--- Bài mới hơn ---
Nghệ Thuật Đặc Sắc Trong Bài Thơ Tre Việt Nam Của Nhà Thơ Nguyễn Duy
Nghệ Thuật Đặc Sắc Trong Bài Thơ Tre Việt Nam Nguyễn Duy
Các Đề Văn Về Bài Thơ Vội Vàng
Bài Tập Tự Luyện Vội Vàng
Phân Tích Giá Trị Biện Pháp Tu Từ Được Sử Dụng Trong Khổ 1 Và 5 Của Bài Ánh Trăng
So sánh tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Với lịch sử hơn 4000 năm văn hiến, Việt Nam đã có một kho tàng thơ ca phong
phú và đa dạng. Thơ ca như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam từ
ngàn xưa đến nay. Người ta yêu thơ, biến thơ thành những câu nói ví von, thành ca
dao, dân ca hay thậm chí rút ra thành thành ngữ, hò, vè,…
Tuy nhiên, để biến một bài thơ thành một bài hát là điều không dễ, ngoài việc
các nhạc sĩ thay đổi về thanh điệu cho hài hòa để phổ chúng thành nhạc thì bản thân
bài thơ cũng phải độc đáo và có âm điệu dễ hát. Cho đến nay đã có nhiều bài thơ được
phổ nhạc nói về tình yêu như: Cô hàng xóm của Nguyễn Bính, Màu tím hoa Sim của
Hữu Loan, Hai sắc hoa Ti-gon của TTKh, Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn,…
Cũng là một dạng thơ được biến thành bài hát, nhưng thơ Trần Đăng Khoa
mang một sắc thái hoàn toàn khác, những bài thơ của ông được đa số trẻ con yêu mến
mà tiêu biểu nhất là bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ thành nhạc:
“Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Của hồ nước đầy
……………
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng Sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ”
…………
(Hạt Gạo Làng Ta)
Vì sao thơ Trần Đăng Khoa lại được đa số các trẻ nhỏ yêu mến như vậy? Bởi
những tác phẩm thơ của ông rất gần gũi với tâm lí trẻ thơ, vần điệu ngắn gọn dễ nhớ,
giàu ý nghĩa và hình ảnh đầy sức sống.
1
Trần Đăng Khoa là người đã tạo cho mình một phong cách thơ không lầm
lẫn với bất kì nhà thơ nào, ông sáng tác còn rất sớm: khi mới lên tám tuổi! So với
các trẻ con khác, nếu sáng tác trong độ tuổi này thì sẽ không tránh khỏi sự vụng về,
non nớt trong suy nghĩ… nhưng đối với Trần Đăng Khoa, ông đã đạt được sự chín
chắn trong tư duy, độc đáo trong việc thể hiện suy nghĩ, sử dụng các biện pháp tu
từ điêu luyện và có sự trau chuốt trong cách chọn lọc từ ngữ.
Đến với thơ Trần Đăng Khoa, người đọc có cảm giác như được trở về với tuổi
thơ. Hình ảnh thơ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu nên đã để lại ấn tượng sâu sắc
trong lòng người đọc. Hầu hết các bài thơ đều là những bức tranh tái hiện lại cuộc
sống ở làng quê. Từ những âm thanh trong cuộc sống đến “những năm bom đạn”
trong chiến tranh, được thể hiện trong thơ một cách đầy đủ và rõ nét.
Người xưa quan niệm, thơ không nhất thiết cầu kì, thơ cần nhất sự dung dị,
Lưu Đại Khôi đã nói: “Văn chương quý ở chỗ giản dị. Phàm viết văn và cả làm thơ
nữa, những cây bút già dặn thì giản dị, vị thanh đạm thì giản dị, khí đầy đủ thì giản
dị, thần cao xa mà hàm chứa khôn cùng thì giản dị. Vì vậy, giản dị là cảnh giới tận
cùng của văn chương vậy”. Bởi vì giản dị thì không cầu kì, câu chữ lại có tính triết
lí, ý tứ sâu xa lại hàm chứa tư tưởng khôn cùng. Thơ của Trần Đăng Khoa hấp dẫn
như loại rượu vang nho nhẹ không gây sốc, không nồng nhưng uống rồi sẽ ngấm, sẽ
say lâu và khó bỏ.
