CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Báo chí là loại hình hoạt động thông tin chính trị xã hội có những chức năng xã hội của mình. Chỉ có hiểu những chức năng xã hội của báo chí là gì; bao gồm những chức năng nào; được thực hiện bằng cách nào … thì mới có thể bàn đến nội dung của hoạt động báo chí. I. KHÁI NIỆM 1. Thuật ngữ chức năng: – Theo từ điển tiếng Việt: Chức năng là: + Hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan, một hệ cơ quan nào đó trong cơ thể. + Tác dụng, vai trò bình thường hoặc đặc trưng của một người nào đó, một cái gì đó. – Theo ngữ nghĩa: Chức năng – tiếng La tinh là Functio được hiểu là sự tổng hợp vị trí, vai trò và tác dụng của một đối tượng, của một hoạt động nào đó. Mỗi một đối tượng tồn tại và vận động, mỗi loại hình hoạt động đều nhằm thực hiện những chức năng nhất định nào đó. Chức năng quy định cả hình thức của hoạt động, cả chất lượng của hoạt động, cả đặc điểm của hoạt động. Muốn hiểu và đánh giá đúng được kết quả hoạt động phải đặt nó trong mối tương quan với nhiệm vụ – như là biểu hiện cụ thể của chức năng. Hiểu được chức năng thì mới hiểu được bản chất của đối tượng nghiên cứu, mới xác định được phương hướng và phương pháp hoạt động, và do đó mới có thể hoạt động một cách phù hợp và có hiệu quả. Hay nói cách khác – chức năng là nhiệm vụ mang tính bản chất, nhiệm vụ khách quan. Như vậy, chức năng không phải là sự áp đặt một cách chủ quan, mà nó tồn tại một cách khách quan trên cơ sở của những quy luật nội tại của loại hình hoạt động. 2. Chức năng xã hội của báo chí: – Từ thuật ngữ chức năng báo chí (đồng nghĩa với các thuật ngữ sứ mệnh; bổn phận vốn có của báo chí, cái báo chí sinh ra để làm), ta hiểu được vị trí, vai trò và tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội. Sự ra đời và tồn tại của báo chí đã khẳng định một cách khách quan vị trí, vai trò và tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội. Tổng hợp vị trí, vai trò và tác dụng của báo chí cũng chính là chức năng xã hội của báo chí. Toàn bộ hoạt động của con người (hoạt động có ý thức), trong đó có hoạt động báo chí luôn mang đặc điểm mục tiêu. Con người chỉ bắt tay vào hoạt động khi đã xác định được mục tiêu, dự định đạt được kết quả mong muốn. Đối với nhà báo – xác định mục tiêu hoạt động phải phù hợp với những chức năng xã hội của báo chí. Thiếu hiểu biết đầy đủ về chức năng báo chí hoạt động của nhà báo có thể sẽ mâu thuẫn với những chức năng vốn có của báo chí. Chức năng của báo chí được hình thành không phải là do sự áp đặt một cách chủ quan từ đâu đó hay từ ai đó, mà tồn tại một cách khách quan trên cơ sở những quy luật nội tại của báo chí. Nói về tính khách quan của những chức năng trên cơ sở của những quy luật nội tại của báo chí – C.Mác viết: “… muốn cho báo chí có thể hoàn thành sứ mệnh của mình thì trước hết cần phải không có áp lực nào từ bên ngoài vào, cần phải thừa nhận là báo chí có những quy luật nội tại của mình”. (C.Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập; Tập 1, tr.227). Vậy những nhiệm vụ khách quan đó của báo chí là gì? Do có vị trí đặc biết trong hệ thống xã hội và có ảnh hưởng to lớn đến các mặt của đời sống xã hội, vai trò của báo chí không chỉ thể hiện trong số lượng các mối quan hệ, trong khối lượng và ý nghĩa của những thông tin về các lĩnh vực mà báo chí phản ánh, mà còn ở chất lượng của các mối qaun hệ đó, có nghĩa là mở rộng phạm vi chiếm lĩnh thực tế, chú ý tới các lĩnh vực mới, thu hút các đối tượng công chúng mới, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu thông tin của công chúng … Do đó, nhận thức rõ nhiệm vụ khách quan (chức năng) của báo chí là rất phức tạp. Lý luận báo chí của chủ nghĩa Mác- Lê nin và thực tiẽn hoạt động của báo chí cách mạng đã cho thấy báo chí tác động tới xã hội theo nhiều khuynh hướng, thực hiện một số nhóm chức năng: Chức năng tư tưởng, chức năng quản lý – giám sát xã hội, chức năng khai sáng – giải trí, chức năng kinh doanh … II. NHÓM CHỨC NĂNG TƯ TƯỞNG – Hoạt động tư tưởng là hoạt động tác động vào thế giới tinh thần của con người hình thành hệ ý thức xã hội cho phù hợp với những mục tiêu đã xác định. Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn coi trọng công tác tư tưởng, coi công tác tư tưởng là một trong số những công tác quan trọng nhất, song song với công tác tổ chức và công tác kiểm tra. Nội dung công tác tư tưởng của Đảng ta: – Truyền bá hệ tư tưởng. – Truyền bá Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng. Mục đích của công tác tư tưởng: – Để quần chúng nhân dân biến hệ tư tưởng của Đảng thành hệ tư tưởng của quần chúng nhân dân. – Để giác ngộ, nâng cao tính tự giác cho quần chúng nhân dân. – Để bồi dưỡng niềm tin, tình cảm cách mạng, cổ vũ hành động. Các loại hình của công tác tư tưởng: – Hoạt động lý luận (Quán triệt và phổ biến hệ tư tưởng; Tổng kết thực tiễn để hình thành đường lối chiến lược , chủ trương, chính sách). – Hoạt động tuyên truyền. – Hoạt động cổ động. (Khi đã có đường lối chiến lược, Chủ trương, chính sách … thì tuyên truyền và cổ động cho chúng). Các công cụ tư tưởng: – Hệ thống các trường lớp chính trị. – Sinh hoạt tư tưởng theo các cơ quan, đoàn thể, đơn vị, tổ chức … – Đội ngũ báo cáo viên. – Bảo tàng, Triển lãm, Pa nô, Áp phích, Các đội tuyên truyền … – Văn học nghệ thuật. – Báo chí (bao gồm các loại hình) là công cụ đặc biệt quan trọng. Trong số các công cụ tư tưởng của Đảng