Top 15 # Chức Năng Của Nhà Nước Xhcn Việt Nam Hiện Nay Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Chức Năng Xã Hội Của Nhà Nước Việt Nam Hiện Nay

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

LÊ THỊ THỦY CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THỦY CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Quốc Hùng

HÀ NỘI – 2011

MỤC LỤC Trang

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 3 1.1. Khái niệm và đặc điểm chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam 3 1.2. Quá trình phát triển của chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam 12 1.3. Vai trò và mối liên hệ giữa chức năng xã hội với các chức năng khác của nhà nước 18

Chương 2: NỘI DUNG CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY 24 2.1. Tình hình kinh tế, chính trị – xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 24 2.2. Nhiệm vụ, chiến lược của nhà nước Việt Nam hiện nay 25 2.2.1. Nhiệm vụ chiến lược chung 25 2.2.2. Nhiệm vụ, chiến lược cụ thể 26 2.3. Nội dung cơ bản của chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam hiện nay 33 2.3.1. Xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động của đời sống xã hội 33 2.3.2 Xây dựng và đảm bảo thực hiện các chính sách xã hội 34 2.3.3. Đảm bảo cung cấp các dịch vụ công cho xã hội 37 2.3.4. Giải quyết các vấn đề xã hội 43 2.3.5. Bảo trợ và phúc lợi xã hội 63 2.4. Những yếu tố tác động đến chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam hiện nay 69 2.4.1. Yếu tố chính trị 69 2.4.2. Yếu tố kinh tế 70 2.4.3. Yếu tố hội nhập quốc tế 72

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁCH THỨC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG XÃ HỘI HIỆU QUẢ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 73 3.1. Phương hướng thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam hiện nay 73 3.1.1. Đổi mới nhận thức về chức năng xã hội của nhà nước 73 3.1.2 Đổi mới nội dung và cách thức thực hiện chức năng xã hội 74 3.1.3. Đổi mới nhận thức về chức năng xã hội của nhà nước là sự kết hợp hài hòa giữa “nhà nước hóa” và “xã hội hóa” 75 3.1.4. Đổi mới chức năng xã hội phải được đặt trong mới quan hệ tổng thể đối mới các chức năng khác của nhà nước 76 3.1.5. Những hạn chế nhất định trong việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước 77 3.2. Những cách thức thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay 79

3.2.1. Tổ chức và kiện toàn bộ máy nhà nước 79 3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 82

Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 94 1 MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Chức năng xã hội là một trong những chức năng quan trong, thể hiện rõ nét bản chất “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với chức năng chính trị, chức năng kinh tế, chức năng xã hội của nhà nước là một chuỗi các phương diện hoạt động chính của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước, là các hoạt động có quá trình hình thành và phát triển và được thể hiện rõ rệt theo từng giai đoạn phát triển của nhà nước Việt Nam. Mặc dù chức năng xã hội là một trong những chức năng nguyên thủy của Nhà nước, xuất hiện ngay từ khi xuất hiện nhà nước. Song đây lại là một vấn đề lý luận tương đối mới mẻ so với các nội dung khác trong lý luận về Nhà nước và pháp luật. Ở nước ta, chức năng này mới được đề cập rộng rãi trong những năm gần đây của thời kỳ đổi mới. Và trên phương diện lý luận và thực tiễn, đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về vai trò, phạm vi, nội dung, phương thức thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc đảm bảo thực hiện đúng chức năng xã hội của nhà nước trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn tiến tới xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, so nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [23, Điều 2]. Mặt khác, sự hội nhập và phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay dẫn đến việc phát sinh những vấn đề xã hội rộng rãi và phổ biến đòi hỏi Nhà nước phải quản lý và điều tiết để đảm bảo sự phát triển bền vững của nhà nước Việt Nam.

3 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM Nhà nước là hiện tượng xã hội vô cùng phức tạp, có lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển riêng của nó. Nhà nước xuất hiện và tồn tại trong lịch sử xã hội loài người với những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: Xã hội loài người hiện nay được thoát thai từ một xã hội thị tộc với ba lần phân công lao động: Lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, lần thứ hai thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, và lần thứ ba thương mại xuất hiện, trở thành một ngành kinh tế độc lập. Đồng thời với sự phân công lao động là việc xuất hiện các giai cấp đối lập nhau, luôn luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau. Do đó, tổ chức thị tộc không còn đủ khả năng điều hành xã hội, đòi hỏi phải có một tổ chức mới về chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội theo một trật tự hợp lý, tổ chức đó được gọi là nhà nước. Bên cạnh đó, nhu cầu phải chống thiên tai, bão lụt, đảm bảo sự tồn tại của con người trước thiên nhiên cũng là một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng của sự ra đời của nhà nước. Và điều đó cũng chứng minh rằng nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nẩy sinh từ xã hội”, do nhu cầu của chính con người. Nhà nước như là “một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội”, vì “không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, nhưng lại có chức năng làm dịu bớt xung đột và giữ cho những xung đột đó nằm trong một trật tự nhất định để cho sản xuất phát triển và xã hội loài người không thể đi đến chỗ diệt vong” [13, tr. 26].

4 Từ khi ra đời, nhà nước giữ một vị trí và vai trò quan trọng trong xã hội có giai cấp thể hiện trong mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, giữa nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội. Xã hội là cơ sở cho sự phát sinh, phát triển và diệt vong của nhà nước. Ngược lại, Nhà nước là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được của xã hội có giai cấp. Nhờ có nhà nước tác động toàn diện, mạnh mẽ đến đời sống xã hội và giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện những lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị và duy trì những điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Các chức năng của nhà nước được hình thành xuất phát từ nhiệm vụ duy trì sự thống trị giai cấp và duy trì sự tồn tại, phát triển của toàn xã hội. Mỗi chức năng của nhà nước thể hiện sự thống nhất về tổ chức, hình thức và biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hoạt động của nhà nước, gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước. Chức năng của nhà nước phản ánh bản chất, vai trò và vị trí của nhà nước đối với xã hội. “Chức năng của nhà nước là những phương hướng (hay phương diện, mặt hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước trong các giai đoạn phát triển cụ thể”. Chức năng xã hội là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước. Đây không phải là một khái niệm mới xuất hiện. Ph. Ăngghen không những thừa nhận chức năng xã hội của nhà nước tồn tại từ ngay khi nhà nước mới ra đời mà còn khẳng định chức năng xã hội trong nhiều trường hợp còn nổi bật hơn chức năng chuyên chính giai cấp: Nhà nước mà những nhóm tự nhiên gồm các công xã trong cùng một bộ lạc đã đi đến chỗ thiết lập ra trong quá trình tiến triển của họ (như việc tưới nước ở phương Đông)… Trên cơ sở phân hóa xã hội, yêu cầu tổ chức công trình tưới nước và yêu cầu đấu tranh tự vệ làm cho nhiều nhà nước phương Đông ban đầu vốn là chức năng chung của xã hội, tiêu biểu cho lợi ích chung của cộng đồng rồi dần dần chuyển sang địa vị đối lập với xã hội, trở thành chức năng của nhà nước đối với xã hội [1].

5 Trong nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến, chức năng xã hội mang nặng màu sắc giai cấp, đẳng cấp. Nhà nước bảo vệ lợi ích của giai cấp, của nhóm xã hội trên cơ sở địa vị của giai cấp, nhóm xã hội đó trong cơ cấu xã hội. Sự phân biệt đối xử, sự bất bình đẳng đó được pháp luật ghi nhận công khai. Ngoài trách nhiệm của nhà nước trong bảo vệ trật tự an toàn xã hội và các công việc chung khác trong lĩnh vực xã hội, hoạt động của nhà nước hầu hết được nhận thức như là những hành vi mang tính chất ban ơn, ân huệ, từ thiện, thường được gọi là những chính sách an dân. Khi nhà nước tư sản ra đời, vị trí cá nhân của con người được chú trọng trên mọi phương diện so với các chế độ xã hội trước đó, quyền con người, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật đã được công nhận về mặt pháp lý nên tính xã hội và chức năng xã hội của Nhà nước tư sản rõ nét hơn. Trong những năm gần đây, chức năng xã hội chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của nhà nước tư sản. Nhà nước tư sản giải quyết các vấn đề xã hội chủ yếu thông qua hệ thống trợ cấp xã hội, thông qua việc can thiệp vào các quá trình kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội chủ yếu thông qua hệ thống trợ cấp xã hội, thông qua việc can thiệp vào các quá trình kinh tế để giải quyết các khía cạnh xã hội như tạo công ăn việc làm, điều tiết thu nhập, bảo hộ người tiêu dùng… Nguyên nhân cơ bản của sự thay đổi này là do phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, do mâu thuẫn xã hội gay gắt và do mục đích của giai cấp tư sản muốn thu hút lực lượng đáng kể chống lại chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác với kiểu nhà nước bóc lột (phong kiến, tư sản), là nhà nước của đại đa số dân cư trong xã hội và thực thi quyền lực vì quyền lợi và lợi ích trước hết của giai cấp công nhân và nhân lao động. Đề cập đến chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi chú trọng đến chức năng giai cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất của nó. Nói về vấn đề này, V.I. Lênin cho rằng, chuyên chính

6 vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực, mà mặt cơ bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân cùng với việc tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ông viết: “Lần đầu tiên chuyên chính vô sản, tức là thời kỳ quá độ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột”. Như vậy, có thể nói, bản thân chuyên chính vô sản, theo quan điểm mácxít, tự nó đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội không còn các giai cấp đối kháng, nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện hai chức năng cơ bản, nhưng cơ chế và mục đích thực hiện hai chức năng đó đã có sự thay đổi căn bản. Cũng như mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa muốn thực hiện được chức năng giai cấp của mình, trước hết phải làm tốt chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có nghĩa là, chức năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia. Tuy nhiên, trong điều kiện giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và thiết lập được nhà nước của mình, thì chức năng giai cấp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; còn chức năng xã hội (mà trong đó, việc tổ chức xây dựng xã hội mới là chủ yếu) là nhiệm vụ cơ bản, quyết định trực tiếp sự thắng lợi hay thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khác nhau căn bản giữa việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản chủ nghĩa là ở chỗ, nhà nước tư bản chủ nghĩa thực hiện chức năng xã hội không phải với tư

