“Ngay cả khi cần có lực lượng quân sự thì, trong nước… người dân khôn ngoan và thận trọng vẫn phải luôn luôn để ý và canh chừng lực lượng đó”
Khi xây dựng một chính quyền quốc gia mới, các vị lập quốc đã nhận rõ tầm quan trọng cần phải thành lập một chính quyền có thể bảo vệ quốc gia một cách đúng mức. Một chính sách hữu hiệu, thống nhất giữa ngoại giao và quân sự đòi hỏi phải có một lãnh đạo mạnh của ngành hành pháp đối với quân đội. Đồng thời các vị đó cũng nhận thấy rằng nếu không được kiểm soát đúng mức thì lực lượng quân sự có thể được dùng để cướp chính quyền và là một mối đe dọa cho dân chủ. Các vị lập quốc quả thực đã sợ vấn đề lạm dụng quyền lực quân sự, và lo ngại rằng một hành pháp quá mạnh sẽ có lúc thoái hoá thành chế độ độc tài hay chế độ mị dân. Lịch sử đã cho các vị đó biết là những sự tiếm quyền như vậy không phải là ít xẩy ra. Do đó các vị lập quốc thấy rằng muốn bảo vệ dân chủ thì cần phải nêu rõ trong hiến pháp mới là quân sự phải phục tòng chính quyền dân sự. Trong Luận cương Liên bang số 28, Alexander Hamilton viết:
Không lệ thuộc vào tất cả mọi lý luận khác về vấn đề này, đối với những người muốn có một quy định dứt khoát hơn về bộ máy quân sự trong thời bình thì câu trả lời đầy đủ là tất cả quyền lực của chính quyền [chúng ta] trù liệu phải ở trong tay của những người đại diện dân. Điều này là thiết yếu và, nói cho cùng, cũng là phương thức có hiệu lực duy nhất để bảo đảm an toàn các quyền và đặc quyền của dân chúng trong một xã hội dân sự.
Các nhà lập quốc nhận thấy tầm quan trọng của một lực lượng quân sự thường trực để phòng vệ nhưng các vị đó cũng thấy là cần phải thận trọng để gìn giữ tự do và ngăn ngừa tiếm quyền. James Madison đã giải thích trong Luận cương Liên bang số 41 như sau:
Tuy nhiên, cũng như nhiều nguyên tắc khác của Hiến pháp, các chi tiết về việc kiểm soát của [chính quyền] dân sự chưa bao giờ được mô tả rõ trong Hiến pháp. Cách dân sự kiểm soát quân sự năm 1789 khác rất nhiều với cách kiểm soát hiện tại. Thực vậy, các nhà lập quốc không bao giờ trù liệu việc thiết lập một giai cấp quân sự chuyên nghiệp và do đó không thể nào tiên đoán trước được bản chất của sự kiểm soát dân sự như ta thấy hiện nay. Do đó, việc dân sự kiểm soát quân sự tại Hoa kỳ đã tiến hoá vừa theo tập quán và truyền thống và vừa theo tính cách pháp lý của Hiến pháp.
Truyền thống dân là chiến sĩ
Chính hiến pháp cũng không bàn tới vấn đề thiết lập một lực lượng quân sự thường trực. Các nhà lập quốc không quen với quan niệm quân dịch chuyên nghiệp. Các vị đó coi nghĩa vụ quân sự như là một nghĩa vụ đương nhiên của mọi công dân trong thời chiến. Ai cũng biết George Washington vừa là một chính khách mà lại vừa là một chiến sĩ, nhưng có có nhiều đại biểu trong Đại hội Hiến pháp cũng là người trong quân đội trong cuộc Cách mạng Hoa kỳ. Thực vậy, không bao giờ lại có tư tưởng phân biệt giữa giai cấp dân sự và giai cấp quân sự.
Quan điểm của các nhà lập quốc có thể được suy ra từ Điều I, Đoạn 6 của Hiến pháp:
Không một Nghị sĩ hay Dân biểu nào, trong thời gian được bầu, lại có thể được bổ nhiệm vào bất cứ chức vụ dân sự nào sẽ được lập ra hay tiền thù lao của chức vụ đó sẽ được gia tăng trong chính quyền Hoa kỳ; ngược lại không một người nào giữ chức vụ trong chính quyền Hoa kỳ lại có thể là đại biểu trong hai Viện trong thời kỳ tại chức.