Thơ của Trần Đăng Khoa được đưa vào chương trình Tiếng Việt trong Sách
giáo khoa do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành để giảng dạy cho học sinh Phổ thông
trung học từ rất sớm. Chúng được đánh giá rất cao và chiếm vị trí quan trọng trong
mảng văn học thiếu nhi.
Một lí do nữa khiến cho người viết chọn đề tài này là: tuy so sánh tu từ là biện
pháp nghệ thuật đơn giản nhưng có vai trò vô cùng quan trọng. Thiếu so sánh trong
giao tiếp hằng ngày thì lời nói của chúng ta trở nên khô khan, thiếu gợi hình, thiếu sinh
động. Còn trong văn chương, nếu thiếu so sánh tu từ thì sẽ không thể nào diễn tả hết
được cảm xúc của tác giả muốn gửi đến người đọc người nghe. Ví như câu ca dao
“Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” nếu chỉ nói
một cách đơn thuần không có ví von, so sánh thì người phát ngôn chỉ có thể nói “Tình
cảm của cha mẹ lớn lao không gì có thể tả được” chứ không lột tả hết sự vất vả, gian
lao, tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ đối với con cái. Thông qua so sánh tu từ
2
3
4
Việc chọn đề tài này giúp người viết hiểu biết thêm về lối so sánh độc đáo và
sáng tạo của thần đồng thơ. Mặt khác, còn trang bị cho người viết một chìa khóa cần
thiết để thâm nhập, tiếp cận với những tác phẩm khác. Tuy nhiên trên tinh thần tiếp
nối, kế thừa và học hỏi những công trình đi trước, người viết muốn qua công trình này
góp thêm một phần nhỏ vốn hiểu biết của mình vào những cách nhìn lớn mang tính
toàn diện đối với đề tài: “So sánh tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa”. Và cũng từ đề tài
này sẽ tìm hiểu, khám phá ra được những cái hay, cái đẹp mang giá trị của nghệ thuật
so sánh tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc chọn đề tài “So sánh tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa” sẽ giúp người viết
thấy được được tình cảm hết sức sâu đậm của tác giả đối với quê hương, đất nước.
Hàm chứa trong mỗi câu thơ, bài thơ là nỗi niềm tâm sự, lòng trắc ẩn của nhà thơ khi
đất nước đang trong thời kì mưa bom, bão đạn. Từ đó khẳng định: ngoài nội dung tư
tưởng được truyền tải thì các biện pháp tu từ cũng góp một phần không nhỏ vào thành
công chung của toàn bộ tác phẩm.
Nghiên cứu đề tài này giúp cho người viết hiểu một cách sâu sắc hơn về các
biện pháp tu từ mà đặc biệt là so sánh tu từ, tìm hiểu những quan niệm khác nhau của
các nhà nghiên cứu về so sánh. Trên cơ sở đó thấy được khả năng vận dụng so sánh tu
từ đầy sáng tạo và hết sức độc đáo của Trần Đăng Khoa.
Hơn thế nữa, khi thực hiện đề tài này người viết sẽ nâng cao được khả năng vận
dụng phương pháp nghiên cứu tác phẩm văn học ở góc độ so sánh tu từ, đó là cơ sở
tiền đề giúp người viết có thể thực hiện những công trình nghiên cứu sau này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do không tìm được nhiều tài liệu nghiên cứu về Trần Đăng Khoa và thời gian
nghiên cứu có hạn nên người viết không phân tích hết các tác phẩm của ông mà chỉ
dừng lại ở ba tập thơ:
1. Góc sân và khoảng trời (Nhà Xuất Bản Văn Học 2006)
2. Trần Đăng Khoa thơ tinh tuyển ( Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, 2001)
3. Thơ Trần Đăng Khoa (Nhà Xuất Bản Thanh Niên,1999)
Thông qua những tác phẩm trong ba tập thơ để chúng ta thấy được tài năng sử
dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt và sáng tạo. Bằng khả năng sử dụng so sánh tu từ
hết sức độc đáo của nhà thơ đã góp phần vào thành công chung của toàn bộ tác phẩm.