7 cách là mục đích, mà là phương tiện để củng cố, đảm bảo sự thống trị chính trị và kinh tế của thiểu số trong xã hội là giai cấp tư sản đối với đa số là giai cấp công nhân và những người lao động khác. Theo đó, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư bản chủ nghĩa luôn bị giới hạn trong một phạm vi chật hẹp và bị chi phối bởi quan điểm của giai cấp tư sản, xuất phát từ những lợi ích kinh tế và chính trị ích kỷ của một thiểu số dân cư trong xã hội. Ngược lại, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa được xác định là mục đích chứ không phải là phương tiện để nhà nước ấy đảm bảo sự thống trị chính trị của nó. Chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho đại đa số những người lao động, xây dựng những thiết chế, cơ sở để quyền làm chủ đó được thực hiện một cách thực sự trong thực tế. Trong các chế độ xã hội khác nhau, xuất phát từ bản chất xã hội và vai trò xã hội của nhà nước, tất cả các nhà nước đều đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện và quản lý những công việc chung nảy sinh từ sự tồn tại, phát triển của toàn bộ cộng đồng, cải thiện chất lượng của cuộc sống cho người dân nên bất kì một nhà nước nào cũng thực hiện chức năng xã hội. Tuy nhiên, do sự khác biệt về bản chất nhà nước, về điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi nhà nước mà chức năng xã hội của mỗi nhà nước có thể có những nội dung, phương thức thực hiện khác nhau và luôn thay đổi tương ứng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội, tương ứng với vai trò của Nhà nước trong việc tác động vào các quá trình xã hội. Chức năng xã hội của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước thể hiện bản chất chính trị – xã hội của nhà nước trong việc thực hiện các trách nhiệm, nhiệm vụ xã hội ở các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Chức năng xã hội của nhà nước Việt Nam có vai trò to lớn trong việc khẳng định bản chất, uy tín của nhà nước, tính nhân đạo, tính ưu việt và mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa. Chức

8 năng xã hội của nhà nước ta chịu sự chi phối của các yếu tố như chính trị, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, truyền thống văn hóa, đạo đức, tâm lý dân tộc… Chức năng xã hội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay khác với chức năng xã hội của các nhà nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới và cũng khác với chức năng xã hội của nhà nước ta trong các giai đoạn trước đây. Về lý luận chung, chức năng xã hội thể hiện bản chất (tính xã hội Nhà nước) và ngược lại bản chất của nhà nước được thể hiện thông qua các chức năng của nhà nước, được cụ thể hóa và thực hiện trong nhiều mặt hoạt động của nhà nước. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, một nhà nước sẽ không thể tồn tại nếu nó chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích của các tầng lớp khác trong xã hội. Vì vậy, ngoài tư cách là bộ máy nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp này với giai cấp khác, nhà nước là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn bao gồm mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, là phương tiện tổ chức bảo đảm lợi ích chung của xã hội. Bất kì một nhà nước nào, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết mọi vấn đề nảy sinh trong xã hội, duy trì trật tự an toàn xã hội, ổn định và phát triển, thực hiện hoạt động này hay hoạt động khác phù hợp với yêu cầu của xã hội. Nhà nước còn giải quyết các công việc mang tính xã hội chung mà cá nhân, công dân không thể giải quyết được như xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường… Tất cả các nhà nước đều thực hiện chức năng xã hội, nhưng do sự khác biệt về bản chất nhà nước, về điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi nhà nước mà chức năng xã hội của nhà nước được thực hiện khác nhau. Trong nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến, do bản chất nhà nước của hai hình thức nhà nước này là công cụ bạo lực để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp chủ nô và giai cấp địa chủ phong kiến, duy trì địa vị kinh tế của

9 hai giai cấp này nhằm thực hiện sự thống trị đối với toàn xã hội, cho nên chức năng xã hội của hai hình thức nhà nước này mang nặng màu sắc giai cấp, đẳng cấp. Nhà nước chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp, của nhóm xã hội thuộc giai cấp thống trị. Chức năng xã hội thể hiện mờ nhạt vì các nhà nước này tập trung vào chức năng chính trị như chức năng bảo vệ và củng cố chế độ sở hữu, chức năng đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị trị bằng bạo lực, chức năng thống trị về tư tưởng, chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và phòng thủ chống xâm lược… Chức năng xã hội của nhà nước trong những hình thức nhà nước này được thể hiện như một hình thức ban ơn, ân huệ, từ thiện. thường được gọi là những chính sách an dân. Trong nhà nước tư sản, chức năng xã hội được thể hiện rõ nét hơn, nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, thất nghiệp, dân số, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, vấn đề bảo trợ xã hội cho người già hoặc thất nghiệp, các tệ nạn xã hội. Tuy nhiên, bản chất của nhà nước tư sản vẫn là công cụ thống trị giai cấp của giai cấp tư sản, việc nhà nước tư sản thể hiện rõ chức năng xã hội của nhà nước nhằm xoa dịu mâu thuẫn gay gắt trong xã hội và do mục đích của giai cấp tư sản muốn thu hút lực lượng để chống lại chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất là nhà nước của đại đa số cư dân trong xã hội. Điều 2 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức” [23], thể hiện rõ bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân: Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau như thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình, kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước… Nhà nước Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết dân tộc anh em, được tổ chức và hoạt động trên cơ sở bình đẳng trong các mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.

10 Nhà nước thể hiện tính dân chủ rộng rãi, một mặt tạo điều kiện thuận lợi về chính trị, pháp lý, kinh tế để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế quốc dân, mặt khác quan tâm mạnh mẽ đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, quan tâm phát triển văn hóa giáo dục, bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tôn trọng các giá trị con người. Bên cạnh đó, bản chất của nhà nước còn được thể hiện ở chính sách đối ngoại thể hiện khát vọng hòa bình, mong muốn hợp tác trên tinh thần hữu nghị, cùng có lợi với tất cả các quốc gia trên thế giới. Chức năng xã hội của nhà nước thể hiện tính quyền lực và tính dân chủ của nhà nước. Chức năng xã hội là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước, là phương diện hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xã hội, là một trong những hình thức thể hiện quyền lực nhà nước, luôn gắn liền với cơ cấu quyền lực nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong bất kì xã hội có giai cấp nào, quyền lực nhà nước cũng vẫn là quyền lực của giai cấp thống trị, là công cụ chuyên chính của một giai cấp, thể hiện trên ba phương diện: thống trị về chính trị, về kinh tế và về tư tưởng đồng thời duy trì những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội. Việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước cũng là một trong những hình thức thể hiện tính quyền lực của nhà nước. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước dân chủ, tức là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực thông qua các cơ quan đại diện, thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định chính sách đường lối của Đảng và nhà nước, cũng như vào các hoạt động quản lý điều hành. Bên cạnh đó nhân dân tham gia công việc của nhà nước và xã hội ở cơ sở trong các hoạt động đa dạng nhằm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng. Nhân dân ta, người chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên nhà nước của mình, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định chính sách

11 đường lối của Đảng và nhà nước, cũng như các hoạt động lập pháp, hoạt động quản lý điều hành, công tác xét xử và các hoạt động bảo vệ pháp luật. Điều 53 của Hiến pháp đã ghi nhận: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội…”. Ở những mức độ khác nhau, nhân dân có thể tác động một cách tích cực vào quá trình thực hiện quyền lực của nhà nước. Hiến pháp và pháp luật của nhà nước ta đã có nhiều quy định cụ thể để hiện thực hóa khả năng đó. Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác, khuyến khích phát triển các hình thức hoạt động văn học, nghệ thuật. Đó là kênh cực kỳ quan trọng để qua đó nhân dân góp tiếng nói của mình vào quá trình hoạch định đường lối của Đảng, xây dựng chính sách và pháp luật của nhà nước. Đảng và Nhà nước đã tạo ra mọi điều kiện để công dân có thể sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền khiếu nại, quyền tố cáo vơi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại. tố cáo được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định, Chính phủ thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. Hiến pháp cũng quy định trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương… Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước dân chủ, quyền lực thuộc về nhân dân nhưng để thực hiện được dân chủ thực sự, phải thu hút được các tầng lớp lao động tham gia một cách rộng rãi và thật sự bình đẳng vào quản lý công việc nhà nước và xã hội. Trên phương diện pháp lý, trình độ dân chủ thể hiện ở chỗ pháp luật ghi nhận và bảo đảm các quyền dân chủ cho công dân được thực hiện như thế nào, là sự thể hiện của việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Trong xã hội dân chủ, hoạt động của nhà nước chỉ thể hiện trong những “khoảng hợp pháp” chứ không phải bao trùm

12 lên toàn bộ đời sống xã hội. Chủ trương xã hội hóa trong việc thực hiện các chức năng cua nhà nước trong đó có chức năng xã hội hiện nay là một biểu hiện rõ nét của chế độ dân chủ. Chức năng xã hội của nhà nước tồn tại một cách tất yếu khách quan, bắt nguồn từ bản chất và thể hiện bản chất chung của nhà nước, trong đó chức năng giai cấp giữ vai trò định hướng, chi phối chức năng xã hội và chức năng xã hội là điều kiện, cơ sở xã hội để thực hiện chức năng giai cấp. Chức năng xã hội của nhà nước có nội dung khác nhau ở mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Ngay từ khi xuất hiện, nhà nước thể hiện vai trò trên hai phương diện cơ bản là công cụ bảo vệ giai cấp và quản lý những công việc chung của xã hội, tức là thực hiện hai chức năng: chức năng thống trị giai cấp và chức năng xã hội. Cuộc sống xã hội bao gồm rất nhiều lĩnh vực vận động. Các lĩnh vực đều cần có sự tác động của nhà nước – sự tác động được thực hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau. Mỗi lĩnh vực ấy có những quy luật vận động đặc thù, do vậy đòi hỏi ở nhà nước một sự tác động cũng đặc thù, phù hợp với từng đặc điểm của từng lĩnh vực. 1.2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM Chức năng xã hội của nước ta là một trong những chức năng cơ bản và nhất quán trong toàn bộ lịch sử phát triển của nhà nước Việt Nam. Ở Việt Nam, con đường hình thành nhà nước diễn ra có sự khác biệt. Theo tư liệu lịch sử, đặc biệt là về mức độ chênh lệch tài sản trong mộ táng, thì sự phân hóa giai cấp trong xã hội chưa sâu sắc, chưa dẫn đến mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Nhưng sở dĩ nhà nước vẫn được hình thành vì có hai yếu tố đặc biệt và quan trọng thúc đẩy, đó là: công cuộc chống ngoại xâm và công cuộc trị thủy – thủy lợi. Trải qua thời kỳ phát triển lâu dài, sự phát triển của sức sản xuất tạo ra sản phẩm dư thừa. Mặt khác, do nhu cầu bức thiết và sống còn của công cuộc trị thủy thủy lợi và chống giặc ngoại xâm,