thì báo chí đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Chính vai trò, tác dụng của báo chí trong việc giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với quần chúng nhân dân đã tạo thành nhóm chức năng tư tưởng của báo chí. Báo chí là công cụ tư tưởng quan trọng bởi lẽ báo chí hàng ngày hàng giờ thông qua hoạt động chuyển tải thông tin truyền bá hệ tư tưởng của Đảng vào quần chúng nhân dân, hướng tính tích cực xã hội của quần chúng nhân dân vào việc thực hiện những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Nhóm chức năng tư tưởng của báo chí bao gồm các thành tố: 1. Chức năng mục tiêu: – Lý luận báo chí cách mạng đã chỉ rõ ý nghĩa to lớn của báo chí trong việc hình thành đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân. Vai trò của báo chí cũng tăng nhanh đồng hành với sự phất triển của xã hội cùng với việc mở rộng quy mô của các hoạt động xã hội và thu hút quần chúng nhân dân tham gia vào các phong trào, các hoạt động xã hội. – Báo chí làm nhiệm vụ khách quan là chuyển tải thông tin một cách nhanh chóng, toàn diện và có định hướng. Cũng như mọi hoạt động khác của con người, hoạt động báo chí bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu xác định. Mục tiêu của hoạt động báo chí là nâng cao tính tự giác cho đối tượng công chúng. (Tự giác là làm việc gì tự mình hiểu mà làm, không cần phải nhắc nhở, đốc thúc). Để nâng cao tính tự giác cho công chúng, báo chí phải nâng cao nhận thức và tự nhận thức cho họ. Nhận thức và tự nhận thức nằm trong mối quan hệ biện chứng. Nhận thức (là khả năng của con người phản ánh và tái hiện hiện thực vào tư duy) – là toàn bộ những tri thức về thế giới xung quanh: những quy luật, những hiện tượng, những khuynh hướng, những quá trình của đời sống xã hội. Còn tự nhận thức là hiểu được vị trí của mình trong thế giới, trong các mối quan hệ xã hội; hiểu được mục đích, ý nghĩa của cuộc sống, hiểu được mục đích và yêu cầu, hiểu được cách thức để đạt được mục đích và thỏa mãn những nhu cầu ấy … Sự tự giác là kết quả của nhận thức và tự nhận thức. Tự giác là động lực mạnh mẽ của hành vi, nó quy định tính tích cực xã hội của con người. – Để thực hiện tốt chức năng mục tiêu – báo chí phải: + Giúp cho công chúng nhận thức thế giới khách quan một cách toàn diện, sâu sắc và đúng đắn. + Định hướng xã hội cho công chúng một cách toàn diện, đúng đúng đắn và khoa học. 2. Chức năng định hướng. Để nâng cao tính tự giác cho đối tượng công chúng đòi hỏi báo chí phải định hướng cho họ một cách toàn diện và đúng đắn. Định hướng xã hội – là tác động, giáo dục, giúp đỡ cho công chúng hiểu và đánh giá đúng các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội để từ đó họ xác định được mục tiêu, khuynh hướng và đặc điểm hành vi của mình. Sự định hướng như vậy thể hiện ở các mặt: – Thứ nhất: Qua thông tin báo chí cung cấp giúp cho công chúng hiểu được cái gì đang diễn ra. Sự định hướng bắt đầu từ hiểu biết tất cả các sự kiện hàng ngày diễn ra trong thế giới xung quanh để tạo thành bức tranh toàn cảnh về thế giới khách quan của con người mà con người sống trong nó. Đối với báo chí, mô hình thông tin, hệ thống các khái niệm về cuộc sống là rất quan trọng. – Thứ hai: Qua việc cung cấp thông tin báo chí giúp cho công chúng xác định rõ được rằng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể cần đạt tới cái gì, cả về trước mắt, cả về lâu dài từ quan điểm chính thống. – Thứ ba: Sự định hướng được thể hiện qua việc đánh giá các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng, các nhân vật … (Đương nhiên là từ quan điểm chính thống). Sự đánh giá đó sẽ có sức thuyết phục, tác động mạnh mẽ tới đối tượng khi nó như là những kết luận được rút ra từ việc phân tích các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng, các nhân vật … ấy của thực tiễn (từ quan điểm chính thống). – Thứ tư: Sự định hướng còn thể hiện ở việc phổ biến những giá trị, những chuẩn mực, những phương thức, phương pháp hoạt động … nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra và đạt được những kết qủa cao nhất trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Kết quả định hướng của báo chí đến mức nào phụ thuộc vào mức độ công khai các vấn đề của đời sống xã hội; vào sự dễ hiểu, cập nhật của thông tin; vào khả năng phản ánh và xem xét công khai, thẳng thắn các vấn đề của đời sống xã hội trên báo chí. Định hướng của báo chí trong thực tế có thể toàn diện, sâu sắc và đúng đắn; có thể toàn diện nhưng không sâu sắc và đúng đắn; và cũng có thể là rất yếu kém. Báo chí cách mạng – với bản chất giai cấp và vai trò lịch sử của mình – phải định hướng một cách sâu sắc, toàn diện và đúng đắn, hình thành ý thức khoa học và tiến bộ cho công chúng xã hội, làm sao để công chúng báo chí nhận thức đúng về thế giới xung quanh, hiểu được vị trí và vai trò của mình để lựa chọn thái độ và hành vi cho phù hợp. Định hướng xã hội toàn diện, sâu sắc, đúng đắn và khách quan sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động của công chúng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xã hội đã đề ra. Báo chí thực hiện chức năng mục tiêu, hình thành tính tự giác thông qua định hướng xã hội một cách toàn diện, sâu sắc, đúng đắn và khách quan – mang đặc điểm tổng hợp; có nghĩa là báo chí phải tác động tới các mặt của thế giới tinh thần, tới toàn bộ các bộ phận cấu thành của cấu trúc ý thức xã hội: Thế giới quan; Ý thức lịch sử, văn