Top 4 # Chức Năng Của Nhà Nước Chiếm Hữu Nô Lệ Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Xã Hội Chiếm Hữu Nô Lệ

Xã hội chiếm hữu nô lệ xuất hiện ở phương Đông sớm nhất, khoảng 3000 năm trước công nguyên ở các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều quốc gia khác, ở châu Âu xã hội này xuất hiện muộn hơn. Xã hội chiếm hữu nô lệ Hy Lạp ra đời khoảng thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, ở La Mã vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên và kết thúc vào thế kỷ thứ V sau công nguyên khi đế quốc Tây La Mã sụp đổ.

Các giai cấp chính của xã hội chiếm hữu nô lệ

Xã hội chiếm hữu nô lệ chia thành ba giai cấp chính:

Thứ nhất, giai cấp chủ nô, quý tộc là giai cấp thống trị áp bức bóc lột vì chúng chiếm giữ được tư liệu sản xuất.

Thứ hai, giai cấp nông dân công xã nông thôn và tầng lớp thị dân thành thị, ở Hy Lạp, La Mã tầng lớp này được gọi là bình dân. Nông dân và, thị dân có tài sản, có gia đình riêng nhưng bị nhà nước chủ nô bóc lột, khi phá sản có thể rơi xuống địa vị nô lệ.

Thứ ba, giai cấp nô lệ, nguồn chủ yếu từ các bộ lạc bại trận trong chiến tranh, không cùng huyết thống với giai cấp chủ nô, bị kẻ chiến thắng tước đoạt tài sản, ruộng đất, còn bản thân bị biến thành nô lệ. Theo pháp luật của nhà nước chủ nô, nô lệ không phải là con người, chỉ là tài sản đặc biệt của chủ nô, tài sản biết nói. Chủ nô có thể giết, đánh đập đến tàn phế hoặc đem nô lệ ra chợ mua bán, đổi chác. Một cuốn sách cổ của Trung Quốc có ghi rằng, một nô lệ khỏe mạnh đổi được hai con ngựa tốt. Nô lệ bị cưỡng bức lao động khổ sai nặng nhọc không kể giờ giấc, họ không được hưởng phần nào kết quả lao động của mình.

Phân chia đẳng cấp

Ngoài phân chia xã hội thành giai cấp, kẻ thống trị còn phân chia xã hội thành các đẳng cấp. Giai cấp chủ nô thuộc đẳng cấp quý tộc cao quý, nông dân thị dân thuộc đẳng cấp dưới, nô lệ chỉ là tài sản của chủ nô nên không không được xếp vào đẳng cấp nào. Ở xã hội chiếm hữu nô lệ, khái niệm nhân dân không có nô lệ.

Sự phân chia xã hội thành đẳng cấp nặng nề nhất là Ấn Độ ( chế độ chủng tính Varna). Sự phân chia xã hội thành đẳng cấp theo giải thích của giai cấp thống trị thì đó là theo ý muốn của thần thánh vĩnh viễn không thay đổi được. Thực ra đẳng cấp được phân chia để nhằm củng cố hơn nữa địa vị của giai cấp thống trị, nó cũng bắt nguồn như nguồn gốc giai cấp.

Các mô hình nhà nước thời kỳ chiếm hữu nô lệ

Trong xã hội nô lệ, khi cộng đồng thị tộc dựa trên quan hệ huyết thống tan rã thì ở Hy Lạp, La Mã hình thành cộng đồng bộ tộc, vì nhà nước cai trị dân cư theo khu vực hành chính và thêm nhiều yếu tố khác làm xáo trộn dân cư. Bộ tộc là cộng đồng người có sự thống nhất ban đầu về kinh tế, văn hóa và lãnh thổ, một cộng đồng cao hơn cộng đồng thị tộc.