13 Hùng Vương vốn là tù trưởng một bộ lạc đã đứng ra thống nhất các bộ lạc khác và trở thành thủ lĩnh của liên minh bộ lạc, trở thành người chỉ huy quân sự tối cao và người điều hành cao nhất trong công cuộc trị thủy – thủy lợi. Lợi dụng uy tín và địa vị đó, Hùng Vương và các con cháu của mình, dần dần theo cách nói của Ph Angghen, từ việc đảm nhận “chức năng xã hội” tiêu biểu cho lợi ích chung đã chuyển sang “địa vị độc lập với xã hội” và vươn lên thống trị xã hội, biến thành ông vua cùng bộ máy cai trị giúp việc của mình. Trải qua các giai đoạn chính quyền đô hộ nghìn năm của phong kiến Trung Quốc, thế kỷ thứ X đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, kết thúc thời kì thống trị hà khắc và nguy hiểm của phong kiến nước ngoài, giành độc lập dân tộc. Nhà nước đầu tiên, và nhà nước hầu hết qua các triều đại, chính quyền nhà nước đều phải đứng ra đảm nhận vai trò tổ chức toàn thể dân tộc chống giặc ngoại xâm và vai trò trị thủy và thủy lợi. Chức năng xã hội của nhà nước được hình thành từ khi xuất hiện nhà nước và duy trì trong suốt quá trình phát triển của mình. Trong suốt thời kỳ bị thực dân Pháp thống trị, dân tộc ta đã liên tục đấu tranh quật khởi giành độc lập dân tộc. Và ngay từ những ngày đầu mới thành lập, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ đã tập trung giải quyết ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Mặc dù, đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh với bao khó khăn chồng chất, nhưng ở các địa phương, chính quyền cách mạng đã từng bước mang lại quyền lợi cho nhân dân như giảm tô, giảm tức, bảo vệ an ninh trật tự xã hội. Đặc biệt là việc kịp thời tiến hành cải cách ruộng đất để “người cày có ruộng”, thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân pháp, đế quốc xâm lược khác và của địa chủ Việt Nam. Nhà nước chú trọng việc xây dựng các văn bản pháp luật quy định và đảm bảo các quyền tư do dân chủ của công dân Việt Nam như: Sắc lệnh ngày 8/9/1945 về quyền bầu cử; Sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 về tổng tuyển cử; Sắc lệnh ngày 29/03/46 về quyền tự do báo chí; Sắc lệnh ngày 22/4/1946 về quyền tự do hội họp. Và đặc biệt là Hiến pháp 1946 được Quốc

14 hội thông qua ngày 9/11/1946 với 1 chương ghi nhận và đảm bảo những quyền cơ bản của công dân. Trong giai đoạn này bên cạnh việc ghi nhận các quyền tự do cơ bản của công dân, Đảng và Nhà nước ta còn ý thức tầm quan trọng của giáo dục đào tạo, xác định con người luôn vừa là động lực vừa là mục đích của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu và khẳng định ba nhiệm vụ lớn của chính quyền: là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Và người đã ký 3 sắc lệnh: Sắc lệnh số 17 thành lập bình dân học vụ, Sắc lệnh số 19 cho phép lập lớp bình dân học vụ vào buổi tối cho người nông dân và thợ thuyền, Sắc lệnh số 20 quy định việc học chữ quốc ngữ là bắt buộc và không mất tiền. Nhiều lớp học, trường học ở các cấp học đã được mở ra, hệ thống giáo dục mới của nước ta được bắt đầu hình thành. Để tránh giặc đói, nhà nước đã thủ tiêu những luật lệ hạn chế việc chuyên chở thóc gạo cho Pháp, Nhật đặt ra trước đây và thay bằng một loạt quyết định mới, tìm mọi biện khôi phục và phát triển sản xuất bằng việc bãi bỏ những thể lệ kìm hãm sản xuất công thương và lưu thông hàng hóa, cải cách chế độ thuế thóc, bãi bỏ các thứ thuế nô dịch, bất công giảm gánh nặng cho dân chúng. Trong giai đoạn 1954 – 1975, mặc dù đất nước tồn tại song song hai chính quyền cách mạng với hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau: miền Nam đấu tranh giành và xây dựng chính quyền cách mạng, bên cạnh đó Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam còn đề ra và thực hiện những nhiệm vụ cụ thể, trong đó có nhiệm vụ: xây dựng nền văn hóa giáo dục dân tộc và tiến bộ, xóa nạn mù chữ, mở rộng trường học, cải cách chế độ học tập và thi cử, thực hiện nam nữ bình quyền, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ… còn miền Bắc xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khôi phục kinh tế, cải cách xã hội chủ nghĩa, đấu tranh thi hành Hiệp định Gienevơ, thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm, vừa xây dựng kinh tế vừa đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc

15 bằng không quân của đế quốc Mỹ, đấu tranh ngoại giao và ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam, chi viện kịp thời và to lớn cho cách mạng miền Nam. Nhìn chung trong giai đoạn 1954 – 1975, chức năng xã hội của nhà nước đều được thực hiện trên cơ sở nền kinh tế lạc hậu, phụ thuộc vào sự viện trợ từ bên ngoài. Đất nước trong giai đoạn chiến tranh bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, song Nhà nước ta vẫn xây dựng một hậu phương vững chắc, động viên cao độ sức người, sức của cho tiền tuyến, quyết tâm giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Chức năng xã hội của nhà nước trong giai đoạn này chưa được bộc lộ rõ so với chức năng chuyên chính giai cấp và chức năng kinh tế, và việc thực hiện chức năng xã hội trong giai đoạn này phần lớn nhờ vào việc thực hiện chức năng khác của nhà nước và chủ yếu là chức năng kinh tế. Trong giai đoạn 1976 – 1986, đất nước hòa bình, thống nhất và bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, nhưng do mắc phải những sai lầm chủ quan duy ý chí, ấu trĩ tả khuynh, duy trì quá lâu cơ chế quản lý cũ dẫn đến nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) là mốc quan trọng dẫn đến sự chuyển đổi trong nhận thức và tư duy của Đảng: Xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, là cơ sở cho việc đổi mới từng bước hệ thống chính trị. Chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị phải được đổi mới từng bước vững chắc, giữ vững ổn định chính trị tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới kinh tế. Cơ sở lý luận của công cuộc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, chức năng xã hội của nhà nước được thực hiện phiến diện. Các đối tượng được hưởng các chế độ bảo đảm và dịch vụ công chủ yếu là người lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp, trong các cơ quan và đơn vị kinh tế nhà nước. Với nguyên tắc thực

16 hiện phân phối công bằng, trực tiếp, trên cơ sở các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể thậm chí nhà nước xác định cụ thể tới những nhu cầu tối thiểu của từng cá nhân về ăn, ở, mặc, chăm sóc sức khỏe… Tất cả được thực hiện với nguồn kinh phí của nhà nước, tất cả đều dựa vào nhà nước. Với nên kinh tế thị trường, ngoài việc thực hiện các chế độ đối với những đối tượng trên, Nhà nước đã thực sự quan tâm đến tầng lớp nhân dân khác, đặc biệt là nông dân, nông thôn và những vùng đặc biệt khó khăn. Đảm bảo đời sống tối thiểu cho mọi thành phần dân cư trong xã hội bằng cách tạo mọi điều kiện, cơ hội để mọi thành viên trong xã hội cùng phát triển theo khả năng của mình, bảo đảm cho mọi người sống trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh, mọi người đều được quan tâm chăm sóc, thụ hưởng các phúc lợi về giáo dục, y tế, văn hóa… Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, việc xây dựng một nhà nước thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân (theo Hiến pháp năm 1992) là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Điều này lại một lần nữa khẳng định bản chất giai cấp và chức năng giai cấp của nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân vẫn được giữ vững, đồng thời chức năng xã hội, bản chất xã hội của nhà nước được xác định một cách rõ ràng hơn. Chức năng xã hội của nhà nước trong giai đoạn này có sự thay đổi về nội dung và phương thức thực hiện, xuất hiện từ yêu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội nhằm đáp ứng đòi hỏi của chính sự vận động và phát triển của xã hội. Từ sự thay đổi cơ chế kinh tế, hàng loạt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình kinh tế như: việc làm, thu nhập, văn hóa, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội… đòi hỏi phải có sự kiểm soát từ phía nhà nước. Dân chủ trong kinh tế đòi hỏi dân chủ trong lĩnh vực xã hội phải được phát huy, nhân dân ngày càng tham gia tích cực vào việc giải quyết các công việc nhà nước, công việc xã hội. Vị trí và vai trò của nhà nước chuyển dần từ vai trò “một người bảo trợ” chung cho toàn xã hội chuyển sang thành “người cầm lái”, khởi xướng và tổ chức các hoạt động xã hội, là chủ thể hoạch định và thực thi các chính sách xã hội. Một

18 có công, người được hưởng chính sách xã hội, phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp lý, tạo động lực phát triển mạnh, góp phần phòng, chống tiêu cực, tệ nạn xã hội. Nhà nước xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, giải quyết việc làm, chăm sóc sức khỏe, văn hóa, thông tin, thể thao… Những tiền đề cơ bản của công cuộc đổi mới và những chuyển biến tích cực của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng công quyền và chức năng xã hội theo cơ chế mới, ngày càng thích ứng với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay không thể tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã làm cho công việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước tiến những bước quan trọng. 1.3. VAI TRÒ VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA CHỨC NĂNG XÃ HỘI VỚI CÁC CHỨC NĂNG KHÁC CỦA NHÀ NƢỚC Chức năng xã hội là chức năng cơ bản của nhà nước, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung đồng thời phải chăm lo một số việc chung của toàn xã hội. Ph. Ăngghen đã viết: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị cũng chí kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó”. Cũng như mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa muốn thực hiện chức năng giai cấp của mình trước hết phải làm tốt chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, điều kiện tiên quyết để nhà nước đảm bảo và giữ vững địa vị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch.

