Top 3 # Chức Năng Của Quốc Hội Việt Nam Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Quốc Hội Là Cơ Quan Gì? Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Quốc Hội Việt Nam?

Quốc hội là cơ quan gì? Chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam?

1. Khái quát về sự ra đời và phát triển của Quốc hội nước ta

Quốc dân đại hội được triệu tập vào ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945 tại Tân Trào gồm có 60 đại biểu của các tổ chức, đoàn thể cách mạng đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng, lập ra Ủy ban dân tộc giải phóng trung ương (tức Chính phủ lâm thời).Vì vậy, Quốc dân đại hội được coi là tiền thân của Quốc hội nước ta. Thông qua cuộc tổng tuyển cử tự do ngày 06 tháng 01 năm 1946, nhân dân cả nước đã bầu ra Quốc hội nước Việt nam dân chủ cộng hòa – Quốc hội đầu tiên, Quốc hội khoá I của nước ta.

Tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá I đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta trong phiên họp ngày 9 tháng 11 năm 1946. Sau khi Hiến pháp được thông qua, lẽ ra Quốc hội phải giải tán và bầu ra Nghị viện nhân dân, bởi vì theo Sắc lệnh số 14 ngày 8 tháng 9 năm 1945 của Hồ Chủ Tịch chỉ là “Tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến” nhưng do tình hình khẩn cấp lúc bấy giờ nên Quốc hội chưa thể giải tán mà vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến năm 1960.

Để phù hợp với tình hình thay đổi của cách mạng, tại kỳ họp thứ 11 của Quốc hội ngày 31 tháng 12 năm 1959 bản Hiến pháp sửa đổi đã được thông qua – Hiến pháp năm 1959. Theo Hiến pháp năm 1959, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất không gọi là Nghị viện nhân dân như trong Hiến pháp 1946, mà gọi là Quốc hội nước Việt nam dân chủ cộng hòa.

Từ năm 1960 đến năm 1976 là nhiệm kỳ của Quốc hội các khoá tiếp theo (Quốc hội khóa II: 1960 – 1964; Quốc hội khóa III: 1964 – 1971; Quốc hội khóa IV: 1971 – 1975; Quốc hội khóa V: 1975 – 1976) . Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được độc lập thống nhất. Ngày 25 tháng 4 năm 1976 nhân dân cả nước đã tiến hành bầu ra Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất, đó là Quốc hội khoá VI của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ bảy đã nhất trí thông qua Hiến pháp 1980 trong phiên họp ngày 18 tháng 12 năm 1980. Quốc hội khóa VII kéo dài từ năm 1981 đến năm 1987, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp 1980, Quốc hội đã phát huy vai trò cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nhân dân trong việc củng cố và hoàn thiện chế độ làm chủ tập thể. Quốc hội khoá VIII (1987 – 1992 ) là Quốc hội của thời kỳ đổi mới. Tại kỳ họp lần thứ 11 của Quốc hội khoá VIII, bản Hiến pháp thứ tư của nước ta được thông qua trong phiên họp ngày 15 tháng tư năm 1992. Sau khi Hiến pháp 1992 được ban hành, nhân dân ta đã bầu ra Quốc hội khoá IX (1992 – 1997), từ 1997 – 2002 là nhiệm kỳ của Quốc hội khoá X – đây là Quốc hội sẽ tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Quốc hội khoá XI (2002-2007) là Quốc hội có nhiều đổi mới, hướng đến sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh có nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thử thách đặt ra cho đất nước ta.

2. Vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội

Theo Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (Điều 2), nhưng nhân dân không thể trực tiếp, thường xuyên sử dụng quyền lực nhà nước được cho nên phải bầu ra các cơ quan đại diện để thay mặt mình sử dụng quyền lực nhà nước. Vì vậy, các cơ quan này được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước.

Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 đều nêu rõ vị trí và tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam. Bởi vì Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, bao gồm các đại biểu đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân và mọi vùng lãnh thổ. Quốc hội có chức năng và nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân, nói lên tiếng nói và thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân. Ở nước ta, chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền quyết định những vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia, các vấn đề trọng đại của đất nước.

Với vị trí, tính chất như thế nên chức năng của Quốc hội bao gồm những phương diện lớn như sau:

– Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp

– Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.

– Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, nhằm đảm bảo cho những qui định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệu lực và hiệu quả.

Chức năng nói trên của Quốc hội được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.

3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội

Quyền lực của nước ta được thực hiện theo chế độ tập quyền, theo nguyên tắc tập trung.

Quyền lực nhà nước tập trung chủ yếu vào Quốc hội; nhưng có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng.

Các nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội trong Điều 84 của Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung và cụ thể hóa trong Luật tổ chức Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam 2001. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được phân thành các lĩnh vực sau:

3.1. Lập hiến và lập pháp

Quốc hội có quyền lập hiến và lập pháp nên Quốc hội cũng có quyền sửa đổi Hiến pháp và sửa đổi luật, các hoạt động này đều được qui định cụ thể và chặt chẽ.

Còn sáng kiến lập pháp, tức là quyền trình dự án luật trước Quốc hội được giao cho nhiều Cơ quan nhà nước như: Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; Đại biểu Quốc hội còn có quyền trình kiến nghị về luật ra trước Quốc hội. Cơ quan trình dự án luật phải chuẩn bị, xây dựng hoàn chỉnh và trình bày trước Quốc hội dự án đó để Quốc hội xem xét.

Quốc hội còn có quyền quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Đây là điểm mới mà Hiến pháp 1980 chưa quy định, Hiến pháp 1992 đã bổ sung quyền này nhằm đảm bảo cho hoạt động lập pháp của Quốc hội có hiệu quả hơn.

3.2. Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước

Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nên Quốc hội có quyền quyết định những mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; những vấn đề quốc kế dân sinh; những vấn đề đối nội, đối ngoại và quốc phòng, an ninh quốc gia.

Trong lĩnh vực kinh tế, Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế.

Quốc hội quyết định những vấn đề hệ trọng đối với vận mệnh của đất nước như quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; qui định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; quyết định chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo của Nhà nước; quyết định đại xá; quyết định trưng cầu ý dân.

Quốc hội còn có nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước.

4. Tổ chức bộ máy nhà nước

Quốc hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng, củng cố và phát triển bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương.

Bộ máy nhà nước ta từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan quyền lực nhà nước đến các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát được tổ chức theo mô hình nào, nguyên tắc tổ chức hoạt động ra sao đều do Quốc hội xem xét lựa chọn, quyết định tại các kỳ họp và được thể hiện trong Hiến pháp và luật tổ chức các cơ quan này.

Ngoài việc qui định chung về tổ chức và hoạt động của các Cơ quan nhà nước, Quốc hội còn bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó chủ tịch Quốc hội và các uỷ viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng an ninh; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội.

Quốc hội còn qui định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước trong các lĩnh vực khác; qui định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước.

5. Giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật

Theo chức năng, nhiệm vụ của mình, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật do nhiều Cơ quan nhà nước tiến hành như: Hội đồng nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Thanh tra nhà nước… Nhưng sự giám sát của Quốc hội là sự giám sát cao nhất. Nhiệm vụ giám sát của Quốc hội nhằm làm cho những qui định của Hiến pháp, pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất. Quốc hội giám sát hoạt động của các Cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo cho các cơ quan này hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn đã được qui định, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, có hiệu lực, không chồng chéo, chống các biểu hiện tham nhũng, quan liêu, cửa quyền.

Các hình thức giám sát tối cao của Quốc hội:

Xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

Xem xét báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội.

Thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Ủy ban.

Bên cạnh đó, một hoạt động mới của Quốc hội được ghi nhận tại Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003 là việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

6. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội

Tổ chức của Quốc hội là cơ cấu bên trong được lập ra để giúp Quốc hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Tổ chức của Quốc hội do Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội quy định. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội là một trong những yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

Các cơ quan của Quốc hội bao gồm: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

6.1. Ủy ban thường vụ Quốc hội

Theo Hiến pháp 1959, trong tổ chức của Quốc hội có Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Nhưng theo qui định của Hiến pháp 1980, Ủy ban thường vụ Quốc hội được thay thế bằng Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam.

Để phân định rõ chức năng nguyên thủ quốc gia và chức năng thường trực Quốc hội, Hiến pháp 1992 đã qui định về Chủ tịch nước và Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước đảm nhận chức năng nguyên thủ quốc gia, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm có:

Chủ tịch Quốc hội

Các Phó chủ tịch Quốc hội

Các uỷ viên

Số thành viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Để bảo đảm cho hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội được khách quan, Luật tổ chức Quốc hội 2001 qui định: Thành viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội là đại biểu chuyên trách và không thể đồng thời là thành viên của Chính phủ.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội được qui định trong Điều 91 của Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và cụ thể hoá tại Điều 7 Luật tổ chức Quốc hội 2001.

Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; ban hành các pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao.

Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đình chỉ thi hành các văn bản của các cơ quan trên nếu các văn bản này trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội huỷ bỏ đồng thời có quyền huỷ bỏ các văn bản này nếu trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội có vai trò tích cực trong việc chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và giải tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân.

Trong trường hợp Quốc hội không họp được, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét quyết định tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.

Do Quốc hội không hoạt động thường xuyên nên Hiến pháp còn quy định cho Ủy ban thường vụ Quốc hội được giải quyết một số vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội trong thời gian Quốc hội không họp và các uỷ viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách.

Chủ tịch Quốc hội

Trong tổ chức của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội có vị trí rất quan trọng. Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; bảo đảm thi hành qui chế hoạt động của đại biểu Quốc hội, nội qui kỳ họp Quốc hội; ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội; tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; tổ chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội, lãnh đạo hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội trong liên minh Quốc hội thế giới.

Các Phó chủ tịch Quốc hội giúp Chủ tịch Quốc hội làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch Quốc hội.

6.2. Hội đồng dân tộc

Vấn đề dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với nước ta, cho nên Hiến pháp năm 1980 đã nâng Ủy ban dân tộc của Quốc hội thành Hội đồng dân tộc cho xứng với tầm quan trọng của nó. Đến Hiến pháp năm 1992, vị trí, vai trò của Hội đồng dân tộc được đề cao, nhiệm vụ và quyền hạn được tăng cường.

Hội đồng dân tộc gồm có Chủ tịch, Phó chủ tịch và các uỷ viên do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội. Hội đồng dân tộc có một số thành viên hoạt động chuyên trách.

Ngay trong Quốc hội, số lượng đại biểu là người dân tộc thiểu số cũng chiếm một tỉ lệ thích đáng, và có xu hướng mỗi ngày gia tăng- chính điều này đã thể hiện phần nào chính sách dân tộc của nhà nước ta.

6.3. Các Ủy ban của Quốc hội

Các Ủy ban của Quốc hội được thành lập ra để giúp Quốc hội thực hiện tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đồng thời các Ủy ban của Quốc hội còn là hình thức thu hút các đại biểu vào việc thực hiện công tác chung của Quốc hội.

Quốc hội thành lập hai loại uỷ ban: Ủy ban thường trực và Ủy ban lâm thời.

6.3.1. Ủy ban thường trực

Ủy ban thường trực là những Ủy ban hoạt động thường xuyên. Nhiệm vụ của các Ủy ban này là nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban .

Theo Điều 22 – Luật tổ chức Quốc hội 2001 (2007), Quốc hội thành lập các Uỷ ban sau đây:

Uỷ ban pháp luật;

Uỷ ban tư pháp;

Uỷ ban kinh tế;

Uỷ ban tài chính, ngân sách;

Uỷ ban quốc phòng và an ninh;

Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;

Uỷ ban về các vấn đề xã hội;

Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;

Uỷ ban đối ngoại.

Mỗi Ủy ban đều phải có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách.

6.3.2. Ủy ban lâm thời

Ủy ban lâm thời là những Ủy ban được Quốc hội thành lập khi xét thấy cần thiết để nghiên cứu thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định như Ủy ban kiểm tra tư cách đại biểu Quốc hội hay Ủy ban sửa đổi Hiến pháp.

Để đảm bảo tính khách quan trong việc giám sát hoạt động của cơ quan chấp hành của Quốc hội, các thành viên của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội phải là đại biểu Quốc hội và không thể đồng thời là thành viên Chính phủ.

7. Kỳ họp Quốc hội

Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Quốc hội, do Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập, thường lệ mỗi năm họp hai kỳ. Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường.

Thành phần tham dự kỳ họp của Quốc hội bao gồm: các đại biểu Quốc hội; đại diện cho các Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế – chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang và người nước ngoài, các đại diện này tham gia với tư cách là người chứng kiến – có quyền phát biểu nhưng không có quyền biểu quyết. Với thành phần tham dự kỳ họp như thế đã thể hiện tính dân chủ, công khai của hoạt động Quốc hội.

Trước khi triệu tập kỳ họp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội phải dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp, dự kiến này phải được gửi đến các đại biểu Quốc hội chậm nhất là một tháng trước khi Quốc hội họp để các đại biểu nghiên cứu và góp ý kiến.

7.1. Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội

Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới được triệu tập chậm nhất là 60 ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và do Chủ tịch Quốc hội khoá trước khai mạc và chủ tọa cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch Quốc hội khoá mới.

Tại kỳ họp này, Quốc hội tiến hành bầu cử các chức danh lãnh đạo cao cấp nhất của Nhà nước. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo công tác từ kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khoá trước đến kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới.

Ngoài ra, Quốc hội còn bầu Đoàn thư ký kỳ họp của mỗi khoá Quốc hội.

Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước.

7.2. Trình tự xem xét và thông qua các dự án tại kỳ họp Quốc hội

Tại kỳ họp, Quốc hội xem xét và thông qua các dự án kế hoạch Nhà nước, dự toán ngân sách Nhà nước, các báo cáo, dự án luật và các dự án khác theo trình tự sau đây:

Trình bày các dự án trước Quốc hội.

Thuyết trình việc thẩm tra các dự án.

Biểu quyết để thông qua dự án.

Vấn đề cần biểu quyết và cách biểu quyết do Quốc hội qui định. Các luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tán thành, trừ các trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội và sửa đổi Hiến pháp thì phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

7.3. Vấn đề chất vấn và trả lời chất vấn

Chất vấn là một hoạt động thực hiện quyền giám sát của Quốc hội trong chương trình kỳ họp, Quốc hội dành thời gian thích đáng cho việc chất vấn và trả lời chất vấn.

Chất vấn là quyền của đại biểu Quốc hội nêu những vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu những người này trả lời.

Thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn được qui định tại điều 11 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội 2003.

7.4. Hình thức họp Quốc hội

Quốc hội họp công khai, khi Quốc hội họp công khai công chúng có thể được đến dự theo giấy mời của văn phòng Quốc hội. Các cơ quan thông tấn, báo chí được tham dự các phiên họp công khai của Quốc hội để phản ảnh kịp thời, chính xác các hoạt động của Quốc hội. Trong trường hợp cần thiết, Quốc hội sẽ quyết định họp kín, việc công bố nội dung các phiên họp kín do Chủ tịch nước cùng với Chủ tịch Quốc hội quyết định.

7.5. Các luật, nghị quyết của Quốc hội

Các luật, nghị quyết của Quốc hội phải được Chủ tịch Quốc hội ký chứng thực và Chủ tịch nước công bố, chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày thông qua.

8. Đại biểu Quốc hội

Đại biểu Quốc hội là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt động của xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra bằng tổng tuyển cử tự do. Đại biểu Quốc hội là người đại diện của nhân dân đồng thời là đại biểu cấu thành cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đại biểu Quốc hội vừa chịu trách nhiệm trước cử tri vừa chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình.

Đại biểu Quốc hội có địa vị pháp lý đặc biệt, bao gồm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và hình thức hoạt động được qui định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, qui chế hoạt động của đại biểu Quốc hội. Nhiệm kỳ của đại biểu mỗi khoá Quốc hội bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của khoá Quốc hội đó đến kỳ họp thứ nhất của khoá Quốc hội sau.

Chức năng của đại biểu Quốc hội là hướng hoạt động chủ yếu nhằm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu. Đại biểu Quốc hội có các chức năng cơ bản sau:

– Thu thập và phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

– Nâng ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành ý chí Nhà nước, thành các qui định của pháp luật.

– Đưa các qui định của pháp luật vào thực tế cuộc sống.

8.1. Nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội

Đại biểu Quốc hội phải gương mẫu trong việc chấp hành và tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp và pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản lý Nhà nước.

Tiếp dân là nhiệm vụ thường xuyên của đại biểu để nghe nhân dân góp ý xây dựng Nhà nước đồng thời giúp dân giải quyết những thắc mắc, kiến nghị, khiếu nại và tố cáo.

Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ giữ mối quan hệ và thông báo tình hình hoạt động của mình với Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc địa phương và tham gia các hoạt động của đoàn đại biểu Quốc hội.

8.2. Quyền hạn của đại biểu Quốc hội

Đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước Quốc hội, dự án pháp lệnh ra trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao.

Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu chấm dứt những việc làm trái pháp luật của các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang hoặc cá nhân mà gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của công dân.

Đại biểu Quốc hội có quyền tham gia bầu cử và có thể được bầu vào các Cơ quan nhà nước, các cơ quan lãnh đạo, các tổ chức của Quốc hội; các đại biểu Quốc hội đều bình đẳng trong bầu cử.

Đại biểu Quốc hội có quyền biểu quyết về các dự án luật, các nghị quyết, các dự án, các báo cáo… Đại biểu Quốc hội có quyền biểu quyết tán thành, không tán thành hoặc bỏ quyền biểu quyết.

Đại biểu Quốc hội có quyền tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình được bầu, có quyền phát biểu ý kiến nhưng không có quyền biểu quyết.

8.3. Những đảm bảo cho hoạt động của Đại biểu Quốc hội

Đại biểu Quốc hội có quyền bất khả xâm phạm của đại biểu. Nếu không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội. Chỉ có Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới có quyền đề nghị bắt giam hoặc truy tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét và quyết định.

Đại biểu Quốc hội không thể bị cách chức, buộc thôi việc nếu không được Ủy ban thường vụ Quốc hội đồng ý. Cơ quan, tổ chức nơi đại biểu Quốc hội làm việc phải tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội hoàn thành nhiệm vụ.

Đại biểu Quốc hội được cung cấp đầy đủ tài liệu và thông tin cần thiết để hoạt động, được đài thọ lương và phụ cấp trong thời gian tạm thời không làm công tác thường xuyên của mình mà để làm nhiệm vụ đại biểu, được ưu tiên khám, chữa bệnh theo tiêu chuẩn cán bộ trung cấp… và được hưởng một khoản hoạt động phí hàng năm do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

8.4. Việc bãi nhiệm, mất quyền đại biểu Quốc hội, việc đại biểu Quốc hội xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu

Đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tuỳ theo mức độ sai lầm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm.