Nhưng ở châu Á, khi công xã nguyên thủy tan rã, hình thành nhà nước đầu tiên thì dân tộc quốc gia cũng ra đời. Trong nhiều tác phẩm kinh điển của mình, chính C.Mác và Ph.Ăngghen ngoài luận chứng về một dân tộc quốc gia tư sản ở châu Âu thì các ông cũng cho rằng, có một dân tộc tiền tư bản và thời điểm ra đời dân tộc này khi mà nhà nước đầu tiên ra đời, khi mà công xã nguyên thủy tan rã.

Đặc trưng chung của nhà nước là cai trị dân cư theo khu vực hành chính và hình thành nên bộ máy quyền lực công cộng, có hai chức năng chính là đối nội và đối ngoại. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử ra đời khác nhau mà hình thức nhà nước châu Á và Hy Lạp – La Mã khác nhau. Ở các nước phương Đông, thiết chế chính trị của nhà nước chiếm hữu nô lệ là quân chủ chuyên chế tập quyền, trong khi đó Hy Lạp lại thiết lập nhà nước Cộng hòa dân chủ chủ nô, ở La Mã là nhà nước Cộng hòa quý tộc chủ nô. Trong thiết chế quân chủ chuyên chế tập quyền chỉ có nhà vua nắm quyền lực, ngai vàng là do kế vị và nắm quyền lực suốt đời. Trong thiết chế cộng hòa, quyền lực trong tay một tập thể, do một tập thể rộng lớn hơn bầu ra và nắm quyền có nhiệm kỳ. Đó là sự khác nhau căn bản giữa thiết chế cộng hòa và quân chủ. Dù thiết chế chính trị có khác nhau nhưng nhà nước nào cũng phải đầy đủ ba bộ phận cơ bản: bộ máy hành chính quan liêu đông đúc; đội ngũ trí thức, tăng lữ; những cơ quan sức mạnh gồm quân đội cảnh sát…

Nhà nước chủ nô đã đóng vai trò đắc lực phục vụ giai cấp và phục vụ xã hội. Vì thế, trong xã hội chiếm hữu nô lệ lực lượng sản xuất phát triển, văn hóa vật chất và phi vật chất đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Các quốc gia cổ đại Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp, La Mã trở thành những trung tâm của nền văn minh thế giới cổ đại, những nền văn minh này đã đặt nền tảng cho nền văn hóa về sau của các dân tộc này và ảnh hưởng lớn đến các dân tộc khác.

Chiến tranh

Khi xã hội có giai cấp và nhà nước thì chiến tranh bây giờ mới đúng nghĩa là biện pháp vũ lực phục vụ cho công cuộc bành trướng quyền lực, mở rộng lãnh thổ, tức là chiến tranh đã phục vụ cho mục đích chính trị. Giai cấp thống trị chủ nô tham lam không chỉ bóc lột cư dân trong lãnh thổ của mình mà còn tiến hành các cuộc chiến tranh cướp đoạt đất đai xây dựng nên những đế quốc rộng lớn, thống trị, bóc lột các dân tộc khác.

Đó là những cuộc chiến tranh của các Pharaông Ai Cập xâm chiếm Cận Đông, Bắc Phi; chiến tranh của vương quốc Babylon chinh phục Lưỡng Hà; chiến tranh của đế quốc Ba Tư chinh phục Tiểu Á, Cận Đông; của đế quốc Maxêđônia xâm lược khu vực Địa Trung Hải và phương Đông; của Nhà nước La Mã để xây dựng nên một đế quốc rộng lớn từ Tây Âu đến Bắc Phi.

Xu hướng phân liệt và thống nhất trong một quốc gia cũng dẫn tới những cuộc chiến tranh tương tàn trong nội bộ. Nội chiến trong quốc gia cổ Ấn Độ giữa các tiểu vương quốc trong nhiều giai đoạn lịch sử. Cục diện Xuân thu Chiến quốc ở Trung Quốc suốt gần 500 năm trời để tranh giành quyền bá chủ gây nên núi xương sông máu. Nội chiến ở Hy Lạp cổ đại giữa các thành bang do Aten đứng đầụ với các thành bang do Xpác đứng đầu để tranh giành quyền lợi chính trị và kinh tế ở bán đảo. Các cuộc nội chiến đó có thể đưa đất nước tới thống nhất nhưng cũng có thể làm cho quốc gia suy yếu tạo điều kiện cho các thế lực bên ngoài nhòm ngó xâm lược.

