--- Bài mới hơn ---
Giáo Dục Với Chức Năng Kinh Tế Sản Xuất
Giáo Dục Với Chức Năng Kinh Tế Sản Xuất Cac Chuc Nang Cua Giao Duc Doc
Vai Trò Của Giáo Dục Đối Với Kinh Tế
Vai Trò Của Kiểm Tra
Kiểm Tra (Checking) Là Gì? Vai Trò Của Chức Năng Kiểm Tra
1.Triếthọclà gì?
Triếthọcra đời gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN) tại một số trung tâm văn minhcổđại như Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Ấn Độ,triếthọcđọc là darshana, có nghĩa là sự chiêm ngưỡng, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Còn ở Trung Quốc, thuật ngữtriếthọccó gốc ngôn ngữ là chữ “triết“. Đó không phải là sự miêu tả, mà là quá trình tranh luận để tìm bản chất của đối tượng.
Ở phương Tây, thuật ngữ “Triếthọc” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “Philôsôphia”, nghĩa là “yêu mến sự thông thái”.Triếthọcđược xem là hình thái cao nhất của tri thức, có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.
Khái quát lại,triếthọclà một hình thái ý thức xã hội; là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
b.Với quan niệm đó,triếthọccổđại không có đối tượng nghiên cứu riêng của mình, mà được xem là “khoahọccủa mọi khoahọc“.
2. Vấn đề cơ bản củatriếthọc. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
2.1. Vấn đề cơ bản củatriếthọc2.2. Các trường pháitriếthọc
2.2.1. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản củatriếthọcgắn liền với việc phân chia cáchọcthuyếttriếthọcthành hai trường pháitriếthọccơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
a. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con ng¬ười; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thờicổđại và cho đến nay, lịch sử phát triển của nó luôn gắn liền với sự phát triển của khoahọcvà thực tiễn, tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
+ Chủ nghĩa duy vậtcổđại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới. Hạn chế của nó là còn mang tính trựcquan, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể. Ví dụ như quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit…
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII: Do ảnh hưởng của Cơhọccổđiểnnên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc – phương pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nhưng CNDV siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ như quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của cáchọcthuyếttriếthọctrước đó và vận dụng các thành tựu của khoahọcđương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó, thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
b. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có trước và quyết định giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thờicổđại với hai hình thức chủ yếu là:
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức con ng¬ời, khẳng định mọi sự vật, hiện t¬ợng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể. Ví dụquan niệm của Beccơly.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó không phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó thường được mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.Ví dụquan niệm của Platon, Hêghen.
Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên hệ với khoahọc. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc nhận thức của nó là sự tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi thế giới vật chất.
Trong lịch sửtriếthọcluôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của tư duytriếthọc. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng giữa các giai cấp đối lập trong xã hội.
c. Bên cạnh các nhàtriếthọcnhất nguyên luận(duy vật hoặc duy tâm) giải thích thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có các nhàtriếthọcnhị nguyên luận. Họ xuất phát từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần để giải thích mọi hiện tượng của thế giới. Theo họ, thế giới vật chất sinh ra từ nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Họ muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nh¬ng cuối cùng họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không phụ thuộc vào vật chất.
2.2.2. Thuyết không thể biết
Khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản củatriếthọc, đại đa số các nhàtriếthọc( cả duy vật và duy tâm) đều thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người, nhưng với những cách lý giải trái ngược nhau. Chủ nghĩa duy vật xuất phát từ chỗ coi vật chất có trước, ý thức có sau và là sự phản ánh thế giới vật chất đã thừa nhận con người có thể nhận thức đươc thế giới khách quan và các quy luật của nó. Còn chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước và quyết định vật chất nên nhận thức không phải là sự phản ánh thế giới, mà chỉ là sự tự nhận thức, tự ý thức về bản thân ý thức. Họ phủ nhận thế giới khách quan là nguồn gốc của nhận thức.
