật thơ văn của ông. Nhiều bài viết, công trình có giá trị khoa học cao
khi nghiên cứu về sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Khuyến ở nhiều khía cạnh khác
nhau.
3. Mục đích yêu cầu
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, tài năng nghệ thuật
cũng như những đóng góp của ông đã rất đáng quý và có giá trị lâu dài trong lịch sử
văn học dân tộc. Độc giả thường biết nhiều đến ông bởi những vần thơ thiên nhiên,
làng cảnh Việt Nam, các nhà nghiên cứu thì lại thường tiếp cận về nghệ thuật ở
phương diện bút pháp tả thực, hình ảnh ẩn dụ, tính chất trào phúng hay tự trào trong
thơ ông. Còn về đề tài “CHTT trong thơ Nguyễn Khuyến” thì vẫn chưa tìm thấy công
trình nghiên cứu nào nói đến một cách sâu sắc và toàn diện. Chính vì vậy, với đề tài
“CHTT trong thơ Nguyễn Khuyến”, người viết hy vọng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về những nét đặc sắc của Nguyễn Khuyến trong việc vận dụng những thủ pháp nghệ
thuật tu từ. Đồng thời, đó là điều kiện tốt để người viết củng cố và trao dồi những
kiến thức về mặt ngôn ngữ học, tăng khả năng tìm tòi, sự nhạy bén khi tiếp cận tác
phẩm văn chương, đặc biệt là về mặt nghệ thuật của nó. Trong quá trình nghiên cứu,
tìm hiểu “CHTT trong thơ Nguyễn Khuyến”, người viết sẽ thêm cơ hội để hiểu hơn
cuộc đời, tư tưởng, tài năng, nhân cách sống và phong cách sáng tác của nhà thơ. Đây
là vốn kiến thức quý báu, phục vụ cho người viết rất nhiều trong việc giảng dạy ở
trường phổ thông.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “CHTT trong thơ Nguyễn Khuyến”, chúng tôi tập trung đi sâu khai
thác hiệu quả của CHTT trong tập thơ Nôm của ông, trên cơ sở tìm hiểu lý thuyết
CHTT trong các công trình Phong cách học, Ngữ pháp học.
8
Ngoài tài liệu đã nói ở trên, người viết còn sử dụng ngữ liệu từ quyển
“Nguyễn Khuyến – tác giả và tác phẩm” do Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu (Nhà
xuất bản Giáo dục – 2007), và quyển “Nguyễn Khuyến – tác giả và tác phẩm” do
Nguyễn Văn Huyền sưu tập, biên dịch – giới thiệu (Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh –
2000).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài “CHTT trong thơ Nguyễn Khuyến”, người viết
sử dụng một số phương pháp :
Trước hết, người viết tìm nguồn tài liệu đề cập đến lý thuyết CHTT. Sau đó,
người viết sử dụng phương pháp tổng hợp, nhằm hệ thống hóa một số vấn đề về lý
thuyết CHTT. Với phương pháp này người viết sẽ có cái nhìn bao quát về đối tượng
nghiên cứu . Kế tiếp, người viết tiến hành thống kê, phân loại thơ ca ông để tạo nền
tảng triển khai vấn đề. Cuối cùng người viết tiến hành phân tích, chứng minh để thấy
mục đích, giá trị sử dụng “CHTT trong thơ Nguyễn Khuyến”.
9
CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT VỀ CÂU HỎI VÀ CÂU HỎI TU TỪ
1.1. Khái quát về câu hỏi
1.1.1. Khái niệm câu hỏi
Theo Trịnh Mạnh và Nguyễn Huy Đàn: “Câu hỏi nhằm mục đích nêu lên điều
muốn hỏi, điều băn khoăn, thắc mắc nói chung, cần người nghe trả lời”
Ví dụ:
– Chúng ta vừa qua Sa Pa, bác không nhận ra ư?
– Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
Các tác giả Hồng Dân, Cù Đình Tú, Nguyễn Văn Bằng, Bùi Tươm cho rằng:
“Câu hỏi là câu dùng để hỏi một điều chưa biết, nói chung điều cần biết ấy đòi hỏi
phải được trả lời
Tác giả cho rằng câu nghi vấn tiếng Việt được cấu tạo nhờ các phương tiện sau
đây:
– Các đại từ nghi vấn,
– Kết từ hay (với ý nghĩa lựa chọn),
– Các phụ từ nghi vấn,
– Các tiểu từ chuyên dụng,
– Ngữ điệu thuần túy (chỉ kể trường hợp không có các phương tiện nêu trên)
Tác giả Đỗ Kim Liên cho rằng: “Câu hỏi dùng để thể hiện sự nghi vấn của
người nói về một vấn đề gì đó và mong người nghe đáp lại. Cuối câu nghi vấn thường
có dấu chấm hỏi (?)”
Ví dụ:
– Con có nhận ra con không ?
– Bạn có dịp đến thăm Việt Nam chưa?
Nhìn chung câu hỏi (câu nghi vấn) có những đặt điểm sau:
– Nêu lên điều chưa biết hoặc còn hoài nghi.
– Cần người nghe trả lời.
– Cấu tạo bởi từ nghi vấn.
11
– Cuối câu thường có dấu chấm hỏi.
1.1.2. Phân loại câu hỏi
Về phân loại câu hỏi, hiện nay có rất nhiều cách phân loại khác nhau, nhiều ý
kiến, quan điểm khác nhau: dựa vào mục đích sử dụng, dựa vào những từ ngữ chuyên
dụng… dẫn đến sự không thống nhất về cách phân loại. Tuy là khác về tiêu chí nhưng
các nhà nghiên cứu đã khảo sát toàn diện và đầy đủ về cách phân loại câu hỏi.
1.1.2.1. Quan điểm của Diệp Quang Ban
Trong quyển Ngữ pháp tiếng Việt (tập hai) tác giả câu nghi vấn phân thành bốn
loại.
a. Câu nghi vấn dùng đại từ nghi vấn
“Câu nghi vấn có đại từ nghi vấn thường để hỏi vào những thời điểm xác định
trong câu, điểm hỏi là điểm chứa đại từ nghi vấn. Do đó, ngay cả khi câu bị tách ra
khởi tình huống nói và ngữ cảnh cũng có thể nhận biết được diểm hỏi. Có thê gọi
đây là câu nghi vấn rõ trọng điểm” .
Ví dụ :
– Anh đi hay tôi (đi) ?
12
– Anh về hay ở lại?
d. Câu nghi vấn dùng ngữ điệu:
“Cách sử dụng câu nghi vấn chỉ thuần túy dựa vào ngữ điệu được chấp nhận
rộng rãi là trong câu hỏi có ý tương phản mở đầu bằng kết từ còn. Đặc trưng ngữ
điệu của kiểu này là sự năng cao giọng ở cuối câu” .
Ví dụ:
16
– Chú bắt được ở đâu mà nhiều cá rô thế ?
– Ở ngoài đồng (Hỏi về vị trí)
– Anh được mấy cháu rồi ?
– Hai đứa, một trai, một gái( Hỏi về số lượng)
b. Câu hỏi có cặp phó từ:
Có…không ?
Có…chưa ?
Đã…chưa ?
Xong…chưa ?
Có phải…không ?
Ví dụ:
– Em đã xem bài lại xong chưa ?
– Rồi.
c. Câu hỏi có từ chọn lựa: hay…
Câu hỏi loại này thường hướng đến một trong hai khả năng nên được gọi là câu
hỏi lựa chọn.
Ví dụ:
– Mình đọc hay tôi đọc ?
– Tôi đọc ( lựa chọn cả c – v)
d. Câu hỏi dùng tình thái từ biểu thị sắc thái nghi vấn:
Chúng gồm những tình thái từ sau: “à, ư, a, hả, hở, chứ, chăng…”. Loại này,
điểm hỏi sẽ rất mơ hồ khi đứng riêng. Vì vậy, câu đáp thường phải dựa vào ngữ
cảnh..
Ví dụ:
17
– Cô Loan đứng kia hả ?
– Chiều có phim hở, chị ?
đ) Câu hỏi dùng ngữ điệu:
Loại này thường nâng cao giọng ỏ cuối câu vì không có những phương tiện nghi
vấn hỗ trợ. Thông thường phải có một câu tường thuật (khẳng định hay phủ định
đứng trước).
Ví dụ:
– Nhưng còn một cái tao chưa có ?
– Cái gì ?
– Sự nghiệp.
1.1.2.5. Quan điểm của Nguyễn Thị Lương
Trong quyển Câu tiếng Việt, tác giả cho rằng câu hỏi được nhận diện nhờ các
hình thức sau:
a. Các phó từ nghi vấn.
“Tiếng Việt thường sử dụng các cặp phó từ sau để thực hiện hành vi hỏi: có …
không, đã…chưa, có phải… không,… xong chưa”.
Ví dụ :
Ôi ! Cái thuở lòng ta yêu Tổ quốc,
Hạnh phúc nào không là hạnh phúc đầu tiên ?
(Chế Lan Viên)
Các tác giả còn khẳng định: “Trong câu hỏi tu từ ý nghĩa nghi vẫn không phải
là quan trọng, ý nghĩa tình thái bổ sung mới là ý nghĩa mà người viết (nói) muốn
nhấn mạnh và người đọc (nghe) cần phải chú ý. Hỏi chỉ là cách thức thể hiện chứ
không phải mục đích” .
20
--- Bài cũ hơn ---
Soạn Bài Đức Tính Giản Dị Của Bác Hồ Đức Tính Giản Dị Của Bác Hồ Bài Thơ Tiếng Gà Trưa Bài Thơ: Tiếng Gà Trưa Chỉ Ra Biện Pháp Tu Từ Được Sử Dụng Trong Khổ Thơ Cuối Bài Tiếng Gà Trưa