Đấu tranh giai cấp

Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội chiếm hữu nô lệ là mâu thuẫn giữa chủ nô và nô là dẫn tới cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt, nô lệ khởi nghĩa chống lại nhà nựớc và giai cấp chủ nô. Khởi nghĩa của Xpactacuxơ lãnh đạo vào thế kỷ thứ I trước công nguyên đã làm rung chuyển đế quốc La Mã, đẩy chế độ đó tới không thể cai trị như cũ được nữa.

Đấu tranh của nô lệ chống chủ nô là một trong những động lực góp phần giải thể chế độ đó để bước sang một hình thái kinh tế xã hội cao hơn – hình thái kinh tế xã hội phong kiến.

Hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ không phải bắt buộc đối với tất cả các dân tộc, nhiều dân tộc đã bỏ qua chế độ này, từ công xã nguyên thủy thẳng tiến lên chế độ phong kiến. Vì khi công xã nguyên thủy của quốc gia đó tan rã thì các quốc gia chung quanh đã hình thành và phát triển chế độ phong kiến như lịch sử của Mông Cổ, Nhật Bản, Nga, của các tộc người Giécmanh, …

Kiểu Nhà Nước Chủ Nô Là Gì ? Tìm Hiểu Về Kiểu Nhà Nước Chủ Nô

Kiểu nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, ra đời trên sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy gắn liền với sự xuất hiện sở hữu tư nhân và sự hình thành những giai cấp đầu tiên – giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ.

Nhà nước chủ nô xuất hiện đầu tiên trên thế giới là Nhà nước Ai Cập cổ đại xuất hiện vào khoảng bốn nghìn năm trước Công nguyên, Nhà nước Xume (Sumer) cổ đại (vùng vịnh Pecxich) xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Nhà nước Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại cũng xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Cơ sở kinh tế – xã hội của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân của chủ nô về tư liệu sản xuất và nô lệ. Xã hội chiếm hữu nô lệ có hai giai cấp cơ bản và có sự mâu thuẫn đối kháng là chủ nô và nô lệ. Nô lệ được coi là công cụ biết nói và là một thứ hàng hoá mà chủ nô có thể mua bán trên thị trường. Xét về bản chất thì nhà nước chủ nô là bộ máy chuyên chính của giai cấp chủ nô, là công cụ thiết lập và bảo vệ quyền lực của giai cấp chủ nô, đồng thời, là bộ máy trấn áp giai cấp nô lệ và những người lao động tự do trong xã hội. Bộ máy của nhà nước chủ nô chủ yếu là bộ máy quân sự và cảnh sát. Phần lớn, các nhà nước chủ nô chưa có sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước.

Ở các nước phương Đông, hình thức chính thể của nhà nước chủ nô phổ biến là hình thức quân chủ chuyên chế với quyền lực vô hạn của vua hay quốc vương, hoàng đế. Ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, hình thức nhà nước phong phú hơn. Ngoài hình thức quân chủ chuyên chế, ở La Mã còn tồn tại hình thức cộng hòa quý tộc, ở Aten (Hy Lạp) còn có hình thức cộng hòa dân chủ mà ở đây đại hội nhân dân được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Chức Năng Nhà Nước Là Gì? Phân Tích Chức Năng Của Nhà Nước?

Chức năng Nhà nước là gì? Phân tích Chức năng của nhà nước?

Chức năng của nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.

2. Phân tích chức năng của nhà nước

– Định nghĩa trên cho thấy, nói đến chức năng nhà nước là nói đến những hoạt động của nhà nước để thực hiện những công việc mà nhà nước phải làm, đó là tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội.