19 Chức năng xã hội thể hiện bản chất của nhà nước, là cơ sở để xác định và đánh giá bản chất nhà nước: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức” [23, Điều 2]. Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của toàn thể nhân dân, nhân dân thiết lập nên nhà nước bằng quyền bầu cử, sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực và thông qua hình thức giám sát, kiểm tra, khiếu kiện các quyết định của nhà nước làm thiệt hại đến quyền lợi của họ hoặc tham gia góp ý kiến vào các dự án, chính sách, pháp luật. Bản chất của nhà nước ta còn được thể hiện ở khối đại đoàn kết dân tộc, tính dân tộc được phát huy nhờ kết hợp tính giai cấp, nhân dân và tính thời đại. Nhà nước thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Nhà nước quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng phát triển giáo dục, y tế, văn hóa…, các chính sách xã hội thể hiện tinh thần nhân đạo. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Công dân có đầy đủ quyền tự do dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đồng thời công dân cũng tự giác thực hiện mọi nghĩa vụ trước nhà nước. Về phần mình, nhà nước cũng tôn trọng các quyền tự do dân chủ của công dân và ghi nhận đả bảo cho các quyền đó được thực hiện đầy đủ. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa còn được thực hiện qua các chính sách đối ngoại của nhà nước thể hiện khát vọng hòa bình, hữu nghị “Việt Nam mong muốn được làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Việc nhà nước thực hiện chức năng đối ngoại đúng đắn sẽ đảm bảo cho nhân dân quyền được sống trong môi trường chính trị ổn định, không có bạo lực và đảm bảo quyền được giao lưu học hỏi với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chức năng của nhà nước thể hiện vai trò của nhà nước trong việc cung cấp các hàng hóa công cộng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Nhà

20 nước có thể tập trung cung cấp những hàng hóa công thuần túy như: quyền sở hữu tài sản, sư ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát những căn bệnh truyền nhiễm, nước sạch, đường sá và bảo vệ người nghèo. Hay nhà nước có thể tiến hành quản lý những tác động nhằm giảm ô nhiễm môi trường, điều tiết thị trường chống độc quyền và cung cấp các chính sách bảo hiểm xã hội… Chức năng xã hội của nhà nước góp phần khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh. Hơn thế nữa, quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tiễn hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới vừa qua cho thấy, bên cạnh tác động tích cực là cơ bản, những tác động tiêu cực do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt trên phương diện tư tưởng, đạo đức, lối sống. Chúng ta mới áp dụng cơ chế thị trường chưa được bao nhiêu, song bên cạnh những thành tựu, chúng ta đã phải trả giá không nhỏ cho những hiện tượng tiêu cực, như do cách làm ăn thuần túy chạy theo lợi nhuận đã dẫn đen các hình thức lừa đảo hối lộ, trốn thuế, nợ nần khó trả, do thương mại hóa một cách tràn lan, xâm nhập cả vào các lĩnh vực dễ thương tổn như y tế, giáo dục, văn hóa đã làm cho các giá trị đạo đức, tinh thần bị băng hoại và xuống cấp, đồng tiền đã chi phối nhiều quan hệ giữa người với người, sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng lên, lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng Do đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định nền kinh tế thị trường mà chúng ta cần xây dựng là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế đó là: “Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hưu, quản lý và phân phối” [9].

21 Về sở hữu, tồn tại sở hữu toàn dân, tập thể và sở hữu tư nhân. Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trực tiếp hay thông qua khâu trung gian nhất định tham gia vào quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch phát triển của đất nước. Và trên lĩnh vực phân phối nhà nước ưu tiên phân phối theo lao động và phúc lợi xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh té với việc thực hiện công bằng xã hội, hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa… Chức năng xã hội của nhà nước mang lại sự ổn định về mặt xã hội. Việc đảm bảo phúc lợi xã hội ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế tiến bộ, nhà nước đảm bảo sự công bằng trong xã hội (địa vị pháp lý ngang nhau thụ hưởng ngang nhau, lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau, đóng góp, cống hiến cả về vật chất và tinh thần cả trong quá khứ và hiện tại ngang nhau cho sự phát triển của đất nước thì được hưởng ngang nhau… Với việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước, đảm bảo cho mọi người dân được sống trong một xã hội công bằng, bình đẳng và bác ái sẽ tạo ra sự đồng thuận lớn trong mọi tầng lớp nhân dân. Và thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nhà nước lại cung cấp cho thị trường một nguồn lao động chất lượng, là nguồn lao động chính tạo ra năng suất lao động cao và lực lượng các cán bộ quản lý doanh nghiệp cho mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình kinh tế. Chức năng xã hội mang lại sự ổn định về mặt xã hội, là tiền đề cho việc thực hiện các chức năng nhà nước khác như chức năng chính trị và chức năng kinh tế, và ngược lại các chức năng này là điều kiện đảm bảo để thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản đồng thời cũng là mục tiêu của chức năng chính trị của nhà nước ta là bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam và kiều bào ở nước ngoài, trấn áp sự chống phá của các thế lực thù

Chức Năng Tổ Chức, Quản Lí Của Nhà Nước Xhcn Trong Lĩnh Vực Kinh Tế Của Nước Cộng Hòa Xhcn Việt Nam

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368ĐẶT VẤN ĐỀCuối thế kỉ XX, trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế – xã hội, các nước XHCN đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Dù với phương thức chuyển đổi khác nha, những bước đi và mức độ thành công khác nhau nhưng thực tế cho thấy những kết quả tốt hơn so với trước khi chuyển đổi. Đó là sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, phục hồi và bước đầu tăng trưởng kinh tế; các thể chế của nền kinh tế thị trường đã dần dần hình tha nhà và phát huy tác dụng tích cực song song với việc chuyển đổi hệ thống pháp luật và thiết chế Nhà nước; từ nội dung đén phương thức quản lí kinh tế ở các nước đã được chuyển đổi. Tuy không phải tất cả các nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạchhóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều giữ định hướng XHCN nhưng từ thực tiễn của công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị truờng ở một số nước, có thể rút ra được những vấn đề chung như sau:Một là không thể có một mô thức đồng nhất và giản đơn cho mọi nước trong chuyển đổi. Hai là Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng và tích cực trong quá trình cải cách chuyển đổi. Có thể khẳng định rằng chất lượng của chính sách Nhà nước cũng như sự điều tiết có hiệu quả của Nhà nước mới có ý nghĩa quyết định sự thành công của công cuộc chuyển đổi (Xem: Nguyễn Minh Tú, Về mô hình chuyển đổi kinh tế của một số nước và định hướng vận dụng ở VIệt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia,h.1997,tr.24, 49-50). Ba là quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đòi