5
Có thể nói từ trước đến nay, chưa một “nhà thơ trẻ con” nào lại có nhiều bài thơ sâu
sắc và thành công đến thế. Trần Đăng Khoa xứng đáng với danh hiệu: “Thần đồng thơ
ca” mà nhiều người ban tặng.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SO SÁNH TU TỪ
1.1.
Khái niệm về so sánh
Trong giao tiếp hàng ngày chúng ta vẫn hay sử dụng hình thức so sánh để câu
nói thêm phần thuyết phục như:
“Lan cao hơn mẹ”
“Mưa như trút nước
” Em ngoan hơn anh”
… … … … … …
Thậm chí, trong kho tàng thành ngữ Việt Nam từ lâu đã tồn tại nhiều thành ngữ
dưới dạng so sánh:
“Xấu như ma”
“Cao như tre miễu”
“Đen như cột nhà cháy”
… … … … … …
Việc dùng thủ pháp so sánh trở giúp người tiếp nhận hiểu sâu sắc hơn về những
phương diện nào đó của sự vật, sự việc, từ đó có cái nhìn khái quát hơn về vấn đề
được đề cập đến. Người ta chia so sánh ra làm hai loại: so sánh tu từ và so sánh luận lí.
1.1.1. So sánh luận lí
So sánh luận lí là đối chiếu hai đối tượng có quan hệ tương đồng. Ở so sánh
luận lí thì cái được so sánh và cái so sánh là các đối tượng cùng loại, mục đích của sự
so sánh là sự xác lập sự tương đương giữa hai đối tượng.
Ví dụ:
“10+10=15+5”
” Nó cao như bố nó”
“Tôi thương bậu như chồng bậu thương”
7
Khi ta nói “10+10= 15+5” là chính xác, hợp lô-gích không thể chối cãi được
vì trong biểu thức tương đương của toán học thì hai vế đều bằng 20.
“Nó cao như bố” là chuyện bình thường vì nó và cha nó xảy ra hiện tượng di
truyền, kiểu gen giống nhau thì chuyện cao giống nhau là điều dễ hiểu.
Còn đối với chuyện hai chàng trai cùng thương một cô gái với mức độ tình cảm
ngang nhau, suy cho cùng, cũng không phải là không hợp lí, là trái với quy luật tình
yêu. Dạng so sánh này đơn thuần mang phần tin thông báo chứ không tạo ra hình ảnh
nghệ thuật hay mang giá trị biểu cảm.
1.1.2. So sánh tu từ
Tác giả Cù Đình Tú trong quyển “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng
Việt” viết: “So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng cùng
có một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc
điểm của đối tượng”.
Tác giả Nguyễn Văn Nở trong quyển “Giáo trình phong cách học tiếng Việt”
đưa ra định nghĩa: “So sánh tu từ (comparison) là đối chiếu hai hay nhiều đối tượng
(hoặc sự vật) có một nét tương đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên
trong để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người
đọc, người nghe”.
Tác giả Hữu Đạt trong quyển “Phong cách tiếng việt hiện đại” quan niệm rằng:
“So sánh tu từ là dùng thuộc tính hay tình trạng của sự vật, hiện tượng này giải thích
cho thuộc tính hay tình trạng của sự vật khác”.
Quan niệm của Lê Anh Hiển, trong quyển “Phong cách học tiếng Việt” viết:
“So sánh (hình ảnh) là sự đối chiếu hai đối tượng có một dấu hiệu chung nào đấy
nhằm biểu hiện một cách hình tượng đặc điểm của một trong hai đối tượng đó”.
, độ ngắt nhịp hay ngữ điệu của câu. Cần phân biệt
dạng thức này với hình thức đối dựa trên cơ sở cân xứng, hài hòa về số lượng âm tiết,
ngữ điệu, thanh điệu, ngữ pháp… Còn so sánh tu từ dựa trên cơ sở so sánh những nét
tương đồng.
2.2.1.2.
Quan niệm của tác giả Hữu Đạt
Ông đưa ra mô hình khái quát của phép so sánh là AxB với:
A: là cái chưa biết được đem ra so sánh.