Những công việc đó gắn liền với nhà nước mà không một thực thể nào trong xã hội có thể làm thay nhà nước, đồng thời, nhà nước có đủ khả năng để làm. Nói cách khác, chức năng nhà nước là khái niệm dùng để chỉ những hoạt động, phần việc quan trọng của riêng nhà nước mà chỉ nhà nước mới có đủ khả năng, điều kiện để thực hiện những hoạt động đó. Do vậy, có thể hiếu, chức năng nhà nước là những phương diện, loại hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Đó là những mặt hoạt động, hướng hoạt động chủ yếu của nhà nước, phát sinh từ bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ, vai trò và điều kiện tồn tại của nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.

– Chức năng của nhà nước luôn phản ánh bản chất của nhà nước hay do bản chất của nhà nước quyết định. Ví dụ, với bản chất là bộ máy chuyên chính của giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến và bộ máy quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự của xã hội phong kiến nên chức năng đàn áp và nô dịch nông dân bằng quân sự và về tư tưởng, tiến hành chiến tranh xâm lược nước khác khi có điều kiện… là các chức năng phổ biến của các nhà nước phong kiến. Còn với bản chất là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và là bộ máy chuyên chính vô sản, các chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật… là chức năng phổ biến của các nhà nước xã hội chủ nghĩa.

– Chức năng của nhà nước còn phụ thuộc vào nhiệm vụ cơ bản của nhà nước. Giữa chức năng và nhiệm vụ của nhà nước vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt, vừa có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ của nhà nước là những công việc đặt ra đòi hỏi nhà nước phải giải quyết theo những mục tiêu đã định sẵn. Nhà nước có hai loại nhiệm vụ là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài và nhiệm vụ trước mắt, cấp bách. Nhiệm vụ chiến lược, lâu dài là những vấn đề nhà nước phải giải quyết trong suốt chặng đường phát triển của đất nước. Nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài được thực hiện thông qua các chức năng nhà nước nên chức năng nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với nhiệm vụ chiến lược của nhà nước và nhiệm vụ chiến lược của nhà nước có vai trò quyết định đối với việc xác định và thực hiện chức năng nhà nước. Ví dụ, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tất cả các chức năng của Nhà nước ta đều được xác định và thực hiện nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này. Nhiệm vụ trước mắt, cấp bách là những công việc mà nhà nước phải giải quyết trong ngắn hạn, ngay lập tức để thực hiện một chức năng nào đó của nhà nước, do vậy, nhiệm vụ trước mắt, cấp bách có phạm vi hẹp hơn so với chức năng nhà nước, được xác định nhằm thực hiện chức năng, do chức năng quyết định. Ví dụ, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật môi trường của các doanh nghiệp hiện nay được xác định và thực hiện nhằm thực hiện chức năng quản lý môi trường của nhà nước.

– Giữa chức năng và vai trò của nhà nước vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt. Chức năng của nhà nước thường nói tới việc nhà nước được sinh ra để làm gì, còn vai trò của nhà nước thường đề cập công dụng, tác dụng của nhà nước. Trong trường hợp này, chức năng và vai trò của nhà nước có ý nghĩa gần như tương tự nhau. Tuy nhiên, ngoài ý nghĩa trên, vai trò của nhà nước còn được sử dụng để nói về tầm quan trọng của nhà nước (chẳng hạn vai trò của nhà nước đối với xã hội).

3. Các yếu tố ảnh hưởng chức năng nhà nước

Chức năng của nhà nước chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:

– Điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ phát triển của nó. Thực tế cho thấy, nhà nước phải làm gì, làm như thế nào, điều đó phụ thuộc rất lớn vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước, do đó, các nhà nước khác nhau có thể có chức năng khác nhau. Ví dụ, chức năng của nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây khác với chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Trong một nhà nước cụ thể, ở các giai đoạn phát triển khác nhau, số lượng chức năng, tầm quan trọng của mỗi chức năng, nội dung, cách thức thực hiện từng chức năng cũng có thể khác nhau. Ví dụ, trước năm 1986, quản lý, bảo vệ môi trường chưa phải là chức năng của Nhà nước ta nhưng hiện nay nó trở thành chức năng có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu. Hoặc, thiết lập và phát triển các mối quan hệ ngoại giao, hữu nghị và hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế là chức năng không thể thiếu của các nhà nước đương đại…

– Chức năng của nhà nước còn phụ thuộc vào bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước và hoàn cảnh quốc tế. Điều này đã được phân tích ở trên.