hóa và Dư luận xã hội. Thế giới quan: là quan niệm thành hệ thống về thế giới, về các hiện tượng tự nhiên và xã hội. TGQ thể hiện cả ở 2 phương diện: bức tranh thực tiễn về thế giới và mối quan hệ, quan điểm về thế giới. Hệ thống quan niệm này quy định lập trường, quan điểm, niềm tin, lý tưởng … của con người. TGQ là lăng kính mà thông qua đó con người nhận thức và đánh giá thế giới xung quanh, thẩm định các giá trị vật chất và tinh thần, bày tỏ thái độ trước các sự kiện, hiện tượng … của đời sống xã hội, xác định mục đích, phương hướng và đặc điểm của hành vi. TGQ là hạt nhân của cấu trúc ý thức xã hội, được hình thành là do cả một quá trình và nó bền vững, chậm thay đổi. Ý thức lịch sử, văn hóa: là thành tố thứ 2 của cấu trúc ý thức xã hội, nó đóng vai trò trung gian, truyền dẫn giữa TGQ và Dư luận xã hội (DLXH). Ý thức lịch sử, văn hóa là quan niệm của con người về lịch sử, về hiện tại trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai. Để xem xét, thẩm định và đánh giá các sự kiện, hiện tượng của thực tiễn, con người phải hiểu và biết được lịch sử hình thành và vận động của thực tiễn, các mối quan hệ của thực tiễn với thời đại, với môi trường tự nhiên và xã hội … Bởi lẽ hiện tại như là quá trình vận động và phát triển của quá khứ, bị quy định bởi quá khứ và ảnh hưởng đến tương lai. Sự hình thành ý thức lịch sử, văn hóa do nhiều yếu tố: văn hóa truyền thống, kiến thức được trang bị bởi hệ thống nhà trường từ thấp đến cao, văn học nghệ thuật, các phương tiện thông tin đại chúng và tuyên truyền, kinh nghiệm sống … trong đó báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng do khả năng cung cấp thông tin nhanh, đa dạng và phong phú: phổ biến những tri thức, những kinh nghiệm, những giá trị lịch sử, thẩm định và cổ động cho những giá trị lịch sử, tạo môi trường cho sự hình thành ý thức lịch sử, văn hóa. Dư luận xã hội: là thành tố động nhât, linh hoạt nhất của ý thức xã hội. DLXH là phản ứng, thái độ của xã hội trước một sự kiện, hiện tượng, vấn đề … hay một nhân vật nào đó. Đối tượng của DLXH là toàn bộ các sự kiện, hiện tượng … của đời sống xã hội. Chủ thể của DLXH là các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các nhóm xã hội, các vùng hay địa phương … DLXH xem xét và đánh giá các sự kiện thường ngày của đời sống xã hội xuất phát từ mối liên hệ đối với chúng. DLXH có thể tiến bộ, có thể lạc hậu, có thể thúc đẩy, có thể kìm hãm sự tiếp thu cái mới, sự phát triển của xã hội. Các thành tố của ý thức xã hội nằm trong mối liên hệ chặt chẽ, vận động một cách linh hoạt dưới sự tác động của thực tiễn. 3. Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng. Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng của báo chí được thể hiện ở sự giáo dục, bao gồm giáo dục thường xuyên và giáo dục lại đối với công chúng báo chí. Giáo dục – là hoạt động nhằm hình thành ý thức ở đối tượng. Khi nhận được những thông tin (về quá khứ và hiện tại, về những quy luật vận động và phát triển của xã hội, về những giá trị và chuẩn mực của cuộc sống …) tạo ra sự thay đổi về chất trong mỗi con người. Nếu những thông tin tiếp nhận ấy là chân thực và khách quan thì quan điểm riêng được hình thành sẽ là tích cực (và ngược lại). Để đạt được hiệu quả giáo dục, báo chí khi truyền bá những thông tin về thực tiễn phải giúp cho công chúng hiểu biết được những quy luật, những sự kiện, hiện tượng, những quá trình của đời sống xã hội, phải quan tâm đến việc tạo ảnh hưởng tư tưởng mạnh mẽ tới họ, phải phối hợp và gắn với những giá trị, những chuẩn mực, những tư tưởng hiện hành, có nghĩa là gắn với chức năng mục tiêu của hoạt động thông tin, với toàn bộ các hình thức định hướng xã hội. Nội dung quan trọng nhất của giáo dục là hình thành tư duy kinh tế, giáo dục ý thức chính trị, ý thức lao động, ý thức đạo đức, ý thức luật pháp, tinh thần yêu nước … và đấu tranh chống lại những tư tưởng và những chuẩn mực đạo đức xa lạ. Hoạt động giáo dục trong báo chí góp phần tạo ra niềm tin của công chúng. Sự xuất hiện của niềm tin đối với báo chí – đó là kết quả của việc tiếp thu thông tin cá nhân, hình thành từ sự tin tưởng vào những phản ánh, phân tích và đánh giá, đề xuất, kiến nghị và kết luận của báo chí. Niềm tin đối với báo chí khác với đức tin trong tôn giáo. Đức tin trong tôn giáo là sự ngộ nhận thiếu bằng chứng … còn niềm tin đối với báo chí được hình thành từ báo chí và do báo chí – thông qua những bằng cớ xác thực của thực tiễn. (Thông qua kỹ năng phản ánh, phân tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng … hàng ngày của báo chí). Do vậy, để hình thành niềm tin của công chúng, đòi hỏi báo chí phải sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các phương pháp tái tạo thực tiễn trong các tác phẩm báo chí, vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những đặc điểm, những quy luật của hoạt động tuyên truyền, cổ động và tổ chức mà nhờ những phương pháp này thực hiện một cách hiệu quả nhiệm vụ giáo dục của báo chí. – Tuyên truyền: là hoạt động truyền bá những tư tưởng nền tảng, quan điểm cơ bản của hệ tư tưởng của chế độ. Nội dung tuyên truyền cơ bản: + Tuyên truyền hệ tư tưởng. + Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. + Tuyên truyền các quan niệm khái quát về thời đại. + Tuyên truyền hình thành lối sống mới. – Cổ động: là hoạt động của báo chí để phổ biến những thông tin thời sự, tác động tích cực và có định hướng vào lập trường, thái