B: là cái đã biết đem ra so sánh.
x : là phương tiện so sánh.
Dựa trên mặt cấu trúc và ngữ nghĩa, tác giả Hữu Đạt chia ra làm 5 loại hình thức so
sánh:
– Loại 1: So sánh có từ so sánh
14
Mô hình: AxB
Biến thể: AxB1xB2
A, B1 B2
A, B1x A2, B2
Ví dụ:
“Sống chết một lần thôi
Con sẽ chết như những người đã chết
Và những người đang chết”.
(Trần Quang Long)
“Ta yêu những gì tha thiết
Như tre, dừa làng xóm quê hương
Như những con người biết mấy yêu thương”.
(Lê Anh Xuân)
– Loại 2: So sánh không có từ so sánh.
Mô hình: A – B
Biến thể: A – B1B2; A1A2 – B; A1A2 – B1B2
Ví dụ:
“Bác ngồi đó lớn mênh mông,
Trời cao biển rộng, ruộng đồng nước non”.
(Tố Hữu – Sáng Tháng Năm)
– Loại 3: So sánh ngang bằng.
Ví dụ:
“Qua cầu ngã nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp thương mình bấy nhiêu”.
(Ca dao)
– Loại 4: So sánh bậc cao nhất, bậc tuyệt đối.
Ví dụ:
“Đội thanh niên xung phong đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất”.
(Phạm Tiến Duật)
– Loại 5: So sánh bậc hơn kém.
Ví dụ:
15
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
2.2.1.3.
Quan niệm của tác giả Cù Đình Tú
Tác giả căn cứ vào hình thức và từ so sánh, đã chia ra thành các dạng thức.
– A như (chừng như, tựa như…) B
Ví dụ:
” Em đến với anh như tia nắng ấm
Giữa những ngày mây phủ bốn phương trời
Cơn gió lạnh mỗi giờ mỗi thấm
Nắng lên đi đẹp quá nắng ơi”!
(Tế Hanh – Em Đến Với Anh)
– A là B
Ví dụ:
“Chúng chị là hòn đá tảng trên trời
Chúng em chuột nhắt cứ đòi lung lai”.
(Ca dao)
– A bao nhiêu, B bấy nhiêu
Ví dụ:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt thương ông bà bấy nhiêu”.
(Ca dao)
2.2.1.4.
Quan niệm của tác giả Bùi Tất Tươm
Theo ông thì so sánh tu từ có những kiểu so sánh sau:
– Kiểu so sánh AxB và các biến thể của nó (x: như, tựa như, giống, hơn).
Ví dụ:
“Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày”.
16
(Ca dao)
– Kiểu A là B
Ví dụ :
“Cả một đời lo toan
Lưng bà giờ như gẫy”
(Trần Đăng Khoa – Bà Và Cháu)
– Kiểu so sánh A bao nhiêu B bấy nhiêu.
Ví dụ:
“Qua đình ngã nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”.
(Ca dao)
2.2.2. So sánh nổi và so sánh chìm
So sánh là một biện pháp tu từ tiếng Việt được cấu tạo theo mối quan hệ dựa trên
cơ sở liên tưởng tương đồng; cho nên, chúng ta dựa trên nét tương đồng này mà phân
so sánh tu từ ra làm hai loại: so sánh chìm và so sánh nổi.
2.2.2.1. So sánh chìm
Là kiểu so sánh mà nét tương đồng không được bộc lộ, thể hiện ra bằng những từ
ngữ cụ thể. So sánh chìm làm cho những nét tương đồng lẩn khuất bên trong hai vế
của phép so sánh cho nên người đọc tự tìm ra nét tương đồng ấy. Muốn hiểu được thì
người đọc phải tư duy, phải liên tưởng, mà đặc biệt là hiểu được đối tượng, để xác
định mức độ giống nhau một cách chính xác.
Ví dụ:
“Còn duyên như tượng tô vàng,
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa”.
(Ca dao)
“Anh như chỉ gấm thêu cờ,
Em như rau má lờ mờ giếng khơi”.
(Ca dao)
“Tình anh như nước dâng cao,
Tình em như dãy lụa đào tẩm hương”.