Đề Tài Hoàn Thiện Chức Năng Giám Sát Của Quốc Hội Việt Nam

TIỂU LUẬN MÔN: TỔ CHỨC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Đề tài: “Hoàn thiện chức năng giám sát của Quốc hội Việt Nam”. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 NỘI DUNG 4 I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM 4 II. CHỨC NĂNG CỦA QUỐC HỘI VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CHỨC NĂNG ĐÓ 6 1. Chức năng của Quốc hội Việt Nam 6 2. Mối quan hệ giữa các chức năng của Quốc hội Việt Nam 7 III. CHỨC NĂNG GIÁM SÁT 7 1. Giám sát là gì? 7 2. Các cơ quan có quyền giám sát 8 3. Giám sát của Quốc hội 9 IV. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI 11 1. Chủ thể giám sát 11 2. Đối tượng và phạm vi chịu sự giám sát của Quốc hội. 12 3. Nội dung giám sát của Quốc hội 13 4. Các hình thức giám sát của Quốc hội 14 5. Hậu quả pháp lý của giám sát của Quốc hội 19 V. THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN 20 1. Thực tiễn 20 2. Phương hướng hoàn thiện 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO 24 LỜI MỞ ĐẦU Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay, chúng ta thấy rằng mâu thuẫn giữa quyền lợi giai cấp thống trị và giai cấp bị trị luôn luôn gay gắt. Mâu thuẫn đó không thể tự điều hòa được mà phải được giải quyết bằng các cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu. Dưới chế độ phong kiến, mâu thuẫn giai cấp được thể hiện môt cách rõ nét. Giai cấp thống trị thời kỳ này đã thiết lập một chế độ quân chủ chuyên chế dộc tài, tất cả quyền lực nhà nước đều tập trung vào tay nhà vua, nhằm phục vụ cho giai cấp mình, bóp nghẹt những mầm mống dân chủ náy sinh trong xã hội, cướp đi những quyền cơ bản của công dân. Cùng với sự phát triển của kinh tế và những bước tiến vượt bậc về khoa học – kỹ thuật đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, kéo theo đó là trình độ nhận thức của người dân được nâng cao và nhu cầu tự giải phóng mình ngày càng lớn, vấn đề dân chủ được đặt ra. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trở thành một đòi hỏi cấp thiết. Nhiều cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra và giành được thắng lợi, giai cấp phong kiến bị lật dổ. Nhằm đáp ứng với xu thế của thời đại và hạn chế sự độc tài nên sau khi nhà nước tư bản chủ nghĩa được thiết lập trên thế giới cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đã ra đời. Đó chính là Quốc hội. Quốc hội ra đời nhằm khẳng định chủ quyền của nhân dân và cơ sở hợp pháp của chính quyền, đồng thời đảm bảo cho chính quyền được đảm bảo bằng pháp luật và bảo đảm sự có mặt của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của công dân và quyền con người. Quốc hội ra đời đã hạn chế được sự lộng quyền của người đứng đầu và trong quá trình hoạt động của mình đã tiến hành giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước khác nhằm đảm bảo cho xã hội dân chủ hơn. Như vậy, chức năng giám sát được xác định là chức năng không thể thiếu của Quốc hội nhằm đảm bảo cho Quốc hội hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. NỘI DUNG I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM Trong bộ máy nhà nước Việt Nam, quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Vị trí đó được xác định trên cơ sở quy định của Hiến pháp. Ở nước CHXHCN Việt Nam tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình bằng hai hình thức cơ bản: hình thức gián tiếp và trực tiếp. Hình thức trực tiếp tạo nên nền dân chủ trực tiếp. Hình thức gián tiếp tạo nên nền dân chủ đại diện. Trong điều kiện hiện nay, dân chủ đại diện đóng vai trò quan trọng. Nội dung thực hiện nền dân chủ gián tiếp bằng cách thong qua Quốc họi và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội, vì vậy thể hiện tính đại diện nhân dân và tính quyền lực cao nhất trong tổ chức và hoạt động của toàn bộ máy nhà nước. Về cách thức thành lập, quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Bầu cử đại biểu quốc hội là kết quả lựa chọn thống nhất của nhân dân cả nước Về cơ cấu thành phần đại biểu, Quốc hội bao gồm các đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân, cho các vùng lãnh thổ. Quốc hội là sự thể hiện rõ nhất khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta, đại diện cho trí tuệ của đất nước. Về chức năng, nhiệm vụ, Quốc hội có chức năng và nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân và dân tộc, nói lên tiếng nói của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. Ở Việt Nam, chỉ có Quốc hội mới có đủ thẩm quyền quyết định những vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia, các vấn đề trọng đại của đất nước. Sở dĩ như vậy vì Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa là người chủ của quyền lực Nhà nước là nhân dân. Chỉ có Quốc hội mới có quyền biến ý chí của nhân dân thành ý chí của nhà nước, thành luật, thành các quy định chung mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế nhà nước đối với mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Với tính chất là cơ quan quyền lực cao nhất trong hệ thống các cơ quan nhà nước của nhà nước ta, Quốc hội là cơ quan được hiến pháp giành cho vị trí trang trọng nhất, cơ quan đầu tiên trong toàn bộ hệ thống các cơ quan nhà nước được Hiến pháp 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam”. Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân như thông qua Hiến pháp, các đạo luật, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; bầu miễn nhiệm, bãi nhiệm những viên chức cao cấp nhất của bộ máy nhà nước, giám sát tối cao hoạt động của các cơ quan nhà nước; quốc hội biểu hiện tập trung ý chí và quyền lực của nhân dân trong phạm vi toàn quốc. Như vậy, Quốc hội chiếm vị trí cao nhất trong toàn bộ bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam. Không một cơ quan nhà nước nào trong bộ máy các cơ quan nhà nước của ta có được một vị trí như vậy. Sở dĩ Quốc hội có một địa vị như vậy vì Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quốc bầu ra một cách trực tiếp. Với tư cách thành lập này cộng với quan điểm “tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra”, là cơ sở cho quốc hội có quyền lực nhà nước cao nhất ở nước CHXHCN Việt Nam. Việc Hiến pháp quy định như trên cũng là để nhằm mục đích thể hiện rõ bản chất của nhà nước CHXHCNVN, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đúng theo quan điểm tư tuơởng của chủ nghĩa Mác-LêNin về một Nhà nước kiểu mới khác với các Nhà nước trước đây và đây cũng là đặc điểm nói lên sự khác nhau giữa mô hình tổ chức nhà nước ta, Nhà nước CHXHCN với các mô hình tổ chức nhà nước khác nhau của chế độ tư bản chủ nghĩa. II. CHỨC NĂNG CỦA QUỐC HỘI VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CHỨC NĂNG ĐÓ 1. Chức năng của Quốc hội Việt Nam Với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội nước ta có nhưng chức năng quan trọng sau đây: – Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quyền lập hiến và lập pháp của quốc hội xuất phát từ vị trí và tính chất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chỉ có Quốc hội mới có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội của xã hội ta. Các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban hành phải cụ thể hóa Hiến pháp và Luật, không được trái với tinh thần và nội dung của Hiến pháp và Luật. Hiến pháp và luật là hai loại pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất quy định các hoạt động quan trọng của xã hội. Chỉ có Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao mới có quyền thông qua những loại văn bản này. Ngược lại, cũng chính việc quốc hội, cơ quan duy nhất được quyền thông qua các loại văn bản này mới chứng tỏ là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao. – Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt dộng của công dân. – Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệu lực và hiệu quả. Đây là một chức năng quan trọng của Quốc hội.Thông qua việc thực hiện chức năng này cho phép Quốc hội thể hiện mình là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. 2. Mối quan hệ giữa các chức năng của Quốc hội Việt Nam Những chức năng quan trọng này của quốc hội có sự thống nhất và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thông qua nhiệm vụ lập hiến và lập pháp (tức là bằng các đạo luật), Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ khác của mình như quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, chính sách tiền tệ và các lĩnh vực tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Ngược lại, thông qua việc thực hiện chức năng giám sát của mình mà Quốc hội kiểm tra lại chất lượng các đạo luật và các quyết định do mình ban hành để có thể đề xuất sáng kiến sửa đổi, bổ sung hoàn thiện và nâng cao chất lượng của chúng. Cứ như thế trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, hiểu quả và hiệu lực của các hoạt động lập pháp, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao ngày càng được nâng cao. III. CHỨC NĂNG GIÁM SÁT 1. Giám sát là gi? Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động giám sát nên ngay từ khi quốc hội thành lập nhà nước ta đã quy định đây là một trong những chức năng khôngt hể thiếu của Quốc hội. Tuy nhiên, để đánh giá một cách toàn diện về chức năng này của Quốc hội, chúng ta cần làm rõ về giám sát. Hiện nay, cách diễn đạt và biểu hiện ý của từ “giám sát” có khác nhau, nhưng chúng có những điểm chung nhất là: – “Giám sát” dùng để chỉ các hoạt động theo dõi , xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định. – “Giám sát” luôn luôn gắn liền vơíi một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời được câu hỏi: ai (hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi xem xét, kiểm tra và đưa ra những nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định. – “Giám sát”cũng luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời được câu hỏi giám sát ai? Giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ nó phân biệt giữa” giám sát” và ” kiểm tra” .Kiểm tra thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sư tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là việc tự chủ thể kiểm tra của chủ thể hoạt động . Nói cách khác tự chủ thể hoạt động xem xét kĩ để đánh giá tình trạng tốt, xấu của công việc đang làm. Nhưng giám sát thì không có tình trạng tự chủ thể hoạt động theo dõi ,xem xét chính hoạt động của mình. – “Giám sát” phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát tức là chủ thể hoạt động có những quyền và nghĩa vụ gì đối với đối tượng chịu sự giám sát và ngược lại. – “Giám sát” phải được tiến hành trên những căn cứ nhất định, đó là những quy định do chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát đặt ra. Nếu như không có những quết định này thì không có cơ sở để chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát, đưa ra những nhận định về hoạt động ở đối tượng chịu sự giám sát. – “Giám sát” luôn là hoạt động có tính mục đích. Mục đích của giám sát là luôn có được những nhận định chính xác của chủ thẻ có quyền giám sát đối với hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát và từ đó có biện pháp xử lí đối với những việc làm trái quy định của đối tượng chịu sự giám sát. Đảm bảo cho những quy định của chủ thể có quyền giám sát được thực hiện đúng và đầy đủ. 2. Các cơ quan có quyền giám sát Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 thì “giam sát là việc Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hôi, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo dõi xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội” (Điều 2). Như vậy ở đây chúng ta thấy rằng: chủ thể của hoạt động giám sát là Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dan tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội. Đối tượng chịu sự giám sát là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương và nhân dân cả nước. Hoạt động giám sát được thực hiện thông qua việc tiến hành theo dõi, xem xét đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thương vụ Quốc hội. Hiện nay, trong tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta, không chỉ có những chủ thể vừa nêu trên mới có chức năng giám sát. Hoạt động giám sát cũng là một trong nhũng chức năng của VKSND, TAND, HĐND… Tuy nhiên, hoạt động giám sát của những cơ quan này là có sự khác nhau. 3. Giám sát của Quốc hội 3.1. Giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp và pháp luật nhưng có đổi mới, đó là việc phân công, phân cấp rành mạch trong tổ chức nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-LêNin về Nhà nước, muốn quyền lực thực sự là của nhân dân thì phải tập trung thống nhất quyền lực nhà nước cho cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân là Quốc hội, và vì vậy trong nhà nước XHCN, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất đồng thời cũng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hiến pháp của các nước XHCN trước đều quy định và thể hiện nguyên tắc thống nhất, tập trung quyền lực trong tố chức bộ máy nhà nước. Việt Nam cũng vận dụng quan điểm này và điều đó được thể hiện trong các quy định về vị trí pháp lý của Quốc hội thể hiện qua các bản Hiến pháp của Quốc hội nước ta. Như vậy “quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một biện pháp không thẻ tách rời của quyền lực nhà nước và Quốc hội nước ta là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Do đó Quốc hội nắm quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật nhưng có đổi mới, đó là việc phân công, phân cấp rành mạch trong tổ chức nhà nước. 3.2. Những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao. Để bảo đảm tính khách quan trong hoạt động giám sát, bảo đảm cho Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao theo đúng quy định của Hiến pháp và luật khi thực hiên quyền giám sát của mình, quốc hội phải có những căn cứ nhất định: – Thứ nhất: Quốc hội phải căn cứ vào những quy định của Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, vì đó là chuẩn mực, là thước đo, là căn cứ nhận định nội dung của một văn bản nào đó hoặc một việc làm nào đó của các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của quốc hội là hợp pháp hay là không hợp pháp. – Thứ hai: Quốc hội căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội và căn cứ vào báo cáo thực tế hoạt động của nhưng cơ quan nhà nước đó. Trong trường hợp cần thiết, Quốc hội có thể chất vấn hoặc đi xem xét thực tế xem tình hình có đúng như với các cơ quan nhà nước đã báo cáo không. 3.3. Đặc điểm giám sát tối cao của Quốc hội. Sự khác nhau giữa giam sát của Quốc hội và giám sát của các cơ quan nhà nước khác. Giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao và nó có một số đặc điểm riêng như sau: + Quyền giám sát của Quốc hội mang tính quyền lực nhà nước cao nhất. + Hoạt động giám sát của Quốc hội mang tính tổng quát nhất, bao trùm nhất, mang tính định hướng nhất định đối với những vấn đề thuộc tầm vĩ mô, những vấn đề mà nhân đân cả nước quan tâm. + Hoạt động giám sát của Quốc hội được tiến hành với các điều kiện bảo đảm ở mức độ tin cậy cao nhất, toàn diện trên các mặt: Báo cáo, cung cấp thông tin, tư liệu, số liệu và các điều kiện đảm bảo khác. + Áp dung nhiều biện pháp mang tính quyền lực nhà nước cao nhất để xử lý những vấn đề nảy sinh trong giám sát và chịu trách nhiệm pháp lý đối với những người bị giám sát. + Hoạt động giám sát của Quốc hội quan hệ trực tiếp và tác động trực tiếp đến hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhẩt trong hoạt động lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng: Sự khác nhau căn bản giữa quyền giám sat tối cao của Quốc hội với quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và Luật của các cơ quan nhà nước khác như: TAND, VKSND, HĐND… là ở đối tượng chịu sự giám sát và thẩm quyền giải quyết cũng như phương thức hoạt động. Giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao vì nó do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện, nó giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cao nhất, hiệu lực pháp lý của nó là cao nhất vì các Nghị quyết của Quốc hội phải có giá trị pháp lý như là một văn bản buộc các cơ quan nhà nước phải thực hiện. Về phương thức, Quốc hội là cơ quan dân cử, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số chứ không theo cách làm việc với chế độ thủ trưởng như các cơ quan nhà nước khác. IV. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI 1. Chủ thể giám sát. Như chúng ta đã biết, chức năng giám sát của Quốc hội được cụ thể thành các nhiệm vụ và quyền hạn. Quyền giám sát của quốc hội là quyền giám sát tối cao và quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Giám sát là công việc thường xuyên, liên tục trên nhiều phương diện với nhiều nội dung khác nhau. Nhưng Quốc hội nước ta lại hoạt động theo kỳ họp và phần đa các đại biểu Quốc hội là đại biểu chuyên trách. Chính vì vậy hoàt động giám sát của quốc hội không được thường xuyên liên tục, chưa có hiệu lực và hiệu quả cao, mang nặng tính hình thức. Khắc phục điều này, luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định: “Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội” (Điều 1 – Luật hoạt động giám sát của Quốc hội). Như vậy, ngoài Quốc hội còn có những cơ quan và người có thẩm quyền thực hiện quyền giám sát của Quốc hội là: – Ủy ban thường vụ Quốc hội: Thẩm quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định tại Điều 11, 12, 13 của Luật Tổ chức Quốc hội. – Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội: Thẩm quyền giám sát viêc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội được quy định từ điều 23 đến điều 29 của Luật Tổ chức Quốc hội. – Đại biểu Quốc hội: Thẩm quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Đại biểu Quốc hội được quy định tại các Điều 39, Điều 42, Điều 45, Điều 46 của Luật Tổ chức Quốc hội. 2. Đối tượng và phạm vi chịu sự giám sát của Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành, thì Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội co thẩm quyền giám sát đối với các tổ chức, cá nhân sau: – Quốc hội giám sát hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Tòa an nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điểm a, Khoản 1, Điều 3 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội). Như vậy, đối tượng giám sát tối cao của Quốc hội là tầng cao nhất của bộ máy nhà nước. Đó là các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn. – Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát hoạt động Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của Quốc hội. – Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát hoạt động của Chính phủ,

Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam

Chức năng, nhiệm vụ của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam

(Theo Nghị định 94/2008/NĐ-CP, ngày 22/8/2008)

1. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm y tế tự nguyện; tổ chức thu, chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp; quản lý và sử dụng các quỹ: bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp (sau đây gọi chung là bảo hiểm xã hội), bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm y tế tự nguyện (sau đây gọi chung là bảo hiểm y tế) theo quy định của pháp luật.

2. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về bảo hiểm xã hội, của Bộ Y tế về bảo hiểm y tế, của Bộ Tài chính về chế độ tài chính đối với các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

1. Trình Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.

2. Trình Thủ tướng Chính phủ chiến lược phát triển ngành Bảo hiểm Xã hội Việt Nam; kế hoạch dài hạn, năm năm, hàng năm về hoạt động của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam; đề án bảo toàn và tăng trưởng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế sau khi được Hội đồng quản lý Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thông qua; tổ chức thực hiện chiến lược, các kế hoạch, đề án sau khi được phê duyệt.

3. Trách nhiệm và quan hệ của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đối với các Bộ quản lý nhà nước về lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và chế độ tài chính đối với các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế:

a) Đối với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:

– Đề xuất với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội; kiến nghị thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;

– Chịu sự thanh tra, kiểm tra của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội;

– Báo cáo định kỳ 6 tháng một lần và báo cáo đột xuất với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về tình hình thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; tình hình thu, chi và quản lý, sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội.

– Đề xuất với Bộ Y tế xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách về bảo hiểm y tế; kiến nghị thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật;

– Tham gia với Bộ Y tế trong việc xác định mức đóng, phạm vi quyền lợi của người khám, chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế và cơ chế chi trả chi phí khám, chữa bệnh;

– Chịu sự thanh tra, kiểm tra của Bộ Y tế trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế;

– Báo cáo định kỳ 6 tháng một lần và báo cáo đột xuất với Bộ Y tế về tình hình thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm y tế; tình hình thu, chi và quản lý, sử dụng các quỹ bảo hiểm y tế.

– Đề xuất với Bộ Tài chính xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ tài chính đối với các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và cơ chế tài chính áp dụng đối với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam;

– Chịu sự thanh tra, kiểm tra của Bộ Tài chính trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về chế độ tài chính đối với các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế;

– Báo cáo định kỳ 6 tháng một lần và báo cáo đột xuất với Bộ Tài chính về tình hình thu, chi và quản lý, sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

4. Ban hành văn bản hướng dẫn về thủ tục, chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện việc giải quyết chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và thu, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật; ban hành các văn bản cá biệt và văn bản quản lý nội bộ ngành Bảo hiểm Xã hội Việt Nam.

5. Tổ chức thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và tổ chức khai thác, đăng ký, quản lý các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.

6. Ban hành mẫu sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế và tổ chức việc cấp sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế cho những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật.

7. Tổ chức thu các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, người sử dụng lao động và cá nhân theo quy định của pháp luật. Tiếp nhận các khoản kinh phí từ ngân sách nhà nước chuyển sang để chi các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.

8. Tiếp nhận hồ sơ, giải quyết các chế độ ốm đau, thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất; dưỡng sức phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản và sau khi điều trị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; khám, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

9. Tổ chức chi trả lương hưu; trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai sản; trợ cấp mất sức lao động; trợ cấp dưỡng sức phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản và sau khi điều trị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ cấp tử tuất; chi phí khám, chữa bệnh đầy đủ, thuận tiện, đúng thời hạn.

10. Tổ chức thu bảo hiểm thất nghiệp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, người sử dụng lao động và người lao động; tổ chức chi trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, đóng bảo hiểm y tế cho người được hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định của pháp luật.