độ, tình cảm … của công chúng. Bằng những thông tin phản ánh các sự kiện, hiện tượng hàng ngày về thực tiễn, cổ động được thể hiện trong những đánh giá rõ ràng nhằm hình thành nên mối quan hệ của công chúng với các sự kiện, hiện tượng ấy cho phù hợp với ý nghĩa của nó, định hướng hoạt động cho công chúng. – Tổ chức: Kết quả hoạt động tuyên truyền và cổ động của báo chí được phản ánh trong việc hình thành ý thức và tự ý thức ở công chúng, trong việc giáo dục ý thức, trong việc định hướng toàn diện, sâu sắc và đúng đắn (khoa học). Đó là bước đi đầu tiên, quan trọng của công tác tổ chức. Nó tạo điều kiện quan trọng và cần thiết cho tính tích cực trong các hoạt động xã hội của công chúng để chuyển sang bước thứ hai: tập hợp và hướng dẫn hoạt động của công chúng nhàm thực hiện những mục tiêu chung của xã hội trong từng giai đoạn xã hội cụ thể. Tuyên truyền, cổ động và tổ chức có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đan xen trong nhau, là điều kiện và tiền đề của nhau khó có thể phân định rạch ròi. III. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ – GIÁM SÁT XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ 1. Khái niệm. a). Quản lý – là sự tác động có ý thức, có hệ thống của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đảm bảo cho khách thể quản lý hoạt động có hiệu quả trong việc thực hiện những mục tiêu đã đề ra. b). Quản lý xã hội – khách thể quản lý là những tổ chức, những đơn vị, những cơ quan, đoàn thể, những cá nhân thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, của cả xã hội nói chung. Xã hội bản thân nó là một thực thể cực kỳ đa dạng và phức tạp về số lượng và chất lượng của các bộ phận cấu thành, về vị trí của chúng trong hệ thống xã hội, về chức năng xã hội của chúng, về tính chất của sự tác động lẫn nhau giữa chúng với nhau và giữa chúng với thế giới xung quanh. Mỗi một khách thể đó lại thuộc về một lớp những hệ thống hỗn hợp (chủ thể quản lý) lớn hơn (bao gồm cả yếu tố con người và sự vật). c). Bản chất của hoạt động quản lý – Chủ thể quản lý tác động tới khách thể quản lý bằng thông tin dưới dạng các quyết định quản lý. Hoạt động quản lý do vậy luôn gắn với quá trình thu thập, xử lý thông tin để soạn thảo các quyết định quản lý và khi đã có quyết định quản lý thì phổ biến những quyết định quản lý ấy một cách nhanh chóng, đầy đủ … tới khách thể quản lý. Hoạt động quản lý là hoạt động mang tính chu kỳ. Bất kỳ một chu kỳ quản lý nào cũng bắt đầu từ việc thu thập, xử lý thông tin và kết thúc bằng việc thu nhận những thông tin và cũng là điểm bắt đầu của chu kỳ quản lý mới. Việc khởi thảo chiến lược quản lý (những mục tiêu và nhiệm vụ lâu dài), soạn thảo và lựa chọn các quyết định quản lý, tổ chức thực hiện các quyết định quản lý, điều chỉnh và kiểm tra, tổng kết và đánh giá … cũng xuất phát từ việc thu thập thông tin, xử lý những thông tin thu thập được và kết thúc bằng việc phổ biến những thông tin mới. Như vậy, quản lý xã hội không thể tách rời quá trình liên tục sản xuất và tái sản xuất thông tin. Hiệu quả của hoạt động quản lý do vậy bị quy định bới sự “nhiễu thông tin” và trình độ, năng lực của chủ thể quản lý. – Nhiễu thông tin – là những yếu tố bên ngoài tác động thường xuyên, liên tục (cả tác động tích cực, cả tác động tiêu cực) vào quá trình quản lý. Sự tác động như vậy rất đa dạng. Một số có tác động với cường độ yếu, tác động trong một thời gian ngắn. Số khác tác động yếu nhưng lại thường xuyên hoặc lâu dài không làm rối loạn nghiêm trọng cơ cấu và chức năng của cả hệ thống. Thông tin đầy đủ và kịp thời về những tác động “nhiễu” như vậy tạo điều kiện cho chủ thể quản lý ổn định hệ thống trong trường hợp “nhiễu” yếu và thời gian tác động ngắn, và thích ứng, thích nghi trong trường hợp tác động “nhiễu” thường xuyên hay lâu dài. Có những tác động “nhiễu” phá hoại cơ cấu quản lý và gây rối loạn các chức năng của cả hệ thống hay một số bộ phận cấu thành nào đó của hệ thống quản lý. Để khắc phục – chủ thể quản lý phải khôi phục cơ cấu chức năng nhằm ổn định hệ thống, duy trì hoạt động của hệ thống. Để làm được điều đó cần phải thu thập thông tin đầy đủ và chính x
Top 7 # Chức Năng Dự Báo Của Xã Hội Học Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend
Tổng hợp các bài viết thuộc chủ đề Chức Năng Dự Báo Của Xã Hội Học xem nhiều nhất, được cập nhật mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung Chức Năng Dự Báo Của Xã Hội Học để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Chức Năng Nhận Thức Và Dự Báo Của Văn Học
Văn học nghệ thuật tồn tại trước hết với tư cách của một hình thái nhận thức, có khả năng mở rộng sự hiểu biết của con người. Mỗi tác phẩm văn học từ xưa tới nay đều có giá trị như một thành tựu trên chặng đường nhận thức chung của nhân loại. Vì thế, văn học luôn đưa ta tới những chân trời mới, giúp ta hiểu hơn cuộc sống không chỉ trong hiện tại mà cả trong quá khứ, không chỉ trong phạm vi đất nước mình mà cả ở những xứ sở xa xôi.
Vì vậy chức năng đầu tiên của văn học là chức năng nhận thức và dự báo. Văn học đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người, trở thành “cuốn sách giáo khoa của đời sống”. Khi nắm bắt đời sống trong tính toàn vẹn thẩm mỹ của nó, nhà văn thường đem vào trong tác phẩm của mình một lượng thông tin phong phú và sinh động về đối tượng mà mình miêu tả. Đó là lượng thông tin thẩm mĩ, giàu hình tượng, dễ tiếp nhận đối với mọi người.