(Ca dao)
17
“Công hoài thai như biển,
Nghĩa dưỡng dục tựa sông”.
(Ca dao)
Nói “công hoài thai như biển” khiến ta liên tưởng đến công ơn sinh thành dưỡng
dục bao la, rộng lớn, khoan dung hết mực của cha mẹ. Chính điều này làm cho sự liên
tưởng trong so sánh chìm trở nên phong phú hơn. Nói như tác giả Cù Đình Tú: “Nó
kích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn so sánh nổi”.[tr.276]
2.2.2.2. So sánh nổi
Là kiểu so sánh mà nét tương đồng được bộc lộ, được nêu ra ở phép so sánh bằng
những từ ngữ cụ thể. Trong loại so sánh này thì nét tương đồng của hai vế được bộc lộ
một cách rõ ràng. Hay nói cách khác, so sánh nổi tác động một cách trực tiếp vào các
giác quan của con người.
Ví dụ:
“Thẳng như ruột ngựa”
“Ốm như cây tre miễu”
“Trắng như tiên không phải duyên, anh chẳng tiếc,
Đen như cục than hầm duyên hợp anh ưng”.
“Một vũng nước trong, con cá vùng cũng đục,
Đỏ như cục son tàu, gần mực cũng đen”.
“Ngỡi nhân nay giận mai hờn,
Lòng em thẳng cứ như đờn lên dây”.
1.3. GIÁ TRỊ CHỨC NĂNG CỦA SO SÁNH TU TỪ
1.3.1. Giá trị của so sánh tu từ
Tiếng Việt có nhiều biện pháp tu từ khác nhau, ở mỗi biện pháp đều có một giá trị
riêng. So sánh tu từ là một cách tu từ cho nên nó cũng mang những giá trị chung như các
biện pháp tu từ khác. Trên thực tế, dù tiếng Việt khá phong phú và đa dạng so với một số
ngôn ngữ khác trên thế giới nhưng nó cũng có giới hạn nhất định. Trong khi đó, đời sống
của con người ngày càng phát triển, nhu cầu diễn đạt, bộc lộ tâm tư tình cảm càng cao nên
nảy sinh ra các dạng thức tu từ làm giàu thêm vốn ngôn ngữ, khiến cách diễn đạt thêm
phần thuyết phục. Cùng với các biện pháp tu từ khác, so sánh tu từ trở nên vô cùng cần
thiết cho sự diễn đạt, đối với cùng một đối tượng, ta có nhiều từ ngữ để biểu thị hơn và
làm cho sự diễn tả trở nên sâu sắc, đa dạng, phong phú, mang nhiều nét nghĩa.
18
Ví dụ:
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”…(1)
(Lòng Mẹ)
“Mẹ là nải chuối, buồng cau”… (2)
(Bông Hồng Cài Áo)
Khi sử dụng biện pháp so sánh ta có rất nhiều cách để nói về hình ảnh người mẹ.
Trong lời bài hát (1), thì cách so sánh ” lòng mẹ” như biển “Thái Bình” là một
cách so sánh độc đáo. Biển chiếm khoảng 70% diện tích bề mặt trái đất, trong tất cả
các biển thì biển Thái Bình là biển lớn nhất. Từ đó, người nghe có thể thấy được rằng
tình mẹ hết sức rộng lớn, dường như không gì có thể so sánh được trên trái đất này.
Cách so sánh ấy làm người nghe có thể suy ra một điều rằng mẹ vừa là cội nguồn, là
tình yêu thương vừa là sự bao la, dung dị lúc nào cũng như biển cả rộng lớn mở rộng
vòng tay đón những đứa con vào lòng.
Lời bài hát (2) là lời người Nam Bộ hết sức mộc mạc, chân tình. Họ không thích
phô trương tình cảm bằng những đối tượng so sánh cao sang, cầu kì, xa rời thực tế.
Hình ảnh người mẹ trong bài hát Bông hồng cài áo được ví với “nải chuối”, “buồng
cau” – những thứ hết sức giản dị và gần gũi với cuộc sống. Chính cách so sánh này đã
làm cho bài hát dễ đi vào lòng người, êm ái và ngọt ngào bởi những hình ảnh thân
thuộc của quê hương.