lĩnh vực thuộc đời sống xã hội trong nước hoặc thuộc quan hệ với các quốc gia bên ngoài.Các phương hướng hoạt động cơ bản của nhà nước trong khoa học pháp lí được gọi là các chức năng của nhà nước .Chức năng của Nhà nước thể hiện các yêu cầu của đời sống xã hội với Nhà nước, thể hiện năng lực thực tế, những giới hạn hợp pháp của hoạt động Nhà nước. Chức năng của Nhà nước nói chung là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với xã hội.Nếu quan niệm đời sống xã hội tồn tại những lĩnh vực khác nhau thì chức năng của Nhà nước cũng được phân chia thành các chức năng khác nhau. Trên cơ sở sự phân chia đời sống xã hội thành hai lĩnh vực lớn là chính trị, kinh tế-xã hội, ta có thể nhận thức chức năng kinh tế của Nhà nước nói chung là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế. Như vậy, từ phạm trù chức năng của Nhà nước với ý nghĩa là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với đời sống xã hội, có thể hình thành trên phạm trù chức năng kinh tế của Nhà nước nói chung như là bộ phận của khái niệm chức 3Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368năng Nhà nước.Chức năng kinh tế của Nhà nước cũng là thể thống nhất giữa các dấu hiệu phản ánh nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế, năng lực thực tế của bộ máy nhà nước và phạm vi hoạt động hợp pháp của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế.Tổ chức quản lí kinh tế là chức năng có tầm quan trọng đặc biệt của bất kì Nhà nước XHCN nào. Nội dung của chức năng tổ chức và quản lí kinh tế của Nhà nước XHCN rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cần giải quyết, trong đó công tác kế hoạch hóa, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN và cơ chế quản lí là những vấn đề then chốt.Vậy chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương hướng (hay phương diện, mặt) hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ của nhà nước trong sự nghiệp xây dựng XHCN.Vai trò của nhà nước rất quan trọng và không thể thiếu vắng trong mỗi mô hình kinh tế nhưng vấn đề đặt ra ở đây là những cơ sở lí luận và thực tiễn về vai trò kinh tế của Nhà nước trong bước chuyển từ nền kinh tế hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam cần phải được làm sáng tỏ từ mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế thông qua phạm trù chức năng kinh tế của Nhà nước XHCN. Chức năng kinh tế của nhà nước XHCN nói chung là hoạt động của nhà nước thể hiện vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế xã hội .Chúng ta có thể khái quát những vấn đề thuộc về lí luận chức năng kinh tế của nhà nước XHCN Việt Nam thành những điểm nhận xét sau:1. Lịch sử kinh tế cũng như lịch sử nhà nước ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam qua những thời địa với những mô hình kinh tế khác nhau là lịch sử xác định vai trò kinh tế của nhà nước đồng thời cũng là lịch sử tìm kiếm sự tối ưu trong các chính sách kinh tế của nhà nước .Dựa trên cơ sở kinh tế chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhà nước XHCN có chức năng quản lí nền kinh tế một cách có kế hoạch và chức năng này đã từng được coi là chức năng đặc thù của nhà nước XHCN. Tuy nhiên, trong thời kì quá độ, với những bước quanh co của lịch sử, 4Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368CNXH hiện thực đang phải chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .Trong điều kiện đó thì vai trò kinh tế của nhà nước XHCN nói chung và của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa VIệt Nam nói riêng không giảm đi so với cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung mà ngược lại càng phải được tăng cường nhưng theo những nội dung và phương thức mới.2. Vai trò kinh tế của nhà nước thể hiện tập trung mối quan hệ biện chứng giữa nhà nước vói kinh tế và đó là cơ sở trực tiếp xác định chức năng kinh tế của nhà nước.Xuất phát từ phạm trù chức năng của Nhà nước-phạm trù biểu đạt vai trò của nhà nước đối với xã hội thể hiện qua hoạt động của bộ máy nhà nước.Chức năng kinh tế của Nhà nước được nhận thức là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế phù hợp với mô hình kinh tế tương ứng.3. Với những phạm vi giới hạn nhất định, chức năng kinh tế của Nhà nước có mối quan hệ biện chứng với các chức năng khác trong hệ thống các chức năng của Nhà nước .Tính đặc thù trong hức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở phạm vi vĩ mô.4. Chức năng kinh tế của nhà nước đươc giới hạn bởi hệ thống pháp luật.Nhà nước không thể quản lí kinh tế nếu không có hệ thống pháp luật, ngược lại pháp luật kinh tế không thể tồn tại và phát huy vai trò, tác dụng nếu không có hoạt động của bộ máy Nhà nước .5. Cả lí luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng không có công thức chung để áp dụng cho mọi nhà nước và mọi nền kinh tế trên thế giới nên vấn đề đặt ra ở đây là cần tiếp tục nghiên cứu chức năng kinh tế của Nhà nước theo những nội dung và phương thức thực hiện cụ thể.2. Vai trò kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamSự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là quá trình đổi mới về thể chế và thiết chế 5Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368nhà nước, thể hiện ở sự thay đổi căn bản về vai trò kinh tế của Nhà nước. Đặc trưng của mô hình kinh tế ấy đã quy định những vai trò kinh tế tương ứng của Nhà nước Việt Nam. Nền kinh tế quốc dân của Việt Nam ngày nay là nền sản xuất hàng hóa có nhiều thành phần tham gia theo cơ chế thị trường.Trong cơ chế thị trường, trên nguyên tắc tự do kinh doanh, các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh độc lập về tài sản, nhân danh chính mình tham gia vào các quan hệ kinh tế một cách bình đẳng theo nguyên tắc tự định đoạt. Mặt khác, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.Việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không chỉ nhằm mục đích đơn thuần về tăng trưởng kinh tế mà phải lấy sự tăng trưởng kinh tế làm cơ sở, làm điều kiện để phát triển hài hòa, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của xã hội, phát triển con người toàn diện.Những đặc điểm trên đã quyết định sự thay đổi vai trò kinh tế của Nhà nước khi chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong cơ chế kinh tế hóa tập trung, Nhà nước đóng vai trò lãnh đạo thống nhất toàn bộ nền kinh tế quốc dân đồng thời cũng vừa là người điều hành, tổ chức các hoạt động kinh tế. Còn trong nền kinh tế thị trường, yêu cầu đặt ra là phải xác định rõ tư cách của Nhà nước là người quản lí nền kinh tế quốc dân trên tầm vĩ mô.Hoạt động kinh tế và quản lí sản xuất kinh doanh là quyền của chủ thể hoạt động kinh tế. Nhà nước tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế với tư cách là cơ quan công quyền mà không can thiệp một cách trực tiếp vào các quan hệ thị trường.Phạm vi và nội dung hoạt động thể hiện vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã có những thay đổi cơ bản. Xét trên tổng thể, Nhà nước quản lí kinh tế chính là nhà nước trực tiếp tổ chức hoạt động kinh tế trên các lĩnh vực khác nhauTrong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đặc trưng vai trò kinh tế của Nhà nước được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:6Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368– Nhà nước bằng pháp luật quy định tư cách chủ thể, tạo ra khung pháp lí cho các hoạt động kinh tế;– Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi về quốc phòng, an ninh, chính trị, xã hội, ngoại giao cho hoạt động kinh tế;– Nhà nước bằng pháp luật ngăn ngừa và phòn chống các yếu tố phản thị trường, phản kinh doanh; duy trì trật tự kinh tế, giữ gìn văn hóa, bản sắc dân tộc trong phát triển nền kinh tế-xã hội;– Nhà nước bằng pháp luật định ra các phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh tế và thực thi sứ mạng đảm bảo trật tự kinh tế;– Nhà nước thông qua các công cụ như chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng… tác động đến nền kinh tế nhằm kiểm soát và hạn chế hậu quả trong các biến động bất lợi của thị trường;– Nhà nước thông qua kinh té nhà nước đảm bảo tính hiệu quả, tính ổn định của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo phúc lợi chung cho toàn xã hội;– Nhà nước bằng pháp luật đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội, đảm bảo sử dụng khai thác hợp lí các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi sinh;– Nhà nước đóng vai trò là người mở đường và bảo trợ cho nền kinh tế đất nước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò kinh tế ủa nhà nước Việt Nam và vai trò của htị trường không loại trừ mà bổ sung cho nhau trong mối liên hệ biện chứng giữa quy luật kinh tế khách quan và sự vận dụng các quy luật đó thông qua hoạt động quản lí nhà nước. Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò của Nhà nước được xác định từ chính những yêu cầu nội tại của nền kinh tế thể hiện sự phân công phối hợp vai trò cảu các yếu tố trong hệ thống hoàn chỉnh là Nhà nước và các chủ thể kinh tế và thị trường. Như vậy nếu trong nền kinh tế kếhoạch hóa tập trung, vai trò kinh tế của nhà nước Việt Nam được thể hiện một cách trực tiếp thì trong nền kinh tế thị trường định hướng 7Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368XHCN, vai trò đó lại được thể hiện một cách gián tiếp trên cơ sở thừa nhận và tôn trọng vai trò của thị trường.Các cơ sở lí luận, pháp lí và thực tiễn vừa nêu về vai trò kinh tế của nhà nước, cho phép xác định cơ sở chức năng kinh tế của Nhà nước theo những nội dung và phương thức thực hiện tương ứng với vai trò của Nhà nước ở mỗi mô hình kinh tế.Thật ra kinh tế nhà nước đều có tính tất yếu khách quan ở các mô hình kinh tế thế giới (Xem: Ngân hàng thế giới, Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb chính trị quốc gia, H.1998,tr.41). Nhưng với bản chất của dân, do dân, vì dân, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam không phải nhà tư bản lớn và kinh tế nhà nước ở Việt Nam không phải là hình thức biểu hiện của CNTB độc quyền nhà nước mà là hình thức của nền kinh tế công hữu phục vụ cho lợi ích của nhân dân trong đó Nhà nước là người đại diện.Vì thế thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là vấn đề thực tiễn và lí luận mới ở Việt Nam hiện nay. Về mặt nhận thức cần thấy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là “sản phẩm” của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN; nếu không có sự phân công, phối hợp tốt vai trò của các thành phần kinh tế thì cũng không có đựơc vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.Vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:– Kinh tế nhà nước là cơ sở vật chất cho việc thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước; là công cụ để hướng dẫn, điều tiết các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN;– Kinh tế nhà nước là công cụ hỗ trợ và phục vụ cho các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy các thành phần kinh tế đều phát triển;– Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.8Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368Với vai trò của nền kinh tế nhà nước như trên thì việc đổi mới cơ cấu kinh tế nhà nước cũng như quản lí nhà nước đối với kinh tế nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như trênthị trường quốc tế của các chủ thể kinh tế nhà nước đã và đang là một trong những nội dung quan trọng nhất trong chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay (theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1996, tr93-94)3. Thực trạng tổ chức, quản lí kinh tế của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay3.1. Khái quát về thành tựu đạt được trong việc tổ chức, quản lí kinh tế của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt NamBằng chính sách, pháp luật và các công cụ quản lí vĩ mô khác, qua gần hai thập kỉ dổi mới đất nước, Nhà nước ta thực sự đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo ra những chuyển biến to lớn về mọi mặt của đất nước.Đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu rõ nét và đồng bộ, trong đó tốc độ tăng trưởng khá cao ở tất cả các ngành, các lĩnh vực.Nếu tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm từ 1976-1980 chỉ có 0,4% thì từ năm 1991-1999, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 7,7%.Nếu nhìn khái quát giai đoạn từ 1996 đến nay thì những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:*Nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân được duy trì Sản xuất nông nghiệp liên tục phát triển, sản lượng lương thực bình quân đầu người đã tăng từ 360kg năm 1995 lên trên 444kg năm 2000.Các ngành công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức đạt được nhiều tiến bộ với nhịp độ tăng trưởng bình quân 13,5%/năm; giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm*Cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã có chuyển biến tích cực9Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368Nhìn chung cơ cấu kinh tế đất nước đang được chuyển đổi theo hướng công nghiệp háo, hiện đại hóa; cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại và đổi mới kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tỉ trọng kinh tế nhà nước trong GDP: khoảng 39%, kinh tế tập thể: 8,5%, kinh tế tư nhân: 3,3%, kinh tế cá thể : 32%, kinh tế hỗn hợp: 3,9%, kinh tế có vốn đầu tư nứơc ngoài: 13,3%. (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H,tr.229)*Các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân được đảm bảoCác cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân được đảm bảo như cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng, trong đó tiỉệ tích lũy để phát triển tăng; cân đối tài chính-tiền tệ. Chính sách của Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi cho việc huy động các nguồn vốn phát triển, nhất là nguồn vốn trong nước.Năng lực của các ngành sản xuất, dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được nâng lên rõ rệt.*Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển Nhờ có những đổi mới trong những chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước, đặc biệt là Luật đầu tư nước ngoài tại Việ Nam được bổ sung, sửa đổi ngày càng thông thoáng hơn; Luạt thương mại đuợc ban hành và có hiệu lực mà hoạt động xuất nhập khẩu những năm qua được đánh giá là phát triển khá, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục tăng góp phần tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; vôốnhỗ trợ phát triêểnchính thức (ODA) tiếp tục tăng góp phần phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội. Đồng thời các doanh nghiệp VIệt Nam cũng đang từng bước mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài *Cơ chế quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác lập, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi mớiCác chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Nhaànước đang dần được thể chế hóa bằng các đạo luật như Luật doanh nghiệp, Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng, Luật đất đai(sửa đổi), Luật đầu tư nước 10Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368ngoài tại Việt Nam(sửa đổi), Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật lao động, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật khoa học và công nghệ … Nhiều loại thị trường hàng hóa dịch vụ như thị trường vốn, tiền tệ, tài chính, lao động, bất động sản, khoa học và công nghệ đã được thừa nhận và bước đầu được tạo lập khuôn khổ pháp lí. Cơ chế quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước đã được định hình; hành lang pháp lí cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và các hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế dã đựoc xác lập. Các thủ tục hành chínhđã giảm bớt, tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi mới một bước quan trọng theo các yêu cầu của việc đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh. Chính sách chủ động hội nhập với nền kinh tế quốc tế và khu vực đang được tăng cường trên cơ sở phát huy năng lực của nền kinh tế đất nước.Đánh giá tình hình chung sau 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội 1991-2000, Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đó là tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế .Đặc biệt là nhà nước đã kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp, chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng XHCN; cơ cấu nền kinh tế quốc dân từ chỗ chủ yếu có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể nay đã huyển sang nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Đời sống nhân dân những năm qua được cải thiện, đất nước đã ra khỏi khủng hoaảng kinh tế-xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường do những biến động ở Liên Xô và các nước Đông Âu gây ra; phá được thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế ở một số 11Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368nước Châu Á mà hậu quả của nó đối với Việt Nam cũng khá nặng nề, tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường.3.2. Những tồn tại và bất cập trong tổ chức, quản lí kinh tế của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt NamMỗi bước phát triển kinh tế đều thể hiện mặt thành công và những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, những tồn tại và bất cập trong hoạt động quản lí kinh tế của Nhà nước hiên nay thể hiện trên những điểm chủ yếu sau:*Về hệ thống pháp luật và các công cụ quản lí vĩ mô khác của Nhà nướcBiểu hiện chung là chính sách đối với các thành phần kinh tế của Nhà nước hiện nay chưa thật sự đồng bộ và nhất quán. Trong thực tế từ các nguyên tắc hiến pháp cho đến các đạo luật, các văn bản duới luật và hoạt động thực thi chính sách hàng ngày của các cơ quan và cán bộ công chức nhà nước… là cả chặng đường dài mà ở đó có thể có sự khúc xạ, biến tướng so với các chủ trương, chính sách lớn. Chẳng hạn, giá dịch vụ các loại, giá thuê đất, chế độ tín dụng khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đến nay, các yếu tố của kinh tế thị trường chưa được hình thành đồng bộ, môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng chưa đượctạo lập đầy đủ. Trong chính sách, thể chế quản lí của Nhà nước còn tồn tại những hình thức bao cấp, vẫn mang tính chất “xin-cho” gắn với thủ tục phiền hà, thiếu công khai nhưng lại có nhiều mặt buông lỏng quản lí, không giữ được trật tự, kỉ cương (Báo cáo của Chính phủ tại kì họp Quốc hội khóa X, 2000)Từ năm 2000, Việt Nam đã khắc phục đượ tình trạng suy giảm nhuưg nhìn chung, cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động của Việt Nam chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Lao động trong nông nghiệp chiếm 67%; xuất khẩu chủ yếu là hàng nguêyn liệu thô hoặc hàng gia công, đời sống kinh tế-xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, tình trạng phân hóa giàu nghèo, chênh lệch thu nhập và mức sống giữa thành thị và nông thôn còn cao.. (theo “Kinh tế Việt Nam trong quá trình cải cách”, Cải 12