Điều khoản này bác bỏ ý tưởng là dân biểu Quốc hội có thể giữ chức vụ trong ngành hành pháp hay tư pháp. Nó phản ánh nguyên tắc căn bản phân quyền và phản ánh chủ trương là mỗi một ngành trong chính quyền phải phân lập và tách ra khỏi các ngành kia. Tuy nhiên, trong điều khoản này không thấy chỗ nào ngăn cấm nghị sĩ hay dân biểu được bổ nhiệm vào các chức vụ quân sự. Vì các nhà lập quốc tin rằng các đại biểu dân cử là các người có khả năng nhất trong xã hội Mỹ, nên các vị đó cho rằng đương nhiên là họ phải ra làm các người chỉ huy quân sự khi quốc biến. Thực vậy, việc đưa điều khoản này vào Hiến pháp được biện minh với lý do là các chức vụ quân sự là những trường hợp biệt lệ. Các nhà lập quốc coi quân sự không phải là một ngành chuyên nghiệp mà chủ yếu là gồm một đội quân hay dân quân, và đội quân này chỉ hiện hữu trong thời chiến. Như Elbridge Gerry, một đại biểu trong Đại hội Hiến pháp, giải thích: “[Sự hiện diện] thường trực của một lực lượng quân sự trong thời bình là không phù hợp với các nguyên tắc của một chính quyền cộng hoà, là một mối đe dọa cho quyền tự do của một dân tộc tự do và thường biến thành những cơ năng phá hoại làm nẩy sinh ra chế độ chuyên chế.”
Như vậy nguyên tắc dân sự kiểm soát [quân sự] thể hiện cái tư tưởng là mọi người công dân có đủ điều kiện đều phải có trách nhiệm bảo vệ quốc gia cũng như gìn giữ tự do, và phải tham gia chiến đấu nếu cần. Đối với các vị lập quốc chỉ có dân quân – trong đó ít có sự ngăn cách giữa cấp chỉ huy và quân lính – mới là lực lượng quân đội thích hợp và là lực lượng có thể phối hợp ý tưởng quân đội phải thể hiện nguyên tắc dân chủ và khuyến khích mọi công dân gia nhập. Suốt trong thế kỷ 19 và cho tới đầu thế kỷ 20, mối lo sợ này đã in sâu vào chính trị và xã hội Mỹ. Truyền thống văn hóa sâu xa úy kỵ quân đội của Hoa kỳ cùng với vị trí địa dư biệt lập đã tạo ra cái di sản dành cho dân sự quyền kiểm soát quân sự.
Do đó sau cuộc chiến tranh cách mạng, các vị lập quốc đã giảm quân đội chính quy và dùng dân quân của tiểu bang để bảo vệ biên giới phía tây. Sự giảm quân đó phản ánh mối lo ngại của nền dân chủ Hoa kỳ đối với các định chế quân sự và các chức năng quân sự, một phần nỗi e ngại đó bắt nguồn từ chế độ cai trị bằng quân sự của Anh trong thời thuộc địa.
Truyền thống văn hóa Anglo-Saxon thịnh hành trong thời kỳ lập quốc cũng là một lý do tổng quát hơn cho tinh thần úy kị quân đội và các định chế quân sự, nhất là trong thời bình. Phản ứng của dân Anh đối với thời kỳ Cromwell trong những năm 1640, khi quân đội Anh được dùng để đàn áp đối lập chính trị, hãy còn in rõ trong ký ức mọi người vào thế kỷ 18. Thêm vào đó, một trong những mâu thuẫn dẫn tới cuộc Cách mạng Hoa kỳ là việc đồn trú của quân đội Anh trên lãnh thổ Mỹ sau cuộc chiến với Pháp và dân Bản xứ Bắc Mỹ (1754-63). Dựa trên quan niệm quyền của họ như là một dân nước Anh, các người dân thuộc địa bác bỏ sự xâm lấn đó với lý do là hành động như vậy không thể nào được chấp nhận ngay trên đất nước Anh. Thái độ dè dặt đó vẫn còn được phản ánh suốt trong thời kỳ Cách mạng. Khi muốn xin Quốc hội cho phép và cấp ngân khoản nuôi dưỡng quân đội, tướng Washington đã phải đoan chắc với Quốc hội là sẽ không dùng quân đội để tiếm quyền Quốc hội. Do đó, ngay cả trong thời chinh chiến, dân Mỹ đã e ngại quyền lực quân sự.
Vị trí địa dư cũng giữ một vai trò quan trọng trong thái độ của dân Mỹ đối với giới quân sự. Suốt trong thế kỷ 19, những đại dương rộng lớn đã làm vùng trái độn cho lục địa Bắc Mỹ còn các nước lân bang thì không phải là mối đe dọa đáng ngại. Với vị trí biệt lập, Hoa kỳ hầu như là không có một sự đe dọa quân sự nào từ Âu châu và Á châu. Tài nguyên thiên nhiên phong phú lại càng khiến cho Mỹ hầu như không lệ thuộc vào những nơi khác trên thế giới.