Trong tác phẩm “Ông già và biển cả” chúng ta có thể hiểu thêm về biển, về sự phát hiện những quá trình vật lí, sinh học diễn ra trong lòng đại dương mà còn ở sự khám phá về mối tương quan giữa con người và biển, về bản lĩnh và khát vọng của con người trong cuộc đấu tranh xác lập ý nghĩa tồn tại của mình trước thế giới tự nhiên và thế giới con người.
Phản ánh cuộc sống một cách toàn vẹn, sinh động, văn học còn có khả năng vươn tới tầm cao của sự khái quát, nắm bắt sự vận động bên trong của đời sống hiện thực. Chính từ độ chín của sự khám phá, khái quát ấy, văn học có khả năng dự báo tương lai.
Nhờ năng lực ước đoán, tưởng tượng và sự nhạy cảm trước mọi biến động của lịch sử, nhiều nhà văn dự cảm được những biến động của lịch sử, những quá trình xã hội mới ngay khi thực tế đời sống quanh mình vẫn còn trong trạng thái bốn phương phẳng lặng.
Nhà văn tài năng sẽ không đóng khung cuộc sống trong cái nhìn tĩnh quan mà luôn nhìn nhận đánh giá trong sự vận động, phát triển. Yếu tố tiên tri như một phẩm chất chung của những thành tựu văn học lớn. Tuy nhiên, mức độ dự báo, tính chất và nội dung dự báo không phải như nhau trong mỗi trào lưu văn học.
Bên cạnh những tác phẩm tràn đầy dự cảm lạc quan và niềm tin mạnh mẽ vào con người cũng có không ít những tác phẩm, những xu hướng văn học bộc lộ thái độ bi quan, tuyệt vọng trước tương lai loài người. Đối mặt với hiện tại, thâm nhập sâu rộng vào quá trình thực tiễn, văn học hiện thực chủ nghĩa dễ nắm bắt được những tín hiệu của tương lai.
Please follow and like us:
Comments
Chức Năng Phản Biện Xã Hội Của Báo Chí Ở Việt Nam Hiện Nay
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN MINH
CHøC N¡NG PH¶N BIÖN X· HéI CñA B¸O CHÝ ë VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành
: Chính trị học
Mã số
: 62 31 20 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS,TS LÊ MINH QUÂN 2. GS,TS NGUYỄN VĂN HUYÊN
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, số liệu tham khảo, trích dẫn trình bày trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận án
Nguyễn Văn Minh
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
8
1.1.
BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
Phản biện xã hội và phản biện xã hội của báo chí Chức năng phản biện xã hội của báo chí và các tiêu chí đánh giá việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí Chương 3: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Những yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay 3.2. Những thành tựu, hạn chế và vấn đề đặt ra trong việc thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay đánh giá theo các tiêu chí của phản biện xã hội của báo chí Chương 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNCAO
3.1.
CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.
4.2.
Những quan điểm cơ bản về nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93
104
138
138
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTB
:
Chủ nghĩa tư bản
CNXH
:
Chủ nghĩa xã hội
DLXH
:
Dư luận xã hội
HTCT
:
Hệ thống chính trị
MTTQ
:
Mặt trận Tổ quốc
PBXH
:
Phản biện xã hội
QLCT
:
Quyền lực chính trị
QLNN
:
Quyền lực nhà nước
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Báo chí cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập và lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lấy việc phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao cả của mình. Báo chí cách mạng nước ta được xác định là công cụ chủ yếu trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, phát luật của Nhà nước, tập hợp và đoàn kết, nâng cao và bồi dưỡng tri thức khoa học và tình cảm cách mạng trong quần chúng nhân dân. Từ khi ra đời, báo chí cách mạng nước ta đã có những đóng góp to lớn và hiệu quả vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng bảo vệ và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, báo chí nước ta đã đóng góp to lớn vào những thành tựu chung của đất nước, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, trở thành nước đang phát triển với mức thu nhập trung bình (ở mức thấp); giữ vững ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại; đưa đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế. Trong thời kỳ đổi mới, báo chí nước ta phát triển ngày càng mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng; chức năng, nhiệm vụ của báo chí ngày càng được mở rộng và nâng cao; báo chí không chỉ là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, mà còn là diễn đàn, là tiếng nói của nhân dân; không chỉ đưa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân, mà còn phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân đến với Đảng và Nhà nước. So với trước thời kỳ đổi mới, chức năng và nhiệm vụ của báo chí nước ta đã có sự đổi mới đáng kể. Trước đổi mới báo chí nước ta chỉ thực hiện
3 thành và phát triển. Tuy nhiên, PBXH của báo chí còn thấp so với yêu cầu, chưa kịp thời và hiệu quả còn hạn chế. Thực tiễn công cuộc đổi mới ngày càng định hình và làm rõ những chức năng của báo chí, trong đó có chức năng PBXH. Đến nay chức năng này được các cá nhân, tổ chức, thường xuyên đề cập, sử dụng đến thuật ngữ “chức năng phản biện của báo chí”. Đã có nhiều cuộc hội thảo, diễn đàn trao đổi về nội dung này và các ý kiến tập trung cho rằng cần phải khẳng định và tăng cường chức năng này trong hoạt động báo chí. PBXH của báo chí không chỉ còn là vấn đề chính trị, pháp lý mà còn là vấn đề văn hóa (văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật, văn hóa đổi mới, v.v.); là vấn đề dám nghĩ và dám làm, dám tranh luận và phản biện, dám tiếp thu và sửa chữa trước yêu cầu khách quan của thực tiễn đổi mới đất nước. Ở các nước phương Tây, với sự tồn tại của xu hướng chính trị và quyền lực khác nhau, sự tranh giành ảnh hưởng và uy tín trong xã hội đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, PBXH của báo chí có vị trí và vai trò rất lớn. Trong xã hội dân chủ tư sản, ý kiến của đại đa số nhân dân và dư luận xã hội được coi là áp lực quan trọng thậm trí đối trọng với quyền lực nhà nước. “Sức mạnh của báo chí truyền thông chính là bắt nguồn từ sức mạnh dư luận xã hội. Do đó nói báo chí là quyền lực thứ tư thực chất là quyền lực của nhân dân của dư luận xã hội mà báo chí là kênh truyền dẫn và liên kết sức mạnh của dư luận xã hội” [35, tr.56]. Với PBXH, báo chí ở đây đã trở thành một loại quyền lực xã hội, giám sát và đối trọng với chính quyền. Ở nước ta, trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo xã hội và trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì PBXH, trong đó có PBXH của báo chí càng trở nên cần thiết. PBXH nói chung và của báo chí nói riêng giúp cho các cấp ủy Đảng, chính quyền hạn chế được những bất cập và, thậm chí, những thiếu sót, sai lầm trong quá trình xây dựng và
8 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học, đề tài, sách báo, bài viết ở trong và ngoài nước nghiên cứu, bàn về chức năng, nhiệm vụ PBXH của báo chí dưới nhiều góc độ khác nhau. Đó là những vấn đề lý luận và phương pháp cơ bản, có giá trị, làm cơ sở và định hướng cho quá trình nghiên cứu của luận án. 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về phản biện xã hội Ở Mỹ, trong các cuốn sách: “The Governmental Proceses” (Các quá trình chính phủ) của David B.Truman [127] và “Dilemmas of Pluralistdemocracy” (Những nan giải của nền dân chủ đa nguyên) của Robert chúng tôi [139], các tác giả của nó – những người theo chủ nghĩa đa nguyên đã tập trung phân tích sự hình thành của các nhóm lợi ích, các tổ chức chính trị xã hội cùng với các quá trình chính trị nhà nước. Theo đó, trong xã hội hầu hết mọi người dân đều tham gia vào các nhóm tổ chức với những lợi ích khác nhau, nên mỗi nhóm lợi ích đều có xu hướng phân chia từ bên trong để nắm chắc một phần quyền lực phù hợp với khả năng và mục tiêu của mình. Vì vậy, định hướng tổng thể đối với chính sách công là kết quả của hàng loạt những ảnh hưởng từ các nhóm lợi ích đến chính phủ – mà không có một nhóm nào ảnh hưởng tuyệt đối. Các tác giả đánh giá cao vai trò to lớn của các nhóm lợi ích trong việc ảnh hưởng đến quá trình chính sách và ngay cả bản chất nhà nước nhìn theo giác độ này cũng chính là một nhóm lợi ích. Vì vậy toàn bộ quá trình chính trị là quá trình tương tác, kiềm chế đối trọng giữa các nhóm, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Các tác giả thừa nhận rằng, các tổ chức và các thể chế có xu
11 A.A. Grabennhicốp cho xuất bản cuốn sánh: “Báo chí trong kinh tế thị trường” [48]. Tác giả đã đề cập các đặc trưng của báo chí trong điều kiện thị trường; những phương diện hoạt động chủ yếu của phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên trong tòa soạn; cơ cấu, chức năng của tòa soạn; quan hệ giữa ban biên tập và độc giả – khán, thính giả; quy trình tổ chức in ấn, xuất bản báo; những thể loại báo chí, v.v.. Tác giả đề cập đến báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc quản lý xã hội về mặt chính trị – xã hội. Muốn tồn tại được trong nền kinh tế, báo chí phải biến đổi theo nó, tuy nhiên vấn đề là làm sao tìm được cho mình một hướng đi thích hợp. Báo chí cần trung thực, phản ánh một cách nhanh nhạy chính xác và đặc biệt những người cầm bút phải hết sức phòng, tránh trước những cám dỗ và cạm bẫy từ cuộc sống. Cuốn sách nêu tương đối chi tiết những kiến thức nghiệp vụ làm báo, giúp cho những nhà báo nhanh chóng nâng cao nghiệp vụ phát triển nghề nghiệp của mình. M.I.Sotak (2003) đã xuất bản cuốn sách: “Phóng sự – tính chuyên nghiệp và đạo đức” [97]. Tác giả đã đề cập đến tính thời sự báo chí, mối quan hệ giữa đạo đức nhà báo trong nghề viết phóng sự. Tác giả cho rằng, cần đẩy mạnh hơn tính chuyên nghiệp cho nhà báo, đồng thời nêu vấn đề giáo dục đạo đức trong phóng viên cũng như từng nhà báo cần rà soát việc thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp; cần quan tâm nâng cao trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp, đặc biệt là phẩm chất đạo đức của người làm báo đối với phóng viên. Tác giả nhấn mạnh đến bản thân mỗi người làm báo, mỗi tòa soạn phải phát huy trách nhiệm để nâng cao chất lượng đáp ứng mong muốn của bạn đọc. A.A.Chertưchơnưi (2004) xuất bản cuốn sách: “Các thể loại báo chí”, [28]. Cuốn sách đã nêu và làm sáng tỏ phần lý luận chung về các yếu tố hình thành thể loại trong báo chí; đồng thời trình bày rõ hơn những khía cạnh, nội dung chính của các thể loại báo chí được phân theo tính chất của các thể loại
12 tin, thể loại phân tích, thể loại chính luận – nghệ thuật. Đặc biệt, mỗi thể loại được minh họa bằng nhiều bài viết hấp dẫn đã đăng tải trên báo và tạp chí ở Nga nhằm người đọc có thể hình dung trực quan về diện mạo các thể loại báo chí một cách sắc nét. E.P. Prô kôrốp (2004) cho xuất bản cuốn sách: “Cơ sở lý luận báo chí”, [86]. Cuốn sách khái quát về lý luận nghiệp vụ báo chí, đưa ra khái niệm về nghề nghiệp làm báo và đặc thù của hoạt động báo chí. Cuốn sách đưa ra những quan niệm và cách tiếp cận khái niệm báo chí; báo chí trong mối quan hệ gia cấp cầm quyền và nhà nước; vai trò của báo chí đối với đời sống xã hội; đặc điểm của báo chí; bản chất hoạt động báo chí; đối tượng và cơ chế hoạt động của báo chí; các chức năng cơ bản của báo chí và tự do báo chí được xem là nền tảng lý thuyết báo chí. Trong cuốn sách có thể thấy được vai trò của báo chí đối với xã hội trong đó có các chức năng của báo chí, mặc dù báo chí chịu sự chi phối của nhà nước nhưng báo chí có tính độc lập tương đối là kết lối sức mạnh của nhân dân và DLXH đây là vấn đề được đề tài rất quan tâm. – Ở Trung Quốc, năm 2005, Bùi Phương Dung xuất bản cuốn Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới [34]. Cuốn sách chủ yếu phân tích khái niệm công tác tư tưởng, vấn đề xây dựng đội ngũ những người làm công tác tư tưởng, trong đó có lĩnh vực báo chí. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc coi tuyên truyền tư tưởng của Đảng là một phương tiện giáo dục, động viên quần chúng nhân dân và mang tính chính trị rất cao, có đặc điểm là công khai rộng rãi, kịp thời, nhanh nhạy, có thể đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào trong quần chúng nhanh nhạy nhất, rộng rãi nhất và biến thành hành động thực tế của quần chúng; có thể phản ánh một cách rộng rãi ý kiến, tiếng nói, ý chí, nguyện vọng của quần chúng; có thể kịp thời truyền bá tin tức trong nước và thế giới, trực tiếp tác động tới tư tưởng, hành vi và xu hướng chính trị của quần chúng, hướng dẫn, khích lệ, động viên, tổ
13 chức quần chúng phấn đấn thực hiện lợi ích căn bản của mình. Tác giả nhấn mạnh công tác tư tưởng, trong đó có báo chí phải kịp thời tổng kết kinh nghiệm và rút ra từ thực tiễn những hoạt động góp ý kiến, phê bình của báo chí đối với đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Năm 2007, trên Tạp chí Học tập và Nghiên cứu lý luận, số 8, Điền Trung Mẫn có bài Bàn về đổi mới công tác tư tưởng thời kỳ mới [77], đề cập đến vai trò quan trọng của báo chí trong công cuộc xây dựng xã hội hài hòa, khẳng định báo chí là thế mạnh chính trị quan trọng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là trong thời kỳ xã hội tiến hành cải cách. Nhấn mạnh, báo chí là một phần quan trọng của công cuộc xây dựng xã hội hài hòa XHCN. Trong điều kiện xã hội hiện nay, mở rộng dân chủ tự do tiến bộ báo chí có sức mạnh nhất định, báo chí là diễn đàn quan trọng để xã hội trao đổi phản biện với Đảng và Nhà nước; tăng cường tính tích cực, tính chủ động, tính sáng tạo của đông đảo quần chúng nhân dân để xây dựng chủ trương chính sách. Tác giả cũng nêu rõ chức năng của báo chí là phải bám sát thực tế, bám sát quần chúng, bám sát cuộc sống, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, cố gắng vận dụng nhiều hình thức và cần tăng cường cải tiến công tác báo chí. – Năm 2009, trên Tạp chí Pháp chế Chính phủ, số 31, Lý Diệu Bác có bài Công tác tư tưởng cần tăng cường đổi mới và tính thời đại [15], cho rằng, báo chí muốn giàu tính đổi mới thì phải tạo dựng quan niệm mới, hình thành cơ chế mới, tiến hành sắp xếp, đổi mới một cách tổng thể; vận dụng hình thức mới, tiến hành đổi mới phương thức, cách làm tự do cởi mởi hơn, sâu hơn. Qua nghiên một số công trình nghiên cứu trên, có thể thấy các tác giả Trung Quốc đã đề cập đến hoạt động của báo chí thể hiện, vai trò vị trí, nhiệm vụ chức năng của báo chí. Nhằm nâng cao chất lượng của báo chí trong tình hình mới khi mà dân chủ ngày càng được mở rộng, trình độ dân trí ngày càng được nâng nên báo chí Trung Quốc đang được quan tâm đầu tư rất lớn cả về cơ chế chính sách lẫn con người, cơ sở vật chất phục vụ cho nhiệm vụ truyền
Các Chức Năng Cơ Bản Của Xã Hội Học Pháp Luật
48973
Chức năng của mỗi bộ môn khoa học được phản ánh một cách phong phú ở mối quan hệ và sự tác động qua lại của chính môn khoa học ấy với hoạt động thực tiễn xã hội. Người ta căn cứ vào nhu cầu của xã hội trong sự nhận thức và tác động đến thực tiễn xã hội để xác định chức năng của một môn khoa học. Chức năng của xã hội học pháp luật được quy định bởi nhu cầu phát triển trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và con người. Chức năng của xã hội học pháp luật bao gồm:
Chức năng nhận thức
Chức năng nhận thức của xã hội học pháp luật trước hết thể hiện ở chỗ, Xã hội học pháp luật trang bị cho người nghiên cứu môn học cách thức tiếp cận nghiên cứu các quy luật và tính quy luật của quá trình phát sinh, hoạt động và phát triển của pháp luật bằng trí thức xã hội học có việc nghiên cứu hệ thống các khái niệm, lý thuyết và phương pháp của môn học. Trong khi chỉ ra những quy luật khách quan của sự kiện, hiện tượng pháp luật, xã hội học pháp luật đã tạo ra những tiền đề để nhận thức triển vọng phát triển cao hơn của sự kiện, hiện tượng được nghiên cứu cũng như các mặt, các lĩnh vực sinh nhật của nó.
Hoạt động điều tra, khảo sát xã hội học pháp luật cung cấp bằng chứng thực nghiệm giúp cho việc nhận thức một cách khách quan, Toàn diện, đầy đủ và chính xác về nguồn gốc, bản chất của pháp luật; thực trạng của hệ thống pháp luật; về trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật của giai cấp, các tầng lớp xã hội; về tình hình vi phạm pháp luật ở từng thời điểm, từng khu vực địa lý nhất định.
Nghiên cứu xã hội học pháp luật nhằm làm sáng tỏ các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến các hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật, hậu quả của hành vi sai lệch giúp cho các cá nhân, nhóm xã hội nhận thức đầy đủ hơn vị thế, vai trò của mình, từ đó có thái độ, hành vi phù hợp với các quy định chuẩn mực pháp luật, phát huy tính tích cực xã hội, hạn chế hành vi sai lệch.
Xã hội học pháp luật còn là cơ sở phát triển tư duy khoa học, tạo điều kiện hình thành thói quen suy xét mọi hiện tượng xã hội và quá trình phức tạp trên cơ sở thực nghiệm khoa học. Đặc biệt, xem luyện kỹ năng cho các chủ thể có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước tác phong nắm bắt kịp thời thông tin, cụ thể, sâu sắc về các sự kiện, hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống và xu hướng biến đổi của các quan hệ xã hội, chỉ ban hành pháp luật và quyết định áp dụng pháp luật khi có đầy đủ thông tin và những luận chứng khoa học về nó.
Chức năng thực tiễn của xã hội học pháp luật có quan hệ mật thiết với chức năng nhận thức. Việc nghiên cứu xã hội học pháp luật không chỉ đơn thuần là vận dụng vào nhận thức hiện thực các sự kiện, hiện tượng pháp luật xảy ra trong thực tiễn mà quan trọng là đưa ra các giải pháp đúng đắn, Kịp thời kiểm soát các sự kiện, hiện tượng đó. Sự phong phú, đa dạng của xã hội học pháp luật cả ở mặt lý luận và thực nghiệm làm cho nó trở thành công cụ thiết yếu trong hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật. Hoạt động nghiên cứu xã hội học pháp luật, đặc biệt là những hoạt động điều tra, khảo sát của ý nghĩa như là cầu nối các nhà khoa học, các nhà lập pháp, hành pháp, tư pháp với tầng lớp nhân dân, chính từ đây đã tạo ra một quy trình khép kín và hoàn chỉnh về sự vận hành của hệ thống pháp luật, c ca ở mặt lý luận và thực nghiệm làm cho nó trở thành công cụ thiết yếu trong hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật. Hoạt động nghiên cứu xã hội học pháp luật, đặc biệt là những hoạt động điều tra, khảo sát của ý nghĩa như là cầu nối các nhà khoa học, các nhà lập pháp, hành pháp, tư pháp với tầng lớp nhân dân, chính từ đây đã tạo ra một quy trình khép kín và hoàn chỉnh về sự vận hành của hệ thống pháp luật, các của các văn bản pháp luật, của các văn bản pháp luật.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, xã hội học pháp luật cùng cố và xây dựng những luận cứ khoa học giúp cho đảng và nhà nước hoạch định chủ trương, chính sách, pháp luật đúng đắn, kịp thời phù hợp với tình hình phát triển xã hội ở từng giai đoạn cụ thể. Quá trình xây dựng pháp luật đòi hỏi phải nghiên cứu sâu sắc thực tiễn xã hội, các quá trình kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lý xã hội; đặc điểm dân cư, nhu cầu của các tầng lớp, các nhóm nghề nghiệp; dân tộc, giới tính, trình độ học vấn. Thông tin từ các cuộc khảo sát xã hội học sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp. Các cuộc khảo sát xã hội học pháp luật trên thế giới cho thấy, nhân tố chính làm giảm hiệu quả của pháp luật không phải là do sự thiếu vắng các cơ chế thực hiện pháp luật mà do sự không tương thích của pháp luật với những đòi hỏi khách quan trong việc điều tiết các lợi ích của xã hội. Sự tham gia của đông đảo tầng lớp nhân dân vào công việc xây dựng pháp luật sẽ đảm bảo được đầy đủ và toàn diện lợi ích, Ý nguyện của nhân dân và sẽ tạo điều kiện để đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh và có hiệu quả sau này. Thực tế đã cho thấy, các đề xuất về pháp luật như nâng giá điện, thu phí đối với xe mang biển xuống máy tính và Hà Nội, quy định vòng ngực, cân nặng đối với người tham gia giao thông hãy đề xuất xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam… gặp phải sự phản đối gay gắt của dư luận do không phù hợp với lợi ích của đông đảo người dân.
Hoạt động nghiên cứu xã hội học pháp luật về những mặt, khía cạnh của đời sống pháp luật cung cấp những thông tin được phản ánh từ cơ sở thực tiễn đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giúp họ cập nhật thường xuyên những thông tin cần thiết, kịp thời phát hiện được những mâu thuẫn, xung đột hay những sai lệch từ đó tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật.
Chức năng dự báo
– Trên cơ sở kết quả khảo sát thu thập thông tin, xử lý thông tin, các nhà xã hội học pháp luật phân tích tính logic, tính khách quan, nhận diện các sự kiện, hiện tượng pháp luật trong quá khứ và hiện tại, từ đó đưa ra các dự báo khoa học để làm sáng tỏ triển vọng phát triển xa hơn của những sự kiện, hiện tượng pháp luật trong tương lai.
– Bằng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, xã hội học pháp luật thu thập thông tin định tính, định lượng đánh giá dự báo tác động pháp luật giúp các chủ thể có thẩm quyền nhận biết những khả năng có thể xảy ra khi văn bản pháp luật được ban hành. Đặc biệt là đối với các dự thảo, dự án luật, các nghiên cứu của xã hội học pháp luật sẽ làm sáng tỏ các điều kiện cụ thể mà ở đó các văn bản pháp luật đang được dự thảo hoặc sắp ban hành. Từ việc đánh giá tác động pháp luật đối với thực tiễn xã hội, giúp cho các chủ thể có thẩm quyền đưa ra phương án, các giải pháp tối ưu nhất nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật, chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành.
– Dựa vào kết quả đánh giá thực trạng và ý thức pháp luật của các nhóm xã hội, về hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật, tội phạm và hiệu quả của các biện pháp đấu tranh phòng, chống hành vi sai lệch, tìm ra nguyên nhân để đưa ra những dự báo về diễn biến tình hình vi phạm pháp luật và phạm tội trong tương lai, giúp cho các chủ thể có thẩm quyền đưa ra các biện pháp hạn chế hành vi sai lệch và tội phạm.
Chức năng dự báo của xã hội học pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Việc hiểu biết sự kiện hiện tại và xu hướng phát triển đó trong tương lai là yếu tố cần thiết giúp cho các cơ quan nhà nước thông qua các quyết định một cách đúng đắn. Lựa chọn một giải pháp tôi yêu khánh liền với việc nhận thức đúng đắn những hậu quả pháp lý và xã hội của việc ban hành quy định đó, cũng như môi trường mà ở đó quyết định được ban hành sẽ được thực hiện trong tương lai.
Bạn đang xem chủ đề Chức Năng Dự Báo Của Xã Hội Học trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!