1.3.2. Chức năng của so sánh tu từ
So sánh tu từ có hai chức năng chính đó là: chức năng nhận thức và chức
năng biểu cảm.
1.3.2.1. Chức năng nhận thức
Vì so sánh là dựa trên những nét nghĩa tương đồng giữa các đối tượng cho nên
so sánh tu từ là sự phát hiện, đối chiếu những nét tương đồng ấy. Muốn được như
thế thì người sử dụng phải có sự nhạy bén trong các giác quan, sự tế nhị trong tâm
hồn. Từ đó, phát hiện ra những điều mà người khác chưa để ý đến. Vì vậy, chức
năng nhận thức giúp cho chúng ta hiểu một cách đầy đủ, cặn kẽ những hàm ý ẩn
chứa bên trong câu chữ.
Ví dụ:
” Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa giữa trời
19
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Bốn câu thơ như là bốn bức tranh, vừa thể hiện cái tài, vừa thể hiện cái tình. Cách
so sánh mới mẻ, độc đáo, không lẫn vào đâu được. Nguyễn Du đã sử dụng thành thạo
vốn ngôn ngữ của cha ông và thể hiện rất thành công trong tác phẩm. Chính điều này
đã giúp tác phẩm trở thành tinh hoa và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
1.3.2.2. Chức năng biểu cảm
Qua các hình ảnh so sánh tu từ, người nói thể hiện ít nhiều tình cảm: yêu, ghét,
buồn, vui, khen, chê, khinh, trọng… đối với đối tượng và qua đó tác động đến người
nghe. Chính vì thế so sánh tu từ còn có chức năng biểu cảm. Muốn thấy rõ được chức
năng biểu cảm thì chúng ta phải khai thác những nét nghĩa hàm ẩn, chứ không chỉ là
sự liên tưởng đến những nét chung nhất. Ta thử xét một vài ví dụ để minh chứng:
“Thơ, thơ đong từng ngao nhưng tác bể,
Là cân nhỏ xíu lại cân đời” (1)
(Chế Lan Viên)
“Anh như con một nhà giàu,
Em như tờ giấy bên Tàu mới sang”. (2)
(Ca dao)
Ở câu (2) thông qua những hình ảnh được so sánh, so sánh tu từ đã góp phần tạo
nên sự đối lập của hai nhân vật “anh” và “em”. Qua đó, bài ca dao bộc lộ quan niệm
trọng nam khinh nữ vốn rất đè nặng trong xã hội phong kiến. Nhờ vậy chúng ta có thể
hiểu rõ hơn về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa, một xã hội mà quan hệ giữa
nam và nữ có sự bất bình đẳng.
Chung quy lại, chức năng biểu cảm là chức năng quan trọng nhất. Hiển nhiên,
một phép so sánh nào cũng chứa đựng một lượng thông tin, từ lượng thông tin ta có
thể ta có thể nhận ra một ý nghĩa nào đó. So sánh tu từ có chức năng vừa là công cụ
nhận thức, vừa là phương tiện giúp chúng ta bày tỏ tình cảm, thái độ trước những
vấn đề của xã hội. Mặt khác, nó còn giúp cho chúng ta tư duy, như lời nhận xét của
tác giả Lê Đình Tuấn: “Trong tiếng Việt, sánh tu từ được sử dụng nhiều nhất so với
các phương thức tu từ từ vựng khác: ẩn dụ, nhân hóa, thậm xưng, chơi chữ, phúng
20
--- Bài cũ hơn ---
Phân Tích Vẻ Đẹp Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Của Trần Đăng Khoa
Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta (Lớp 5)
Hướng Dẫn Soạn Bài Hai Đứa Trẻ Ngắn Gọn
Thời Gian Và Không Gian Được Miêu Tả Trong Truyện Ngắn Hai Đứa Trẻ Như Thế Nào? Ấn Tượng Của Anh/chị Về Cái Bóng Tối Trong Đêm Phố Huyện?
Phân Tích Giá Trị Nhân Đạo Trong Truyện Ngắn Hai Đứa Trẻ