Đề Tài Tìm Hiểu Chức Năng Tổ Chức, Quản Lí Của Nhà Nước Xhcn Trong Lĩnh Vực Kinh Tế Của Nước Cộng Hòa Xhcn Việt Nam

nhà nước đối với kinh tế nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như trênthị trường quốc tế của các chủ thể kinh tế nhà nước đã và đang là một trong những nội dung quan trọng nhất trong chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay (theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1996, tr93-94) 3. Thực trạng tổ chức, quản lí kinh tế của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay 3.1. Khái quát về thành tựu đạt được trong việc tổ chức, quản lí kinh tế của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Bằng chính sách, pháp luật và các công cụ quản lí vĩ mô khác, qua gần hai thập kỉ dổi mới đất nước, Nhà nước ta thực sự đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo ra những chuyển biến to lớn về mọi mặt của đất nước. Đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu rõ nét và đồng bộ, trong đó tốc độ tăng trưởng khá cao ở tất cả các ngành, các lĩnh vực.Nếu tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm từ 1976-1980 chỉ có 0,4% thì từ năm 1991-1999, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 7,7%.Nếu nhìn khái quát giai đoạn từ 1996 đến nay thì những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: *Nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân được duy trì Sản xuất nông nghiệp liên tục phát triển, sản lượng lương thực bình quân đầu người đã tăng từ 360kg năm 1995 lên trên 444kg năm 2000.Các ngành công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức đạt được nhiều tiến bộ với nhịp độ tăng trưởng bình quân 13,5%/năm; giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm *Cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã có chuyển biến tích cực Nhìn chung cơ cấu kinh tế đất nước đang được chuyển đổi theo hướng công nghiệp háo, hiện đại hóa; cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại và đổi mới kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tỉ trọng kinh tế nhà nước trong GDP: khoảng 39%, kinh tế tập thể: 8,5%, kinh tế tư nhân: 3,3%, kinh tế cá thể : 32%, kinh tế hỗn hợp: 3,9%, kinh tế có vốn đầu tư nứơc ngoài: 13,3%. (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H,tr.229) *Các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân được đảm bảo Các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân được đảm bảo như cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng, trong đó tiỉệ tích lũy để phát triển tăng; cân đối tài chính-tiền tệ. Chính sách của Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi cho việc huy động các nguồn vốn phát triển, nhất là nguồn vốn trong nước.Năng lực của các ngành sản xuất, dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được nâng lên rõ rệt. *Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển Nhờ có những đổi mới trong những chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước, đặc biệt là Luật đầu tư nước ngoài tại Việ Nam được bổ sung, sửa đổi ngày càng thông thoáng hơn; Luạt thương mại đuợc ban hành và có hiệu lực mà hoạt động xuất nhập khẩu những năm qua được đánh giá là phát triển khá, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục tăng góp phần tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; vôốnhỗ trợ phát triêểnchính thức (ODA) tiếp tục tăng góp phần phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội. Đồng thời các doanh nghiệp VIệt Nam cũng đang từng bước mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài *Cơ chế quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác lập, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi mới Các chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Nhaànước đang dần được thể chế hóa bằng các đạo luật như Luật doanh nghiệp, Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng, Luật đất đai(sửa đổi), Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam(sửa đổi), Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật lao động, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật khoa học và công nghệ … Nhiều loại thị trường hàng hóa dịch vụ như thị trường vốn, tiền tệ, tài chính, lao động, bất động sản, khoa học và công nghệ đã được thừa nhận và bước đầu được tạo lập khuôn khổ pháp lí. Cơ chế quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước đã được định hình; hành lang pháp lí cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và các hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế dã đựoc xác lập. Các thủ tục hành chínhđã giảm bớt, tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi mới một bước quan trọng theo các yêu cầu của việc đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh. Chính sách chủ động hội nhập với nền kinh tế quốc tế và khu vực đang được tăng cường trên cơ sở phát huy năng lực của nền kinh tế đất nước. Đánh giá tình hình chung sau 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội 1991-2000, Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đó là tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế . Đặc biệt là nhà nước đã kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp, chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng XHCN; cơ cấu nền kinh tế quốc dân từ chỗ chủ yếu có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể nay đã huyển sang nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống nhân dân những năm qua được cải thiện, đất nước đã ra khỏi khủng hoaảng kinh tế-xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường do những biến động ở Liên Xô và các nước Đông Âu gây ra; phá được thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế ở một số nước Châu Á mà hậu quả của nó đối với Việt Nam cũng khá nặng nề, tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường. 3.2. Những tồn tại và bất cập trong tổ chức, quản lí kinh tế của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Mỗi bước phát triển kinh tế đều thể hiện mặt thành công và những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, những tồn tại và bất cập trong hoạt động quản lí kinh tế của Nhà nước hiên nay thể hiện trên những điểm chủ yếu sau: *Về hệ thống pháp luật và các công cụ quản lí vĩ mô khác của Nhà nước Biểu hiện chung là chính sách đối với các thành phần kinh tế của Nhà nước hiện nay chưa thật sự đồng bộ và nhất quán. Trong thực tế từ các nguyên tắc hiến pháp cho đến các đạo luật, các văn bản duới luật và hoạt động thực thi chính sách hàng ngày của các cơ quan và cán bộ công chức nhà nước… là cả chặng đường dài mà ở đó có thể có sự khúc xạ, biến tướng so với các chủ trương, chính sách lớn. Chẳng hạn, giá dịch vụ các loại, giá thuê đất, chế độ tín dụng khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đến nay, các yếu tố của kinh tế thị trường chưa được hình thành đồng bộ, môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng chưa đượctạo lập đầy đủ. Trong chính sách, thể chế quản lí của Nhà nước còn tồn tại những hình thức bao cấp, vẫn mang tính chất “xin-cho” gắn với thủ tục phiền hà, thiếu công khai nhưng lại có nhiều mặt buông lỏng quản lí, không giữ được trật tự, kỉ cương (Báo cáo của Chính phủ tại kì họp Quốc hội khóa X, 2000) Từ năm 2000, Việt Nam đã khắc phục đượ tình trạng suy giảm nhuưg nhìn chung, cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động của Việt Nam chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Lao động trong nông nghiệp chiếm 67%; xuất khẩu chủ yếu là hàng nguêyn liệu thô hoặc hàng gia công, đời sống kinh tế-xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, tình trạng phân hóa giàu nghèo, chênh lệch thu nhập và mức sống giữa thành thị và nông thôn còn cao.. (theo “Kinh tế Việt Nam trong quá trình cải cách”, Cải cách kinh tế, tài chính Việt Nam& Trung Quốc và thành tựu và triển vọng, Nxb. Tài chính, tác giả Nguyễn Công Nghiệp, H, tr.14) Trong gần 20 năm đổi mới đất nước, bên cạnh những kết quả đã đạt được, về xây dựng hệ thống pháp luật cũng như hoạt động thi hành pháp luật và giáo dục nâng cao ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục để phát triển kinh tế-xã hội theo chiều sâu của sự nghiệp đổi mới đất nước. So với nhu cầu của đất nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội hiên nay thì có thể thấy hệ thống pháp luật còn những khuyết điểm như sau: Chúng ta vẫn còn thiếu pháp luật trong một số lĩnh vực quan trọng như cạnh tranh, chốn độc quyền; chứng khoán; kiểm toán; kế toán, thống kê; kinh doanh bất động sản. Luật pháp của nhà nước ta vẫn chưa đồng bộ, phần lớn chỉ dưừnglại ở các nguyên tắc chung, muốn đi vào cuộc sống phải ban hành nhiều văn bản dưới luật để hướng dẫn chi tiết mà nhiều khi việc này còn chậm trễ. Pháp luật về kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh thậm chí còn mâu thuẫn ,thiếu tính minh bạch và tính xác định gây khó khăn cho việc sử dụng pháp luật của các nhà đầu tư. Nhà nước ta có bộ máy thi hành pháp luật khá đồ sộ nhưng hiệu lực và hiệu quả còn chưa tương xứng; năng lực cán bộ, công chức nhà nước còn yếu; việc giải quyết các treanh chấp kinh tế, dân sự còn chậm. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật còn kém, trong đời sống kinh tế-xã hội còn nhiều vi phạm nư kinh doanh trái phép, buôn lậu, hàng giả, trốn thuế, nợ đọng thuế … Cùng đó, Luật pháp nhà nước ta hay phải sửa đổ,i bổ sung cũng có mặt trái là không đảm bảo được tính ổn định cho sự vận hành của các quan hệ kinh tế Thêm nữa, pháp luật kinh tế thiếu nhiều cơ chế kiểm soát thông qua thị trường, ít mang tính chất cuủa”luật tư” (xem “Mấy điều về pháp luật kinh tế Việt Nam hiện nay”-Nguyễn Am Hiểu, Tạp chí Luật học, số 3/1999, tr.25).Nhìn chung pháp luật hiện hành còn đang thể hiện những điểm mâu thuẫn, bất cập trong hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước. Đó là mâu thuẫn trong việc thừa nhận nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc tự do kinh doanh mà trên thực tế các cơ chế chính sách, các quy định cụ thể vẫn còn nặng về thủ tục hành chính.Ngaòi ra, hệ thống pháp luật kinh tế của VIệt Nam còn nhiều sự khác biệt với hệ thống pháp luật của các nước trong khu vực và trên thế giới. * Về việc thực hiện chức năng quản lí đối với kinh tế Nhà nước Tình hình chung hiện nay của khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam cho thấy một số doanh nghiệp vươn lên thích ứng với cơ chế thị trường và phát huy được tác dụng tích cực nhưng nhìn chung hiệu quả kinh doanh cảu các doanh nghiệp nhà nước còn thấp, việc sử dụng các nguồn lực của kinh tế nhà nước còn hạn chế và lãng phí. Nhiều daonh nghiệp thua lỗ kéo dài, chưa được sắp xếp lại.Chủ trương cổ phần hóa, đổi mới quan hệ sở hữu và cơ chế quản lí doanh nghiệp nhà nước tiến hành vẫn còn chậm.Hệ thống cơ chế, chính sách đối với kinh tế nhà ước vẫn chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, chưa tạo ra được cơ sở pháp lí vững chắc đẻ cho các chủ thể kinh tế nhà nước tham gia cạnh tranh. Hiện nay, các tổng công ty nhà nước còn nhiều vấn đề bất cập về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động, chưa thật sự thể hiện được vai trò của mình như là tất yếu kinh tế-xã hội mà còn mang nặng tính hành chính. Đảng cộng sản Việt Nam cũng nhận dịnh là khu vực nhà nước chậm được sắp xếp củng cố và đổi mới… Còn một bộ phận không ít doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thiếu năng động, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước (theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001, tr.52) *Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước Từ nguyên tắc chung về sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở tập trung thống nhất quyền lực nhà nước. Hiện nay cũngcòn nhiều vấn đề phải tiếp tục giải quyết theo yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn còn những bất hợp lí, thiếu cơ sở khoa học, tình trạng chồng lấn chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền còn khá phổ biến. Các bộ quản lí ngành kinh tế và bộ tổng hợp chưa có tiêu chí khoa học để phân biệt, có bộ chỉ thực hiện một chức năng. Sự phân công, phối hợp giữa các bộ với nhau, giữa bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lí kinh tế-xã hội chưa thật rõ ràng và hợp lí. Nhìn chung, như nhận định của chính phủ VIệt Nam về htực trạng nền hành chính hiện nay là tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều tầng, nấc: phương thức quản lí hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán, chưa thông suốt (theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010) Trong điều kiện hiện nay, hoạt động tư pháp ngày càng được nhà nước chú trọng là điều tất yếu, bởi lẽ tính hoàn chỉnh và cân đối của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một trong những biểu hiện cho tính thống nhất của quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Tuy nhiên cũng phải thấy việc kiểm soát các quan hệ kinh tế -xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường là lĩnh vực còn mới đối với cơ quan tư pháp Việt Nam. Hiệu quả hoạt động tư pháp hiện nay phản ánh tình trạng hệ thống pháp luật, tổ chức bộ máy cũng như năng lực quản lí cán bộ của ngành tư pháp Việt Nam đang còn nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức quản lí kinh tế của Việt Nam hiện nya có nhiều bất cập mà Nhà nước đang từng bước khắc phục. Đó là tình trạng quá nhiều người trong các cơ quan hành chính chế độ chức trách còn chưa cụ thể, trình độ năng lực còn hạn chế, tình trạng quna liêu, tham nhũng không phải ít. Nhiều người không muốn xóa bỏ cơ chế làm việc cũ vì sợ mất đi những đặc quyền đặc lợi qua các khoản thu bất chính từ cơ chế “xin-cho”.Mặt khác, đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế hiện nay đông nhưng không đồng bộ, vừa htừa lại vừa thiếu, trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo quản lí chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới nhất là quản lí kinh tế thị trường .Nhìn chung thực trạng về bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công hcức hiên nay đang là thách thức lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước . 3.3. Nguyên nhân những tồn tại và bất cập Ngoài các nguyên nhân khách quan là do xuất phát từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, với những hậu quả của nhiều năm chiến tranh ác liệt và htiên tai nặng nề thì nhưữngtồn tại và bất cập trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước hiên nay còn do các nguyên nhân chủ quan. Những nguyên nhân chủ quan bao gồm nhận thức và hành động của con người thể hiện trong cả tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các cơ quan cũng như cán bộ, công chức nhà nước. Đó là các nguyên nhân sau: Thứ nhất, đó là do ảnh hưởng tư tưởng cũ trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.Nền kinh tế thị truờng định hướng XHCN ở Việt Nam được xây dựng từ cơ sở trước đó vốn là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.Vì thế những nếp nghĩ thói quen hành động của con người đã mấy chục năm vẫn còn ảnh huởng rất lớn và không dễ dàng thoát khỏi ngay đựơc.Trong tình hình hiện nay, tàn dư của chủ nghĩa nhà nước trong quản lí kinh tế thể hiện ở chỗ vẫn còn tàn dư tư tưởng tuyệt đối hóa vai trò của nhà nước trong điều chỉnh các quan hệ kinh tế mà không thấy vai trò tự điều chỉnh của xã hội và những sự cần thiết của sự điều chỉnh mang tính nhà nước. Biểu hiện của tàn dư này có thể gặp khá phổ biến trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước như trong hoạt động xây dựng các đạo luật, các văn bản duới luật như nghị định của Chính phủ là văn bản nào cũng thấy có phần, chương quy định về quản lí nhà nước trong lĩnh vực ấy mà nhiều khi thiếu cơ sở vững chắc và thiếu tính khả thi. Biểu hiện khác về sự ảnh hưởng của tư tưởng quản lí nhà nước trong cơ chế cũ là về tính chủ đạo của kinh tế nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo về bản chất khác với tính tập trung của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Nhưng hiện vãn còn quan niệm cho rằng kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo nghĩa là kinh tế nhà nước phải nắm giữ hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và nếu như vậy thì mới thể hiện định hướng XHCN của nền kinh tế. Từ đó mà người ta vẫn chưa hoàn toàn gột bỏ được tư tưởng về chế độ bao cấp của Nhà nước thể hiện ở chế độ bảo hộ doanh nghiệp nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước bằng hàng rào thuế quan nghiêm ngặt. Về quản lí nhà nước với các chủ thể kinh tế nhà nước, đến nay trong việc xây dựng và tổ chức bộ máy chủ quản lí hành chính với doanh nghiệp nhà nước với kiểu quản lí đơn chức năng, cồng kềnh nhiều tầng nấc, nhiều người. Thứ hai, do nhận thức chưa thống nhất về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đây một phần cũng là hệ quả của nguyên nhân trên và mặt khác còn do việc sao chép kinh nghiệm của nước ngoài một cách máy móc không phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Biểu hiện của sự không thống nhất trong nhận thức về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay trước hết là tính không đồng bộ của hệ thống chính sách của Nhà nước. Các chính sách lớn thì mở nhưng việc thực thi hàng ngày thì lại bị vướng mắc hay cản trở bởi hàng loạt các quy định, các thủ tục hành chính rườm rà, ách tắc. Đó là biểu hiện về tư tưởng cục bộ của các ngành, các cơ quan, các địa phương trong quá trình thực thi chính sách kinh tế của Nhà nước. Nhiều người muốn níu kéo cơ chế cũ là do những lợi ích cá nhân trong cơ chế đó nhưng ngay trong nhận thức chung của xã hội, của các cán bộ, công chức nhà nước cũng chưa đạt đến sự thống nhất về những vấn đề như xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, về đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chính sách đất đai, kinh tế trang trại, nội dung và bước đi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế (theo Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H,2001,tr.17). Về vấn đề vait rò chủ đạo của nền kinh tế hiện nay vẫn có sự nhận thức chưa thống nhất, chẳng hạn không ít người vẫn coi trọng số lượng hơn chất lượng, cho rằng cần phải thành lập doanh nghiệp nhà nước hơn nữa để làm đối trọng với doanh nghiệp dân doanh nhằm tạo ra thế cạnh tranh,… Thứ ba, do trình độ năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ công chức còn chưa thật sự đáp ứng được yêu cấu của nhiệm vụ. Việ Nam xây dựng nền kinh tế thị truờng định hướng XHCN vốn từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhiều cán bộ, công chức nhà nước được đào tạo theo mô hiình kinh tế cũ không còn phù hợp với yêu cầu mới của nhiệm vụ. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước tuươg xứng với yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mới đạt được kết quả bước đầu, chưa thật sự vững chắc. Vì thế, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì những bất cập về trình độ, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là điều dễ hiểu. 4. Phương hướng nâng cao hiệu quả chức năng kinh tế 4.1. Chiến lược phát triển pháp luật và hoàn thiện hệ thống kinh tế Trong quản lí kinh tế, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ tất cả các công cụ trong đó pháp luật là nền tảng.Từ đường lối chính sách của Đảngvà Nhà nước để xây dựng hệ thống pháp luật, không phải chỉ có việc là chuyển thành ngôn từ pháp lí hay đem lại cho chúng hình thức của văn bản pháp luật mà đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu thích đáng những nhu cầu, mức độ cần điều chỉnh các quan hệ kinh tế-xã hội. Không phải toàn bộ nội dung đường lối, chính sách đếu được đưa vào nội dung văn bản quy phạm pháp luật mà còn phải qua quá trình thể chế hóa với những yêu cầu đặc thù. Điều này đòi hỏi cần phải khắc phục tình trạng văn bản pháp luật được ban hành vội vã, mang tính chủ quan, chưa đủ độ chín muồi, kém tác dụng trong điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Lĩnh vực kinh doanh là lĩnh vực hết sức năng động và phức tạp nên các chính sách của nhà nước, các biện pháp kế hoạch cũng phải đa dạng và linh hoạt. Tuy nhiên, pháp luật của Nhà nước phản ánh đầy đủ cái đa dạng phong phú ấy bằng phương pháp riêng của mình; pháp luật mang trong nó cái “hồn” của chính sách chứ không thể sao chép chính sách một cách gượng ép. Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật của nước ta là chính sách, kế hoạch phát triển tổng thể của Nhà nước gồm cả lập pháp, thi hành pháp luật nhằm giáo dục nâng cao ý thức pháp luật để hoàn thiện các giải pháp đồng bộ về pháp luật để điều chỉnh các hoạt động kinh tế-xã hội; tạo thế chủ động về hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật của Nhà nước; ổn định hóa chính sách pháp luật.Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật của Nhà nước trong điều kiện hiện nay cũng cần phải được hoàn thiện trên cơ sở coi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang diễn ra mạnh mẽ như là tất yếu khách quan của thời đại..Chiến lược phát triển pháp luật của Nhà nước phải xác định được những vấn đề cơ bản, có tính định hướng cũng như chương trình hóa dài hạn gồm: – Hướng phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội và nhu càu mức độ điều chỉnh một cách tổng quát; – Các nhu cầu điều chỉnh trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội quan trọng. – Chương trình xây dựng các lĩnh vực pháp luật; – Chương trình tổ chức thực hiện pháp luật, giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp luật. Có thể quan niệm hệ thống pháp luật về kinh tế được cấu trúc theo hai mảng lớn sau: Thứ nhất là hệ thống các qui phạm pháp luật xác định chế độ quản lí của Nhà nước với hoạt động kinh tế. Hệ thống này điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước và quyền của các chủ thể kinh tế, xác dịnh phạm vi thẩm quyền của Nhà nước và quyền của các chủ thể kinh tế. Đặc trưng của quan hệ xã hội trong mảng này là quan hệ giữa một bên là Nhà nước-cơ quan công quyền đại diện cho lợi ích của xã hôi, của người tiêu dùng có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc các chủ thể kinh tế phải thực hiện những nghĩa vụ do pháp luật quy định, còn các chủ thể kinh tế có quyền được yêu cầu cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải thực hiện những công việc theo luật định đảm bảo cho hoạt động kinh tế được thuận lợi. Cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước chỉ được thực hiện những hành vi do luật định không được can thiệp quá giới hạn thẩm quyền, làm cản trở các hoạt động kinh tế. Chủ thể kinh tế chỉ phải thực hiện những nghĩa vụ do luật định một cách rõ ràng, công khai, ngoài ra không có nghĩa vụ bắt buộc nào khác. Thứ hai là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giao dịch giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng. Đây là mảng lớn thứ hai trong hệ thống pháp luật về kinh tế và cũng là mảng còn yếu, Nhà nước cần tập trung khắc phục. Đặc trưng của mảng quan hệ xã hội giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng là lợic ích kinh tế quyết định sự tham gia quan hệ đồng thời nó trực tiếp quyết định hành vi của họ. Do vậy, các nguyên tắc quan trọng hàng đầu của hệ thống các quy phạm trong mảng này là nguyên tắc tự định đoạt, nguyên tắc tự do thỏa thuận trên cơ sở không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trong lĩnh vực này, chủ thể được tự do thỏa thuận tất cả những gì mà pháp luật không cấm, tất cả những gì ngoài phạm vi pháp luật quy định phải có điều kiện, pahỉ xin phép… Nhà nước tôn trọng tất cả những thỏa thuận như vậy và đảm bảo cho các thỏa htuận, cam kết hợp pháp được tuân thủ như ý chí của cá bên. Đồng thời, vai trò to lớn của nhà nước còn được htể hiện ở chỗ Nhà nước chủ động nghiên cứu và hoàn thiện các mô hình, các hình thức pháp lí cho cá loại hình thị trường, cá giao dịch kinh tế hoặc khắc phục những điểm bất cập của pháp luật hiện hành, tạo môi trường pháp lí thông htoáng và thuận lợi cho cá chủ thể kinh tế hoạt động. HIện nay, một trong những vấn đề bức xúc trong mảng pháp luật này là vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng. Mặt khác, mảng pháp luật về các loại hình doanh nghiệp nhất là luật về công ti cũng cần phải được hoàn thiện để đảm bảo tính “tự hành” cho các quan hệ về tổ chức nội bộ của công ty. Hệ thống pháp luật về kinh tế được coi là hoàn chỉnh là hệ thống phải phát triển đầy đủ cả hai mảng pháp luật kể trên..Nguyên tắc xuyên suốt hệ thống pháp luật về kinh tế là dành sự thuận lợi nhất cho hoạt động của các chủ thể kinh tế chứ khong phải chỉ dành thuận lợi cho hoạt động quản lí nhà nước mà gây trở ngại cho hoạt động kinh tế.. Bởi vậy, hệ thống pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng: – Phát huy vai trò các yếu tố cơ bản của thị truờng gồm nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trong hoạt động kinh tế; tự do kinh doanh; sự vận động tự do của vốn và hàng hóa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế. – Đảm bảo sự quản lí vĩ mô của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế; – Đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật; – Đảm bảo hiệu lực thực hiện của hệ thống pháp luật; – Đảm bảo sự tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế của hệ thống pháp luật. Từ các yêu cầu cơ bản trên, cần tập trung vào các giải pháp sau đây cho việc hoàn thiện và nâng cao vai trò của hệ thống ph