Họcthuyếttriếthọcphủ nhận khả năng nhận thức của con người được gọi là thuyết không thể biết. Họ cho rằng, con người không thể hiểu được đối tượng hoặc nếu có hiểu thì chỉ là hình thức bên ngoài; bởi vì tính xác thực của các hình ảnh về đối tượng mà các giác quan của con người cung cấp trong quá trình nhận thức không đảm bảo tính chân thực. Tiêu biểu là quan niệm của Beccơly, Hium.
Ngay từ thờicổđại đã nảy sinh vấn đề quan hệ giữa linh hồn con ng¬ời với thế giới bên ngoài.Triếthọcra đời cũng giải quyết vấn đề đó, nh¬ng ở tầm khái quát cao hơn là mốiquan hệ giữa tw duy và tồn tại. Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọitriếthọc, đặc biệt làtriếthọchiện đại, là vấn đề quan hệ giữa t¬ duy với tồn tại”( C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, t.21, tr.403); bởi vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và xuất phát điểm để giải quyết các vấn đề khác củatriếthọc. Đồng thời sẽ là tiêu chuẩn để xác định lập tr¬ờng thế giớiquan của cáctriếtgia và cáchọcthuyết của họ.
Vấn đề cơ bản củatriếthọccó hai mặt:
Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: ý thức con người có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan hay không? Nghĩa là con người có khả năng nhận thức hay không?
Việc trả lời hai câu hỏi trên đã dẫn đến sự hình thành các trường phái và cáchọcthuyếttriếthọckhác nhau.
Từ thế kỷ XV – XVI đến thế kỷ XVIII, các bộ môn khoahọcchuyên ngành, nhất là khoahọcthực nghiệm phát triển mạnh mẽ, dần dần tách ra khỏitriếthọc, từng bước làm phá sản tham vọng muốn đóng vai trò “khoahọccủa mọi khoahọc” của một sốhọcthuyếttriếthọclúc bấy giờ, đặc biệt làtriếthọcHêghen.
Đầu thế kỷ XIX,triếthọcMác ra đời đã đoạn tuyệt hoàn toàn với quan niệm trên và xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trư¬ờng duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quan niệm macxit cho rằng:”Triếthọclà một trong những hình thái ý thức xã hội, làhọcthuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con ng¬ời đối với thế giới; là khoahọcvề những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và t¬ư duy”.
Khác với các khoahọccụ thể chỉ đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới,triếthọcxem xét thế giới như một chỉnh thể và đem lại một hệ thống cácquan niệm về chỉnh thể đó.Triếthọclà sựdiễn tảthế giới quan bằng lý luận. Mặc dù có sự khác nhau giữa các hệ thốngtriếthọc, nhưng điểm chung của chúng là đều nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy nói riêng với thế giới.
Như vậy, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, khái quát nhất,triếthọckhông thể ra đời cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người.Triếthọcchỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau:
Thứ nhất, lao động đã phát triển đến mức có sự phân chia lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động chân tay, tạo điều kiện và khả năng nghiên cứu, hệ thống hóa cácquan điểm, quan niệm rời rạc lại thànhhọcthuyết, thành lý luận và trên cơ sở đótriếthọcđã ra đời. Đó là khi chế độ Công xã nguyên thuỷ đã bị thay thế bằng chế độ Chiếm hữu nô lệ – chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khimớira đời,triếthọctự nó đã mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp xã hội nhất định.
Thứ hai, con người đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa để có thể rút ra được cái chung từ vô số các sự vật và hiện tượng riêng lẻ, xây dựng nên cáchọcthuyết, lý luận.
Điều đó khẳng định rằng, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,triếthọcđã ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu của thực tiễn quy định.
1.2.Triếthọclà hạt nhân lý luận của thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con ngư¬ời về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí con người trong thế giới đó.
Đặc tính của tư duy con người là muốn đạt tới sự hiểu biết hoàn toàn, đầy đủ; song tri thức mà con người đạt được luôn luôn là có hạn. Quá trình tìm hiểu về quan hệ giữa con người với thế giới đã hình thành nên những quan niệm nhất định, trong đó có sự hoà quyện thống nhất giữa cảm xúc và trí tuệ, tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giớiquan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi đã trở thành niềm tin định hướng cho hoạt động của con người.
Khác với thế giới quan thần thoại và tôn giáo, thế giới quantriếthọcdựa vào tri thức, là sự diễn tả quan niệm của con nưười dưới dạng hệ thống các quy luật, phạm trù đóng vai trò là những nấc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Với ý nghĩa đó,triếthọcđược xem là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó.
3. Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
Một vấn đề rất quan trọng màtriếthọcphải làm sáng tỏ là: các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh ta tồn tại như thế nào?
Vấn đề này có nhiều cách trả lời khác nhau, nhưng suy đến cùng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình.
3.1. Phương pháp siêu hình
– Nhận thức đối tượng trong trạng thái cô lập, tách rời đối tượng khỏi các chỉnh thể khác; giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
– Nhận thức đối tượng trong trạng thái tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về số lượng và nguyên nhân biến đổi nằm ở bên ngoài sự vật.
Như vậy, phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại với một tư duy cứng nhắc, “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh.. mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.(Sđd, t.20, tr.37).
3.2. Phương pháp biện chứng
– Nhận thức đối tượng trong trạng thái liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và ràng buộc lẫn nhau.
– Nhận thức đối tượng trong trạng thái vận động, biến đổi và phát triển; đó là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn bên trong của chúng.
Như vậy, phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt, “không chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ giữa chúng, không chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh..mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật, không chỉ thấy cây mà còn thấy cả rừng”.
Phương pháp biện chứng đã phát triển trải qua ba giai đoạn và được thể hiện qua ba hình thức lịch sử của phép biện chứng: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật.
– Trong phép biện chứng tự phát thờicổđại, các nhà biện chứng cả phương Đông và phương Tây đã thấy các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Nhưng đó mới chỉ là cái nhìn trực quan, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoahọc.
– Trong phép biện chứng duy tâm, mà đỉnh cao làtriếthọccổđiểnĐức(người khởi xướng là Cantơ và người hoàn thiện là Hêghen), lần đầu tiên trong lịch sử tư duy nhân loại, các nhàtriếthọcĐứcđã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng. Nhưng đó là phép biện chứng duy tâm, bởi nó bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần; thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm tuyệt đối.
– Trong phép biện chứng duy vật, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách làhọcthuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển d¬ới hình thức hoàn bị nhất.
4. Vai trò củatriếthọctrong đời sống xã hội
Vai trò củatriếthọctrong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng củatriếthọcnhư chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục, nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
Trong cuộc sống của con người và xã hội loài người, thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bằng một hệ thống quan niệm về thế giới, con người tìm cách khám phá những bí mật của giới tự nhiên. Có thể ví thế giới quan như một thấu kính, qua đó con người nhìn nhận, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh và tự xem xét chính mình. Từ đó, xác định thái độ, cách thức hoạt động, sinh sống của chính mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.
Triếthọcra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoahọcđem lại. Đó là chức năng thế giới quan củatriếthọc.
Sự phát triển của thực tiễn và khoahọcđã dẫn đến sự ra đời của một lĩnh vực đặc thù của khoahọclý thuyết vàtriếthọc– Đó là phương pháp luận. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét theo phạm vi tác dụng, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ:
+ Phương pháp luận ngành (hay phương pháp luận bộ môn) là phương pháp luận của một ngành khoahọccụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho một số ngành khoahọc.
+ Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy,triếthọcthực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận củatriếthọcđồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là một lý luận về phương pháp.
Phiêu Diêu @ 16:35 01/12/2010
Số lượt xem: 23534
--- Bài cũ hơn ---
Vai Trò Của Triết Học Mác
Văn Học Thiếu Nhi Với Giáo Dục Đạo Đức Cho Trẻ Lứa Tuổi Mầm Non
Giáo Dục Nhân Cách Cho Trẻ Bằng Văn Học Thiếu Nhi
Chức Năng Của Văn Học Là Gì? Đặc Trưng Và Vai Trò Của Văn Học
Phòng Giáo Dục Đào Tạo Cấp Quận/huyện Đang Có Những Nhiệm Vụ Gì?