Do đó, khi nền Cộng hòa mới được thành lập, quan điểm dân sự kiểm soát quân sự của Mỹ được chi phối bởi 4 tiền đề chính sau đây. Thứ nhất, xuất phát từ kinh nghiệm lịch sử của nước Anh và việc thuộc địa đã từng bị quân đội chiếm đóng, [người Mỹ] cho rằng lực lượng quân sự lớn là một sự đe dọa cho tự do. Thứ hai, lực lượng quân sự lớn là một sự đe dọa cho nền dân chủ của Hoa kỳ. Quan niệm này gắn liền với lý tưởng mỗi người dân là một chiến sĩ cùng với mối lo ngại không muốn tạo ra một giai cấp quân sự quý tộc hay chuyên quyền. Thứ ba, lực lượng quân sự lớn là một sự đe dọa cho phồn vinh kinh tế. Và sau hết, lực lượng quân sự lớn đe dọa hòa bình. Các vị Lập quốc chấp nhận quan điểm phóng khoáng cho rằng chạy đua võ trang sẽ dẫn tới chiến tranh. Do đó, việc dân sự kiểm soát quân sự đã xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử và cùng với thời gian đã in sâu vào tư tưởng chính trị của Mỹ qua truyền thống, tập quán và niềm tin [của dân Mỹ].
Các vị tổng thống đầu tiên trong vai trò tư lệnh quân đội
Điều khoản tổng tư lệnh trong Hiến pháp nói rằng, ngoài các nhiệm vụ khác, “tổng thống cũng là tổng tư lệnh của Lục quân và Hải quân Hoa kỳ và dân quân của các tiểu bang, khi các lực lượng này đuợc điều động để phục vụ Hoa kỳ” [phần in nghiêng là phần nhấn mạnh của HVCD][1].Điều khoản này đã là cơ bản suốt trong lịch sử Hoa kỳ, và là căn bản thường trực cho việc dân sự kiểm soát quân sự. Chính cái nguyên tắc cho phép các vị Lập quốc trù liệu cho các thượng nghị sĩ có thể làm tướng trong thời chiến cũng đã cho phép các vị đó chấp nhận một tổng thống dân sự làm tổng tư lệnh quân đội. Điểm then chốt ở đây là chính tổng thống Hoa kỳ, trong khi hành sử tất cả các chức năng của mình, lại bị giới hạn bởi thể chế dân chủ và do đó không có khả năng là sẽ dùng quyền lực quân sự của mình để tăng thêm quyền hành pháp.
Tầm mức mà các vị Lập quốc muốn quy định việc tổng thống hành sử chức năng quân sự của mình được thấy rõ khi các vị đó không ngăn cản được việc tổng thống đích thân chỉ huy quân đội ngoài mặt trận. Lúc bấy giờ người ta trông đợi và muốn là tổng thống có thể, và phải, nắm quyền đích thân chỉ huy quân đội trên chiến trường. Điều này đã được các tổng thống không ngần ngại thực hiện suốt trong thế kỷ 19. George Washington, với tư cách là tổng thống đầu tiên, đã tạo ra tiền lệ này khi ông dẹp cuộc Nổi loạn Whiskey (Whiskey Rebellion), một cuộc nổi loạn bạo động của nông dân [miền tây] Pennsylvania chống thâu thuế của chính quyền liên bang đánh vào [rượu Whiskey] năm 1799. Tuy cuộc nổi loạn này nhỏ và giới hạn trong một vùng, nhưng Washington cho rằng bạo động như vậy là chẳng khác gì phá hoại chính quyền. Washington tuyên bố rằng nếu không dẹp được các người nổi loạn thì “chính quyền nước này coi như là đã cáo chung.” Để biểu dương quyền lực của liên bang, Washington đã huy động một lực lượng quân đội không thua gì lực lượng của toàn thể quân đội trong thời kỳ Cách mạng, và đích thân mang quân sang Pennsylvania.
Các tổng thống khác cũng theo gót tổng thống Washington. Tuy không có hiệu quả, nhưng tổng thống James Madison cũng tổ chức và đặt kế hoạch phòng thủ thủ đô chống lại quân Anh năm 1814. Trong thời kỳ chiến tranh giữa Mỹ và Mê-hi-cô vào những năm 1840, tổng thống James K. Polk đã hành sử quyền tổng tư lệnh của mình, đích thân chỉ huy quân đội chống lại quân Mễ. Tuy Polk không ra mặt trận nhưng các chiến lược của ông đã là căn bản cho các hoạt động quân sự. Suốt trong thế kỷ 19, các tổng thống tiếp tục chỉ huy quân đội, đích thân lập chiến lược quân sự và tham gia vào các hoạt động thuần túy quân sự. Người sử dụng quyền được giao phó này nhiều nhất là Abraham Lincoln.
Lincoln là người phải trực diện với những đe dọa gay go và trầm trọng nhất đối với nền dân chủ Hoa kỳ. Đối đầu với sự ly khai của các tiểu bang miền Nam và sự tan rã của Liên hiệp [Hoa kỳ], Lincoln đã sử dụng toàn bộ quyền hành pháp của mình để duy trì quốc gia. Ông hoãn phiên họp Quốc hội từ tháng Tư tới tháng Bảy năm 1861. Sau đó, sử dụng quyền tổng tư lệnh Lincoln đã tập họp dân quân, gia tăng quân đội và hải quân mà không xin phép Quốc hội, kêu gọi quân tình nguyện, sử dụng công quỹ mà không có Quốc hội chuẩn chi, tạm ngưng luật giam giữ phải có lệnh của tòa, và ra lệnh phong tỏa đường biển [vào vùng của] Tiểu bang Ly khai (the Confederacy). Tới tháng 7, tổng thống nói với Quốc hội như sau:
Không còn sự lựa chọn nào khác là sử dụng quyền ứng chiến của [ngành hành pháp] của chính quyền để dùng võ lực bảo vệ chính quyền chống lại chính cái võ lực đang phá hoại chính quyền…Những biện pháp này, dù có hợp pháp hay không hợp pháp, đã được mạnh dạn thi hành thuận theo yêu cầu của hầu như đa số; và lúc đó, cũng như bây giờ, [chúng ta] mong rằng sẽ được Quốc hội sẵn sàng phê chuẩn. Bây giờ [lại có người] nhất định chủ trương rằng Quốc hội, chứ không phải hành pháp, mới có quyền này. Nhưng chính Hiến pháp cũng đâu có nói rõ ai hay cơ quan nào có quyền hành sử quyền đó. Hơn nữa hiển nhiên là điều quy định này nhắm vào tình trạng khẩn trương nguy biến, ta không thể tin được rằng các vị các vị lập quốc, khi ấn định quyền lực này, lại muốn là trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cứ để cho tình trạng nguy biến tiếp diễn cho tới khi triệu tập được Quốc hội. Trong trường hợp này, chính việc triệu tập Quốc hội lại bị phe phản loạn muốn ngăn cản. Ngành hành pháp rất tiếc đã thấy là đã phải bắt buộc sử dụng quyền ứng chiến để bảo vệ chính quyền.
Nhưng Lincoln không chỉ giới hạn việc hành sử quyền hành ở mức đó. Mùa xuân 1982, ông đã tham gia chỉ huy lực lượng của Liên hiệp. Ông đích thân ấn định kế hoạch hành quân và dùng quân lệnh để điều động quân đội. Tuy nhiên, Lincoln cũng là tổng thống cuối cùng trực tiếp tham gia vào công việc ấn định chi tiết các chính sách quân sự.
Việc hành sử quyền tổng tư lệnh của Lincoln đã xác định thẩm quyền của tổng thống làm cấp chỉ huy cao nhất các lực lượng quân sự. Thực vậy, suốt trong thế kỷ 19, cũng như trong thế kỷ 18, không có sự phân biệt rõ rệt giữa thẩm quyền chính trị và thẩm quyền quân sự. Phần lớn các nhà chính trị cũng lại là các nhà quân sự có tài. Việc tổng thống hành sử chức năng quân sự không gây khó khăn gì có lẽ là vì, mặc dầu Lincoln có nhiều quyền như vậy, nhưng các tổng thống vẫn tiếp tục tôn trọng các giới hạn quyền quy định trong Hiến pháp. Trong thời kỳ đó, một hệ thống quân giai đã hình thành rõ rệt như sau: tổng thống, cùng vói bộ trưởng lục quân và hải quân, là cấp cao nhất trực tiếp ra lệnh cho các cấp chỉ huy quân đội tại chiến trường. Nhiệm vụ chính trị và quân sự do đó vẫn còn lẫn lộn với nhau. Tổng thống thường là người đã có kinh nghiệm chiến trường còn các tướng cũng hay tham gia chính trị. Tới cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20 thì quan niệm phối hợp vai trò tổng tư lệnh với vai trò tổng thống đã trở nên khó duy trì. Tuy nhiên nguyên tắc mạnh mẽ chấp nhận sự kiểm soát dân sự đối với quân sự được thành lập từ thế kỷ 19 vẫn tiếp tục củng cố cho truyền thống này trong thế kỷ 20, tuy có khác đôi chút về hình thức.
Nguồn: http://icevn.org/