4. Mối quan hệ giữa các chức năng của nhà nước

Một nhà nước thường có nhiều chức năng và các chức năng đó có liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện chức năng này thường có ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng khác. Chẳng hạn, nhà nước chỉ có thể thực hiện tốt việc tổ chức và quản lý kinh tế khi thực hiện tốt hoạt động bảo vệ tổ quốc, tương tự các hoạt động về mặt xã hội như phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bảo trợ xã hội… chỉ có thể thực hiện tốt khi thực hiện có hiệu quả hoạt động tổ chức và quản lý kinh tế.

5. Các phương thức (hình thức và phương pháp) thực hiện chức năng của nhà nước

– Để thực hiện chức năng của mình, đòi hỏi nhà nước phải sử dụng các hình thức khác nhau, trong đó có các hình thức cơ bản (hình thức mang tính pháp lý) là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật.

Muốn tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội, thiết lập trật tự xã hội, nhà nước phải tiến hành xây dựng pháp luật để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người, xác định rõ những việc được làm, không được làm, phải làm cho các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội nhất định để làm cho các quan hệ đó phát triển theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Ví dụ, muốn thiết lập trật tự an

toàn giao thông đường bộ, nhà nước phải ban hành luật giao thông đường bộ để hướng dẫn cách tham gia giao thồng đường bộ cho tất cả mọi người; để bảo đảm sự ổn định của gia đình, nhà nước phải ban hành luật hôn nhân và gia đình để hướng dẫn cách xử sự của các thành viên trong gia đình với nhau… Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, hệ thống pháp luật được từng bước hình thành và hoàn thiện.

Pháp luật sau khi được ban hành thường không thể tự đi vào đời sống, có nhiều quy định mà các cá nhân, tổ chức trong xã hội không tự thực hiện được, do đó, nhà nước phải tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm tổ chức cho các chủ thể trong xã hội thực hiện các quy định của pháp luật, chẳng hạn, nhà nước tiến hành phổ biến pháp luật cho người dân, giải thích, tuyên truyền, động viên, khuyến khích tính tích cực của họ, cung cấp nhân lực, vật lực, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật… Có như vậy, những mong muốn, yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước thế hiện trong pháp luật mới có thể được thực hiện một cách có hiệu quả.

Trong quá trình thực hiện pháp luật, vì những lý do khác nhau, việc vi phạm pháp luật là khó tránh khỏi. Khi đó, nhà nước phải bảo vệ pháp luật bằng cách thực hiện các hoạt động để xử lý người vi phạm, giáo dục, cải tạo họ cũng như răn đe, phòng ngừa chung nhằm bảo đảm tính tôn nghiêm của pháp luật, bảo đảm các yêu cầu của nhà nước được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác.

Ngoài ra, còn có các hình thức khác như tổ chức các cuộc hội thảo, các phong trào thi đua, các biện pháp tác nghiệp vật chất, kỹ thuật…

– Phương pháp thực hiện chức năng của nhà nước gồm có hai phương pháp chủ yếu là thuyết phục và cưỡng chế. Thuyết phục là dùng lời nói để thuyết trình, giảng giải, chứng minh, phân tích… nhằm tạo ra sự phục tùng tự giác của đối tượng thuyết phục (hoặc đối tượng quản lý) đối với chủ thể thuyết phục (hoặc chủ thể quản lý). Cưỡng chế là bắt buộc bằng bạo lực một tổ chức hoặc một cá nhân phải làm hay không được làm một việc gì đó, hoặc phải gánh chịu sự thiệt hại về nhân thân, về tự do hoặc về tài sản… đã được quy định trong pháp luật. Ngoài hai phương pháp ừên còn có các phương pháp khác như phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính…

Trong số các chức năng của Nhà nước Việt Nam hiện nay thì ba chức năng quan trọng nhất là chức năng kinh tế, chức năng xã hội và chức năng bảo vệ Tố quốc.