Bản Chất, Chức Năng Và Hình Thức Nhà Nước Cộng Hoà Xhcn Việt Nam

Trong bài Nguồn gốc, Bản chất, Đặc điểm và Hình thức của Nhà nước, chúng ta đã tìm hiểu các khái niệm chung nhất về Nhà nước như: bản chất, đặc điểm, kiểu Nhà nước và hình thức Nhà nước… Mỗi kiểu Nhà nước khác nhau có bản chất, chức năng và hình thức khác nhau. Vì vậy để hiểu rõ về Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu các khái niệm cơ bản nhất về Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như:

1. Sự ra đời của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam

Tháng 8 năm 1945, sau khi thực hiện thành công cuộc tổng khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Sau đó lại tiếp tục công cuộc kháng chiến cho đến mùa xuân năm 1975 chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, thống nhất đất nước và tiến hành xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay.

2. Bản chất của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam

Bản chất của Nhà nước mang thuộc tính giai cấp. Vì vậy Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước do giai cấp công nhân và nhân dân lao động lãnh đạo, nhằm thực hiện những lợi ích của giai cấp mình và đồng thời mang lại lợi ích cho tất cả các tầng lớp khác trong xã hội.

Bản chất của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thể hiện cụ thể của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Theo Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được thể hiện như sau:

Nhà nước ta là Nhà nước của tất cả các dân tộc trong quốc gia Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đoàn kết các dân tộc.

Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, thể hiện qua việc thiết lập nên Nhà nước bằng quyền bầu cử các cơ quan quyền lực Nhà nước của nhân dân; thực hiện quyền lực Nhà nước bằng các hình thức giám sát, kiểm tra, khiếu kiện các quyết định của cơ quan Nhà nước làm thiệt hại quyền lợi của dân.

Nhà nước thể hiện bản chất dân chủ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và ý thức xã hội.

Bản chất Nhà nước thể hiện trong chính sách đối ngoại là theo phương châm Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở hòa bình, hữu nghị, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền của nhau.

3. Chức năng của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

Chức năng của Nhà nước là khái niệm quản lý mà qua đó nội dung và mục đích của quản lý Nhà nước được biểu hiện cụ thể.

Chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước thể hiện bản chất giai cấp nhằm thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của Nhà nước.

Cần phân biệt chức năng với nhiệm vụ Nhà nước. Đây là 2 khái niệm gần nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Nhiệm vụ là những vấn đề đặt ra mà Nhà nước cần phải giải quyết, có nhiệm vụ cấp bách, có nhiệm vụ lâu dài. Còn chức năng là những phương diện hoạt động có tính chất định hướng phù hợp với sự phát triển của Nhà nước.

Chức năng cơ bản của Nhà nước Việt Nam bao gồm: Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.

3.1. Chức năng đối nội

Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, tạo lập và bảo đảm môi trường chính trị, luật pháp tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả.

Chức năng tổ chức và quản lý về văn hóa xã hội, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, giáo dục và đào tạo nâng cao dân trí giúp phát triển đất nước.

Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh trật tự, an toàn xã hội và quyền lợi chính đáng của công dân.

3.2. Chức năng đối ngoại

Chức năng bảo vệ tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và ổn định hòa bình cho đất nước.

Chức năng củng cố, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau.

4. Hình thức của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam

Xét theo khái niệm chung, hình thức Nhà nước gồm 3 yếu tố cấu thành là hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.

Là Nhà nước xã hội chủ nghĩa nên hình thức Nhà nước Việt Nam là hình thức Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các Nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có cùng bản chất dân chủ.

4.1. Hình thức Nhà nước Việt Nam dưới góc độ hình thức chính thể

Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ quan Nhà nước tối cao. Đối với Nhà nước Việt Nam do Hiến pháp quy định về cách thức tổ chức thành lập các cơ quan Nhà nước và xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhau, đảm bảo có sự tham gia của Nhân dân vào việc tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước. Từ Hiến pháp đầu tiên 1946 cho đến Hiến pháp 1992 hiện nay, khẳng định hình thức chính thể của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân.

Chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc điểm sau:

– Tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

– Quyền lực Nhà nước không theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” mà theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phân nhiệm, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

– Bộ máy Nhà nước được tổ chức thể hiện bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

4.2. Hình thức Nhà nước Việt Nam dưới góc độ hình thức cấu trúc nhà nước

Hình thức cấu trúc nhà nước là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan Nhà nước. Cấu trúc Nhà nước Việt Nam là Nhà nước đơn nhất, Nhà nước Việt Nam có chủ quyền quốc gia, có một lãnh thổ duy nhất, thống nhất không phân chia thành các Nhà nước tiểu bang. Nhà nước Việt Nam có một Hiến pháp, một hệ thống Pháp luật áp dụng chung trên toàn lãnh thổ và một hệ thống bộ máy Nhà nước.

4.3. Hình thức Nhà nước Việt Nam dưới góc độ chế độ chính trị

Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp và cách thức cơ quan Nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Nhà nước Việt Nam sử dụng hệ thống các phương pháp và biện pháp dân chủ thực sự để tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, đảm bảo sự tham gia của nhân dân vào việc quản lý nhà nước và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm Pháp luật nhà nước.

TÓM LƯỢC

Bản chất Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Chức năng cơ bản của Nhà nước Việt Nam bao gồm chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội gồm chức năng tổ chức và quản lý kinh tế; chức năng tổ chức và quản lý về văn hóa xã hội; chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh trật tự, an toàn xã hội. Chức năng đối ngoại gồm chức năng bảo vệ tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc và chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước nhằm phát triển đất nước.

Hình thức Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân, cấu trúc nhà nước đơn nhất, chế độ chính trị dân chủ.

Tài liệu cùng môn học

Chia sẻ bài viết: