Top 6 # Chức Năng Giám Sát Tối Cao Của Quốc Hội Theo Hiến Pháp 2013 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Luận Văn Đề Tài Chức Năng Lập Hiến Và Lập Pháp, Giám Sát Tối Cao Của Quốc Hội

Lịch sử phát triển của Quốc hội gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam. Qua 11 khóa hoạt động, Quốc hội ngày càng khẳng định vai trò quan trọng là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tính đại diện cao nhất của Quốc hội nước ta thể hiện ở chỗ: 1 – Quốc hội có cơ cấu thành phần đại biểu đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân. 2 – Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên cơ sở sự tín nhiệm của nhân dân, do nhân dân ủy quyền. 3 – Quốc hội do toàn dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đại biểu Quốc hội có cơ cấu, thành phần phản ánh sự đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân và các dân tộc. Vì vậy, Quốc hội là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam. “Quốc hội là tiêu biểu ý chí thống nhất của dân tộc ta, một ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi”. Quốc hội và các đại biểu của Quốc hội chịu sự giám sát của nhân dân, thông qua việc bảo đảm cho nhân dân theo dõi quá trình làm việc của mình như tham dự các phiên họp, nghe chất vấn, trả lời chất vấn, và thông qua việc đại biểu Quốc hội phải báo cáo hoạt động tại đơn vị đã bầu cử mình. Tính quyền lực nhà nước của Quốc hội thể hiện ở thẩm quyền của Quốc hội đã được cụ thể hóa thành ba chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Đó là: Chức năng lập hiến và lập pháp; Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội.

TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC

TIN KHUYẾN MÃI

Thư viện tài liệu Phong Phú

Hỗ trợ download nhiều Website

Nạp thẻ & Download nhanh

Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay

Nhận nhiều khuyến mãi

Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay

NẠP THẺ NGAY

DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN

Phân Tích Chức Năng Giám Sát Tối Cao Của Quốc Hội Theo Pháp Luật Hiện Hành.

Phân tích chức năng giám sát tối cao của Quốc hội theo pháp luật hiện hành.Trong bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đồng thời là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bên cạnh thẩm quyền lập hiến, lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước thì Quốc hội nước ta còn có thẩm quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Có thể nói đây là một chức năng quan trọng của Quốc hội đã được ghi nhận ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên và ngày càng được hoàn thiện một cách cụ thể, đầy đủ hơn.Trước hết cần hiểu giám sát là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đó đúng hay sai với những điều đã quy định. Giám sát là hoạt động có mục đích, luôn gắn với chủ thể, đối tượng nhất định và được tiến hành trên cơ sở những quy định cụ thể. Hiến pháp 1946 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong các bản Hiến pháp trước, điều 83 Hiến pháp 1992 quy định “…Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”.Để nhằm cụ thể hóa hơn nữa về cơ sở pháp lý và nâng cao tính hiệu quả, hiệu lực của chức năng này, ngày 17/6/2003 Quốc hội ta đã chính thức thông qua Luật hoạt động giám sát của Quốc hội.Theo chức năng, nhiệm vụ của mình, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật do nhiều cơ quan nhà nước tiến hành như Hội đồng nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân…Nhưng sự giám sát của Quốc hội là sự giám sát cao nhất bởi: Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Mà Quốc hội là do nhân dân trực tiếp bầu ra vì vậy Quốc hội là cơ quan

đại biểu cao nhất của nhân dân đồng thời là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất (điều 83 Hiến pháp 1992). Mặt khác nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc tập quyền, quyền lực tối cao thuộc về Quốc hội. Các cơ quan nhà nước khác như Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chức năng, quyền hạn theo luật định nhưng đều phải có trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc hội.Mục đích việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đó là nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để, nghiêm chỉnh và thống nhất. Quốc hội giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm cho các cơ quan này hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, có hiệu lực và hiệu quả, chống những biểu hiện tham nhũng, quan liêu.Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật như: Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội cho thấy chức năng giám sát tối cao của Quốc hội được thể hiện qua một số nội dung sau:Về nội dung và đối tượng giám sát: Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước bao gồm hoạt động theo dõi tính hợp hiến và hợp pháp đối với nội dung các văn bản do các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát trực tiếp của Quốc hội ban hành, cũng như tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động thực tiễn của các cơ quan nhà nước. Như vậy có thể thấy đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội là các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát trực tiếp của Quốc hội như chủ tịch nước, chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao…Về thẩm quyền giám sát, chủ thể thực hiện quyền giám sát: Theo quy định tại Điều 1 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội”. Để cụ thể hoá hơn nữa quy định này, Điều 3 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội đã quy định về thẩm quyền giám sát đối với từng chủ thể.Về căn cứ thực hiện quyền giám sát của Quốc hội: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp và quyền giám sát tối cao nhưng trong hoạt động của mình Quốc hội cũng phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật vì Quốc hội cũng là một cơ quan nằm trong bộ máy nhà nước chứ không phải là một tổ chức đứng trên nhà nước. Do đó để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động giám sát, bảo đảm cho Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật, khi thực hiện chức năng giám sát của mình, Quốc hội phải có những căn cứ nhất định: Thứ nhất, căn cứ vào những quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Thứ hai, căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội và căn cứ vào thực tế hoạt động của những cơ quan nhà nước đó.Các phương pháp thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội: Quốc hội xem xét báo cáo của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, định kỳ nghe các cơ quan nhà nước trung ương báo cáo. Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Với thẩm quyền huỷ bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành các văn bản trái với quy định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, có thể nói rằng, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có chức năng rất quan trọng trong việc giám sát ban hành các văn bản pháp luật. Bằng việc thực hiện chức năng này, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong cả nước, bảo đảm thực hiện chức năng là cơ quan lập pháp cao nhất. Giám sát trực tiếp hoạt động của các cơ quan qua việc tổ chức các đoàn đi giám sát. Chất vấn và trả lời chất vấn là một phương pháp giám sát quan trọng của đại biểu Quốc hội. Theo quy định tại điều 98 Hiến pháp 1992 đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội còn giám sát thông qua việc xem xét đơn thư khiếu nại của nhân dân, qua các thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Những phương pháp giám sát trên của Quốc hội có quan hệ gắn bó, hỗ trợ cho nhau. Trong thực tế hoạt động giám sát, Quốc hội có thể lựa chọn những phương pháp giám sát khác nhau tùy thuộc vào nội dung của vấn đề cần giám sát và vào đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội. Bên cạnh đó Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội cũng quy định rất sụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện các phương pháp giám sát của Quốc hội.Như vậy, có thể nói, giám sát tối cao là một trong những chức năng cơ bản và chủ yếu của Quốc hội; cùng với lịch sử phát triển của Quốc hội Việt Nam, chức năng này đã, đang và sẽ tiếp tục được hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn để ngày càng phát huy hiệu quả của nó trong việc bảo đảm cho Hiến pháp, luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong cả nước, trước hết là từ các cơ quan nhà nước; bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; làm cho bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm tôn trọng, phát huy quyền dân chủ của công dân, đồng thời duy trì trật tự nhà nước, trật tự xã hội và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Quốc Hội Của Hiến Pháp Năm 2013

Bài viết: Quốc hội của Hiến pháp năm 2013

TÓM TẮT

Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân – là thiết chế đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước các nhà nước dân chủ hiện đại. Sự hiện diện của Quốc hội thể hiện chủ quyền của nhân dân, là biểu tượng cho nền dân chủ của một quốc gia. Ở Việt Nam, Quốc hội được thành lập sau khi đất nước ta giành được độc lập chủ quyền, và những vấn đề quan trọng nhất về Quốc hội luôn được quy định một cách trang trọng trong các bản Hiến pháp. Do hoàn cảnh lịch sử ở nước ta mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng nên những quy định của mỗi Hiến pháp về Quốc hội cũng có những nội dung khác biệt nhất định.

I. Quốc hội Việt Nam qua các Bản hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992

1. Nghị viện nhân dân theo Hiến pháp năm 1946

Theo quy định của Hiến pháp năm 1946, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân gọi là “Nghị viện nhân dân”. Hiến pháp năm 1946 dành Chương III với 21 điều để quy định về các vấn đề quan trọng nhất của Nghị viện nhân dân như: vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, nhân sự, kỳ họp.

Theo quy định tại Điều thứ 22, trong bộ máy nhà nước Nghị viện nhân dânlà cơ quan có quyền cao nhất, có thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài. Nghị viện nhân dân do công dân bầu ra với nhiệm kỳ 3

năm. Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp duy nhất quy định số lượng nghị viên được tính theo tỷ lệ dân số, cứ 5 vạn dân thì bầu một nghị viên.

Về tổ chức Nghị viện nhân dân, Hiến pháp 1946 chưa quy định về các cơ quan tham mưu, tư vấn trong cơ cấu tổ chức của Nghị viện nhân dân mà chỉ quy định về cơ quan thường trực của Nghị viện nhân dân là Ban thường vụ. Khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền: biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ, và những sắc luật đó phải được trình Nghị viện vào phiên họp gần nhất để

Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ; triệu tập Nghị viện nhân dân; kiểm soát và phê bình Chính phủ. Ban thường vụ nghị viện có thể bị bỏ phiếu tín nhiệm nếu có một phần tư tổng số nghị viên yêu cầu và phải từ chức khi không được tín nhiệm.

Vấn đề tổ chức kỳ họp nghị viện được Hiến pháp quy định khá toàn diện và chi tiết. Kỳ họp Nghị viện nhân dân được tổ chức mỗi năm hai lần. Thời gian tổ chức kỳ họp thường lệ được ấn định là vào tháng 5 và tháng 11 dương lịch (Điều thứ 28) và hội nghị chỉ được biểu quyết khi có quá nửa số nghị viên tới họp, việc quyết nghị được tính theo quá nửa nghị viên có mặt trừ trường hợp tuyên chiến thì phải được ít nhất hai phần ba nghị viên có mặt bỏ phiếu thuận (Điều thứ 29). Ban thường vụ có thể triệu tập hội nghị bất thường nếu xét cần. Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện nếu một phần ba tổng số nghị viên hoặc Chính phủ yêu cầu.

Hiến pháp năm 1946 cũng quy định rất cụ thể về thủ tục bãi miễn một nghị viên, theo Điều thứ 41 thì Nghị viện phải xét vấn đề bãi miễn một nghị viên khi nhận được đề nghị của một phần tư tổng số cử tri tỉnh hay thành phố đã bầu ra nghị viên đó. Nếu hai phần ba tổng số nghị viên ưng thuận đề nghị bãi miễn thì nghị viên đó phải từ chức.

Nhìn chung, những quy định của Hiến pháp năm 1946 về Nghị viện nhân dân là khá toàn diện và một số vấn đề được quy định tương đối chi tiết có khả năng áp dụng trực tiếp không cần thông qua luật cụ thể hóa. Đây có thể coi là ưu điểm của Hiến pháp năm 1946 khi quy định về Nghị viện nhân dân.

2. Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959

So với Nghị viện nhân dân trong Hiến pháp năm 1946, các quy định về Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 có một số điểm khác biệt cơ bản như sau:

Thứ nhất, tính quyền lực của Quốc hội theo Hiến pháp 1959 được khẳng định mạnh mẽ hơn, thẩm quyền của Quốc hội được mở rộng và được quy định cụ thể hơn.

Về vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước, Điều 43 quy định “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Điều 50 có 17 khoản quy định, trong đó có những nhiệm vụ, quyền hạn mới mà Hiến pháp 1946 chưa quy định là: làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; giám sát việc thi hành Hiến pháp; quyết định kế hoạch kinh tế Nhà nước; quyết định đại xá,… Đặc biệt, quy định tại khoản 17 Điều 50 cho phép Quốc hội định thêm những quyền hạn cần thiết khác (chưa được liệt kê trong Hiến pháp).

Thứ hai, cơ cấu tổ chức của Quốc hội được quy định trong Hiến pháp 1959 đầy đủ hơn, gồm có cả cơ quan thường trực và các cơ quan tham mưu tư vấn cho Quốc hội theo từng lĩnh vực cụ thể.

Cơ quan thường trực của Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 được đổi tên thành Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 51) và thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định theo hướng mở rộng hơn so với Ban thường vụ nghị viên theo Hiến pháp năm 1946 với các quyền hạn mới như ban hành pháp lệnh, giải thích pháp luật, giám sát Tòa án nhân dân tối cao, quyết định về một số chức danh trong Hội đồng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao… Mặt khác, nếu như theo Hiến pháp năm 1946, vai trò của Ban thường vụ nghị viện chỉ thể hiện trong thời gian Quốc hội không họp thì theo Hiến pháp năm 1959 trừ việc quyết định việc bổ nhiệm hoặc miễn Phó thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng chính phủ, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong thời gian Quốc hội không họp, thì đối với những nhiệm vụ, quyền hạn còn lại, Ủy ban thường vụ Quốc hội mặc nhiên được thực hiện.

Các cơ quan hoạt động mang tính chuyên môn được thành lập để giúp Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội được Hiến pháp quy định gồm Uỷ ban dự án pháp luật, Uỷ ban kế hoạch và ngân sách, và những uỷ ban khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết.

Ngoài ra, Hiến pháp năm 1959 còn quy định việc thành lập một số cơ quan hoạt động không thường xuyên như Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu, Uỷ ban điều tra về những vấn đề nhất định.

Hiến pháp năm 1959 chính thức quy định quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với Hội đồng chính phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ. Theo Điều 59 của Hiến pháp năm 1959, “cơ quan bị chất vấn phải trả lời trong thời hạn năm ngày; trường hợp cần phải điều tra thì thời hạn trả lời là một tháng”.

Thứ ba, Hiến pháp năm 1959 không ấn định cụ thể về thời điểm tổ chức kỳ họp Quốc hội. Ngoài ra, theo Hiến pháp năm 1959 thì tất cả các luật của Quốc hội đều phải được Chủ tịch nước công bố chứ không thể bị yêu cầu xem xét lại như Hiến pháp năm 1946 quy định.

Với những điểm thay đổi trên, có thể nhận thấy, Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 đã được tăng cường thẩm quyền và khả năng chi phối những cơ quan còn lại trong bộ máy nhà nước, điều này đã bước đầu thể hiện quyền lực thực tế của Quốc hội trong bộ máy nhà nước ta trong giai đoạnnày.

3. Quốc hội theo Hiến pháp năm 1980

Trên quan điểm đề cao quyền làm chủ tập thể của nhân dân, với 16 điều thuộc Chương VI, Hiến pháp năm 1980 đã tiếp thu những quy định về Quốc hội trong Hiến pháp 1959 đồng thời có một số điều chỉnh nhằm tạo cho Quốc hội khả năng tập trung quyền lực mạnh mẽ cũng như khả năng chi phối toàn diện tới các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Hiến pháp năm 1980 có thay đổi trong nội dung diễn đạt về vị trí, tính chất pháp lý của Quốc hội. Theo Điều 82 Hiến pháp năm 1980, ngoài tính quyền lực cao nhất, Quốc hội được xác định “là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân”. Tính đại diện được nêu trước tiên như là tiền đề cho việc khẳng định “quyền lực cao nhất” của Quốc hội.

Chức năng của Quốc hội theo Điều 83 Hiến pháp năm 1980 được quy định rõ hơn, gồm có: lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Để tạo khả năng mở rộng quyền lực cho Quốc hội, bên cạnh việc liệt kê các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, Hiến pháp năm 1980 tiếp tục cho phép Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết.

Nhiệm kỳ của Quốc hội, đến Hiến pháp năm 1980, một lần nữa được nâng từ 4 năm lên 5 năm.

Những quy định về kỳ họp Quốc hội trong Hiến pháp năm 1980 về cơ bản không thay đổi nhiều với Hiến pháp năm 1959, chỉ có một điểm mới đáng chú ý là Điều 86 Hiến pháp năm 1980 liệt kê cụ thể các chủ thể được quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trong đó bao gồm không chỉ các cơ quan nhà nước ở trung ương hay các chức danh cấp cao trong bộ máy nhà nước như Hội đồng nhà nước, Hội đồng bộ trưởng, Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng quốc phòng, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao mà cả Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các chính đảng, Tổng công đoàn Việt Nam, tổ chức liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam, Đoàn thành niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam cũng có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội.

Về tổ chức của Quốc hội, Chương VI Hiến pháp năm 1980 chỉ quy định về các cơ quan giúp Quốc hội theo từng lĩnh vực gồm Hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực. Còn cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng nhà nước được quy định tại một chương riêng (Chương VII), và so với Ủy ban thường vụ Quốc hội trong Hiến pháp năm 1959, Hội đồng nhà nước ngoài tính chất là cơ quan hoạt động thường xuyên của Quốc hội còn đảm nhiệm chức năng nguyên thủ quốc gia – là chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hiến pháp năm 1980 vẫn giữ các quyđịnh về đại biểu Quốc hội như Hiến pháp năm 1959, và bổ sung thêm quy định vềmối quan hệ, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với nhân dân.

4. Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

Hiến pháp năm 1992 vẫn giữ nguyên các quy định của Hiến pháp năm 1980 về vị trí, tính chất pháp lý của Quốc hội, chức năng, các cơ quan giúp Quốc hội theo lĩnh vực, nhiệm kỳ, kỳ họp Quốc hội. So với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 có một số điều chỉnh trong quy định về Quốc hội như sau:

Thứ nhất, Hiến pháp năm 1992 bỏ quyền hạn “quyết định giao cho các tổ chức xã hội việc thực hiện một số nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý của Nhà nước” của Quốc hội, đồng thời không còn quy định cho phép “Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết”. Như vậy, mặc dù Quốc hội vẫn là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” trong bộ máy nhà nước, nhưng so với Hiến pháp năm 1980 thẩm quyền của Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 đã bị giới hạn.

Thứ hai, Hiến pháp năm 1992 bỏ quy định về Hội đồng nhà nước vừa là cơ quan thường trực của Quốc hội, vừa là chủ tịch tập thể và khôi phục lại Ủy ban thường vụ Quốc hội như trong Hiến pháp năm 1959 nhưng thẩm quyền cũng bị giới hạn hơn so với trước đây.

Thứ ba, Hiến pháp năm 1992 bổ sung cho đại biểu Quốc hội quyền kiến nghị về luật bên cạnh quyền trình dự án luật đã quy định từ các bản Hiến pháp trước nhằm tăng tính khả thi trong việc đóng góp sáng kiến lập pháp của các đại biểu Quốc hội.

Với những điều chỉnh nêu trên, Hiến pháp năm 1992 một mặt khẳng định địa vị pháp lý cao nhất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước; mặt khác vẫn đảm bảo tính pháp quyền của nhà nước, theo đó Quốc hội dù là cơ quan quyền lực cao nhất nhưng vẫn phải hoạt động trong khuôn khổ thẩm quyền được Hiến pháp quy định.

II. Sự cần thiết phải sửa đổi Hiến pháp 1992 và định hướng xây dựng các quy định của hiến pháp về bộ máy nhà nước?

1. Sự cần thiết phải sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Theo Tờ trình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp ngày 19/10/2012 thì sau 20 năm thực hiện Hiến pháp 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và đến nay đất nước đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi sâu sắc và phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Vì vậy, cần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để đảm bảo đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.

2. Những quan điểm về sửa đổi các quy định của Hiến pháp về bộ máy nhà nước

Tờ trình về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã đưa ra 6 quan điểm chính về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nói chung, theo đó tư tưởng chủ đạo về sửa đổi bộ máy nhà nước như sau:

– Kế thừa những quy định còn phù hợp của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây; sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới đã được văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định.

– Thể hiện tính chất “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp “.

III. Những nội dung chủ yếu về Quốc hội theo quy định của Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp năm 2013 dành Chương V với 17 điều (từ Điều 69 đến Điều 85) để quy định về Quốc hội. Chương V được xây dựng trên cơ sở các quan điểm chung về bộ máy nhà nước và các góp ý của các tầng lớp nhân dân về nội dung Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 với các nội dung cơ bản sau:

1. Vị trí, tính chất pháp lý, chức năng của Quốc hội

Theo Điều 69 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội vẫn tiếp tục được xác định “là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Quốc hội là cơ quan bao gồm các đại biểu được Nhân dân cả nước bầu ra, thong qua Quốc hội Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình.

Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan có quyền lực cao nhất, thực hiện “quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”

Như vậy, vị trí tính chất, pháp lý và chức năng của Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 về cơ bản không có thay đổi so với Hiến pháp năm 1992. Với quy định tại Điều 69, Quốc hội tiếp tục giữ vị trí tối cao trong bộ máy nhà nước. Vị trí của Quốc hội là biểu hiện rõ nhất chủ quyền của nhân dân và tính thống nhất trong tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta.

2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội

Trong quá trình góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đã có một số ý kiến góp ý về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, đặc biệt là về thẩm quyền lập hiến và quyết định trưng cầu ý dân. Tuy nhiên, các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định trong Điều 84 Hiến pháp năm 1992 được Hiến pháp 2013 tiếp tục quy định lại trong nhưng có một số điều chỉnh, bổ sung như sau:

– Quyền “Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước” quy định tại khoản 3 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 được sửa thành “Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”. Quy định mới này cụ thể và xác định rõ ràng hơn phạm vi trách nhiệm của Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề về kinh tế – xã hội của đất nước, đảm bảo tính khả thi và phù hợp hơn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

– Khoản 5 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 bổ sung thêm quyền quyết định chính sách tôn giáo bên cạnh quyền quyết định chính sách dân tộc. Bổ sung này cho thấy tầm quan trọng của vấn đề tôn giáo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

– Khoản 7 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 bổ sung thủ tục “tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp” của các chức danh Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sau khi được Quốc hội bầu. Mặc dù đây khôi phải là thủ tục mới theo thông lệ thế giới nhưng ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên Hiến pháp quy định về vấn đề này. Bổ sung này đã thể hiện rõ tính pháp quyền của Nhà nước ta và sự đề cao giá trị của Hiến pháp trong đời sống xã hội.

– Khoản 14 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định thêm thẩm quyền của Quốc hội “quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế”. Quy định này tạo cho Quốc hội quyền quyết định thực tế hơn trong lĩnh vực đối ngoại.

– Trong lĩnh vực tổ chức nhà nước, có một bổ sung quan trọng đó là thẩm quyền của Quốc hội “phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao”. Bổ sung mới này được đánh giá là đã làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp và góp phần nâng cao vị thế của thẩm phán phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Ngoài ra, việc thành lập thêm hai cơ quan mới là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước cũng dẫn tới những bổ sung trong quy định về thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập, giám sát các cơ quan, các chức danh trong bộ máy nhà nước, xử lý văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành.

3. Nhiệm kỳ và kỳ họp Quốc hội

Nhiệm kỳ của Quốc hội theo Điều 71 Hiến pháp năm 2013 vẫn là 5 năm. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có một bổ sung trong quy định về việc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội, theo đó “việc kéo dài nhiệm kỳ của một khóa Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp có chiến tranh”.Trước đây, Quốc hội khóa 1 phải kéo dài nhiệm kỳ từ năm 1946 đến năm 1960.

4. Cơ cấu tổ chức và đại biểu Quốc hội

Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, cơ cấu tổ chức của Quốc hội vẫn gồm có: Ủy ban thường vụ Quốc hội (cơ quan thường trực) và Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội (cơ quan giúp cho Quốc hội theo lĩnh vực, chuyên môn cụ thể).

Ngoài việc làm rõ hơn vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội được giao thêm thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho Ủy ban thường vụ Quốc hội theo đề nghị của Chính phủ (thẩm quyền này theo Hiến pháp năm 1992 thuộc về Chính phủ).

Bên cạnh các cơ quan đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 còn bổ sung thêm quy định về việc thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định giúp Quốc hội.

Trong giai đoạn góp ý về Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, có khá nhiều ý kiến góp ý đối với các quy định về đại biểu Quốc hội, tập trung chủ yếu vào vấn đề kiêm nhiệm của đại biểu Quốc hội, về trách nhiệm của đại biểu với cử tri, cơ chế miễn nhiệm đại biểu,… Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 không thể hiện những nội dung quan trọng trong các đề xuất về các vấn đề trên. Những nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1992 về đại biểu Quốc hội được Hiến pháp năm 2013 giữ lại toàn bộ, chỉ điều chỉnh lại cách diễn đạt và có thêm một số bổ sung nhỏ như: trách nhiệm “đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”; trách nhiệm “phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật” (thay vì “phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội” như Hiến pháp năm 1992); quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội.

5. Đánh giá chung

So với các nội dung khác của Hiến pháp, các nội dung về Quốc hội được quy định trong Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 thay đổi không nhiều. Những quy định về vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội cơ bản vẫn giữ như quy định của Hiến pháp năm 1992. Các điều chỉnh, bổ sung mới chỉ nhằm mục đích quy định phù hợp chức năng của Quốc hội trong lĩnh vực lập pháp và mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước thực hiện quyền hành pháp, tư pháp.

Tác giả: Nguyễn Cảnh Hợp*, Đinh Thị Cẩm Hà** – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 01/2014, Trang 41-47

Điểm Mới Về Vị Trí, Chức Năng Của Quốc Hội Trong Hiến Pháp Năm 2013

Vị trí và chức năng luôn là hai vấn đề quan trọng nhất của một cơ quan nhà nước. Vị trí là địa vị và cũng là vị thế của cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước, xác lập mối tương quan cao thấp và tính chất của quan hệ về tổ chức và hoạt động giữa cơ quan đó và các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Khác với vị trí, chức năng của cơ quan nhà nước thể hiện lĩnh vực hoạt động chủ yếu của cơ quan nhà nước đó, nói cách khác đó là “địa hạt công việc nhà nước” mà cơ quan nhà nước đó phụ trách và chịu trách nhiệm thực hiện hiệu quả. Để bảo đảm thực hiện tốt chức năng được giao, cơ quan nhà nước được quy định những nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng. Nhìn vào các quy định về vị trí và chức năng của cơ quan nhà nước, chúng ta biết được cơ quan nhà nước đó đứng ở đâu trong cấu trúc tổ chức của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được giao trách nhiệm thực hiện tốt mảng công việc nào của nhà nước.

Điểm mới về vị trí của Quốc hội

Theo Hiến pháp năm 2013, vị trí, chức năng của Quốc hội được quy định tại Điều 69, Điều đầu tiên của chế định Quốc hội (Chương V), tương ứng với Điều 83 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). So sánh hai Điều này, có thể thấy vị trí của Quốc hội trong cấu trúc tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa hoàn toàn Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Theo đó, cả hai Điều đều quy định cùng một nội dung: “Quốc hội là … cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Với vị trí này, Quốc hội tiếp nhận quyền lực trực tiếp từ nhân dân với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Quốc hội thực hiện quyền lực đó thông qua chức năng của mình và thông qua bộ máy nhà nước do mình kiến tạo nên một cách trực tiếp hay gián tiếp. Cũng với vị trí này, về mặt nhà nước, Quốc hội đứng ở vị trí cao nhất trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không có cơ quan nhà nước nào đứng ở vị trí ngang bằng hoặc cao hơn Quốc hội.

Điểm mới về chức năng của Quốc hội

Điểm mới về chức năng lập hiến, lập pháp

Hiến pháp năm 2013 (Điều 69, đoạn 2) quy định về chức năng lập hiến, lập pháp của Quốc hội như sau: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp”. Trong khi đó, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” (Điều 83, đoạn 2).

Như vậy, về hình thức, sự khác biệt giữa hai Điều khoản chỉ nằm ở chữ “duy nhất”. Tuy nhiên, tác động của sự khác biệt này không chỉ ở mức khiêm tốn như vậy. Đối với quyền lập hiến, sự khác biệt giữa hai bản Hiến pháp là không có nhiều do tính duy nhất của Hiến pháp nên dù quy định như thế nào thì Quốc hội cũng là cơ quan duy nhất làm Hiến pháp. Đối với quyền lập pháp, theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì chỉ có Quốc hội mới có quyền này. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải chỉ có Quốc hội và một mình Quốc hội cũng không có đủ khả năng tự mình xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã không còn dùng từ “duy nhất” để chỉ chức năng lập pháp của Quốc hội. Quy định này cũng mở đường cho việc Quốc hội có thể ủy quyền cho Chính phủ cùng tham gia công tác lập pháp. Điều này cũng đã được thể hiện trong quy định về quyền ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ tại Điều 100 Hiến pháp năm 2013, theo đó “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”.

Điểm mới về chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định về chức năng giám sát tối cao của Quốc hội như sau: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (Điều 83, đoạn 4). Trong khi đó, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội … giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (Điều 69).

So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 không quy định Quốc hội giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Sự khác nhau nằm ở phạm vi của quyền giám sát tối cao. Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Quốc hội có quyền giám sát toàn bộ hoạt động của Nhà nước, tức là bất cứ hoạt động nào của các cơ quan nhà nước từ Trung ương tới địa phương, kể cả ở cấp cơ sở. Còn ở Hiến pháp năm 2013, phạm vi đó được giới hạn trong hoạt động của các cơ quan nhà nước ở cấp cao nhất, những cơ quan do Quốc hội thành lập, phê chuẩn và chịu sự giám sát của Quốc hội, ví dụ Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia. Các cơ quan này được đề cập trong các quy định cụ thể của Hiến pháp về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều 70). Phạm vi giám sát đó phù hợp với tính chất tối cao của chức năng giám sát của Quốc hội. Sự Điều chỉnh, bổ sung này trong Hiến pháp năm 2013 cũng phù hợp với thực tiễn, bởi trong suốt quá trình lịch sử, hầu như phạm vi hoạt động giám sát của Quốc hội chưa bao giờ được thực hiện đối với các cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh trở xuống.

Điểm mới về chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân”. Theo đó, các lĩnh vực mà Quốc hội có thể thực hiện quyền quyết định những vấn đề quan trọng được liệt kê khá nhiều, tuy nhiên vẫn không bao quát được một số thẩm quyền quan trọng do Quốc hội thực hiện vốn vẫn được coi là lĩnh vực quan trọng của nhà nước, ví dụ như bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước hay thông qua ngân sách nhà nước hàng năm .v.v.

Như vậy, tổng thể thì Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của Quốc hội theo cách ngắn gọn, súc tích hơn so với Hiến pháp năm 1992 và những điểm mới thể hiện việc đổi mới hoạt động của Quốc hội, đặc biệt là trong việc thực hiện chức năng lập pháp và chức năng giám sát tối cao của cơ quan này.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

Bài viết trong lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.