Like fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/

Triệt Sản Nữ Vẫn Mang Thai Chiếm Tỷ Lệ Bao Nhiêu?

Theo bác sĩ Dương Phương Mai (BV Từ Dũ TPHCM), hiện có nhiều phương pháp ngừa thai vĩnh viễn. Trong đó, triệt sản là một trong những phương pháp phổ biến. Ước tính trên thế giới có khoảng 230 triệu cặp vợ chồng áp dụng biện pháp triệt sản/năm, trong đó chiếm hơn 80% là nữ giới.

Triệt sản nữ là phương pháp làm tắc nghẽn ống dẫn trứng để ngăn tinh trùng và trứng gặp nhau. Đây là một biện pháp ngừa thai vĩnh viễn, an toàn, thích hợp cho những phụ nữ trên 30 tuổi, có hai con sống khỏe mạnh, con nhỏ nhất trên 3 tuổi và không có nhu cầu có thêm con nữa.

Khi thực hiện triệt sản, các bác sĩ sẽ thắt hoặc cắt vòi trứng để không thể thụ tinh bình thường được nữa. Phương pháp này tránh được nhiều mâu thuẫn vợ chồng, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình do vỡ kế hoạch gây ra. Ngoài ra, triệt sản có ưu điểm là không có tác dụng phụ và ít có nguy cơ.

Vì nhiều lý do, một số chị em đã chọn phương án triệt sản để tránh mang thai

Theo bác sĩ Mai, những chị em nên thực hiện triệt sản bao gồm người có bệnh tim nặng mà thai nghén làm bệnh nặng thêm. Ở những bệnh nhân này, triệt sản là phương pháp tốt nhất. Ngoài ra, các bệnh lý khác như bệnh phổi mạn tính, bệnh thận và cao huyết áp nặng, bệnh thần kinh, tâm thần nặng, ung thư sinh dục nữ, ung thư vú hoặc mắc các bệnh lý về máu… là những trường hợp có chỉ định triệt sản để ngừa thai vĩnh viễn.

Trường hợp người phụ nữ đã nhiều lần mổ lấy thai, sinh nhiều con trong khi điều kiện kinh tế khó khăn, các bác sĩ cũng sẽ tư vấn triệt sản cho chị em.

Khi chị em đồng ý triệt sản, thời điểm thích hợp nhất là lúc mổ lấy thai. Kế đó là thời kỳ hậu sản, tốt nhất nên thực hiện triệt sản trong 24-36 giờ đầu, sau 6 giờ sau sinh, để giảm nguy cơ chảy máu và sản phụ có thì giờ nghỉ ngơi.

Ở thời kỳ không mang thai, ngay sau sạch kinh là thời điểm tốt nhất để thực hiện thủ thuật. Như thế sẽ loại trừ triệt sản ở người có thai sớm.

Bác sĩ Mai cũng cho biết, phương pháp triệt sản cho tỷ lệ ngừa thai thành công cao, lên đến trên 99%. Một số nghiên cứu cho thấy chỉ 1/200 phụ nữ có thể “dính bầu” sau triệt sản.

Tuy nhiên bác sĩ Mai cũng lưu ý, việc triệt sản không thể bảo vệ phụ nữ khỏi các bệnh lây qua đường tình dục. Do vậy chị em nên cân nhắc việc sử dụng bao cao su khi quan hệ, đặc biệt là những người có nhiều bạn tình.

Hơn nữa, người đã triệt sản mà muốn có con trở lại sẽ rất khó, bởi việc nối lại hay tái thông tai vòi của buồng trứng không hề đơn giản. Do đó, trước khi có ý định triệt sản, chị em cần phải cân nhắc kỹ các yếu tố nguy cơ có thể xảy ra.