11. Quản lý và sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bao gồm: quỹ hưu trí, tử tuất; quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; quỹ ốm đau, thai sản; quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện; quỹ bảo hiểm thất nghiệp; quỹ bảo hiểm y tế bắt buộc; quỹ bảo hiểm y tế tự nguyện theo nguyên tắc tập trung thống nhất, công khai, minh bạch, đúng mục đích theo quy định của pháp luật; tổ chức hạch toán các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế thành phần theo quy định của pháp luật.

12. Tổ chức ký hợp đồng, giám sát thực hiện hợp đồng với các cơ sở khám, chữa bệnh có đủ điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, kỹ thuật và giám sát việc cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh, bảo vệ quyền lợi người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế và chống lạm dụng; giới thiệu ng­ười lao động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng Giám định y khoa theo quy định của pháp luật.

13. Tổ chức ký hợp đồng với tổ chức, cá nhân làm đại lý do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn giới thiệu và bảo lãnh để thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở xã, phường, thị trấn.

14. Chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với Bảo hiểm Xã hội Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ; phối hợp với Bảo hiểm Xã hội Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ quản lý việc thực hiện công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ.

15. Kiểm tra việc ký hợp đồng, việc đóng, trả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động, cá nhân, cơ sở khám, chữa bệnh; từ chối việc đóng và yêu cầu chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế không đúng quy định của pháp luật.

16. Giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.

17. Thực hiện hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.

18. Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ công tác của các đơn vị trực thuộc; quyết định phân bổ chỉ tiêu biên chế cho các đơn vị trực thuộc trong tổng biên chế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao; tuyển dụng công chức, viên chức và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật.

19. Quản lý tài chính, tài sản của hệ thống Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và tổ chức thực hiện công tác thống kê, kế toán về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.

20. Quyết định và tổ chức thực hiện kế hoạch cải cách hành chính của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam theo mục tiêu, yêu cầu, chương trình, kế hoạch cải cách hành chính nhà nước của Chính phủ và sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện cơ chế một cửa liên thông trong giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

21. Lưu trữ hồ sơ của đối tượng tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.

22. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong thống kê và quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

23. Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

24. Định kỳ 6 tháng, báo cáo Hội đồng quản lý Bảo hiểm Xã hội Việt Nam về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Hàng năm, báo cáo Chính phủ về tình hình quản lý và sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

27. Phối hợp theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm tra, thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

28. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.

Thăm dò ý kiến

Mức độ hài lòng của độc giả với Cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ?

Lượt truy cập

Khách online

11

Thực Hiện Chức Năng Giám Sát Và Phản Biện Xã Hội Của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Hiện Nay

Giám sát và phản biện xã hội là yêu cầu khách quan, mang tính phổ biến trong việc tổ chức và vận hành quyền lực chính trị của các nhà nước dân chủ. Nó là một trong những bộ phận cấu thành hệ thống kiểm soát quyền lực nhằm khắc phục xu hướng lạm quyền, tha hóa quyền lực nhà nước và là một phần tất yếu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và thực thi dân chủ.

Hoạt động giám sát ở nước ta, cho đến nay, về thực chất, chủ yếu nằm trong hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước mà cụ thể là của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Hoạt động này cùng với hoạt động kiểm tra của Đảng, hoạt động thanh tra của chính quyền làm thành hệ thống kiểm soát quyền lực từ “bên trong” hệ thống chính trị. Hoạt động giám sát và phản biện xã hội tuy đã được các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước quy định, nhưng nhìn chung chưa phát huy tác dụng góp phần kiểm soát quyền lực. Đây là một trong những lý do chủ yếu khiến cho nền chính trị ở nước ta tồn tại dai dẳng nhiều vấn đề bức xúc như nạn tham nhũng, tệ quan liêu cửa quyền của các cơ quan và công chức hành chính, tình trạng lãng phí ngân sách và tài nguyên quốc gia, tình trạng vi phạm dân chủ… Tình trạng này đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu hệ thống kiểm soát quyền lực trong đó có vấn đề giám sát và phản biện xã hội.

Hệ thống giám sát và phản biện xã hội ở nước ta gồm nhiều chủ thể, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò quan trọng đặc biệt. Hoạt động giám sát của Mặt trận và các đoàn thể được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1992 (bổ sung, sửa đổi năm 2001), sau đó là Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1999) và trong nhiều văn bản pháp luật khác. Cho đến nay, nhìn chung hoạt động này vẫn rất hạn chế về hiệu quả, thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng nó còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất và là nội dung yếu nhất trong phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận còn tỏ ra lúng túng về nội dung, phương pháp thực hiện, dẫn đến hiệu quả rất hạn chế, chưa ngang tầm vị trí pháp lý – chính trị của mình.

Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là công cụ kiểm soát quyền lực của nhân dân. Thực hiện tốt hoạt động giám sát và phản biện xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ góp phần vào việc giải quyết nhiều vấn đề bức xúc vi phạm quyền lực của nhân dân hiện nay. Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội mà Nghị quyết Đại hội X của Đảng nêu ra “là nhiệm vụ mới, rất quan trọng và nhạy cảm, cần được nghiên cứu thận trọng và tổ chức triển khai có hiệu quả” như Nhận định của Bộ Chính trị tại Thông báo số 73, ngày 10-5-2007.

Để giúp bạn đọc hiểu thêm về hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật xuất bản cuốn sách Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay của TS. Nguyễn Thọ Ánh.

Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:

Chương I: Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Một số vấn đề lý luận

Chương II: Thực trạng và những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong quá trình thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay

Chương III: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Cuốn sách khẳng định hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đòi hỏi cấp bách và tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.