Top 8 # Chức Năng Nhận Thức Của Xã Hội Học Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Chức Năng Nhận Thức Và Dự Báo Của Văn Học

Văn học nghệ thuật tồn tại trước hết với tư cách của một hình thái nhận thức, có khả năng mở rộng sự hiểu biết của con người. Mỗi tác phẩm văn học từ xưa tới nay đều có giá trị như một thành tựu trên chặng đường nhận thức chung của nhân loại. Vì thế, văn học luôn đưa ta tới những chân trời mới, giúp ta hiểu hơn cuộc sống không chỉ trong hiện tại mà cả trong quá khứ, không chỉ trong phạm vi đất nước mình mà cả ở những xứ sở xa xôi.

Vì vậy chức năng đầu tiên của văn học là chức năng nhận thức và dự báo. Văn học đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người, trở thành “cuốn sách giáo khoa của đời sống”. Khi nắm bắt đời sống trong tính toàn vẹn thẩm mỹ của nó, nhà văn thường đem vào trong tác phẩm của mình một lượng thông tin phong phú và sinh động về đối tượng mà mình miêu tả. Đó là lượng thông tin thẩm mĩ, giàu hình tượng, dễ tiếp nhận đối với mọi người.

Trong tác phẩm “Ông già và biển cả” chúng ta có thể hiểu thêm về biển, về sự phát hiện những quá trình vật lí, sinh học diễn ra trong lòng đại dương mà còn ở sự khám phá về mối tương quan giữa con người và biển, về bản lĩnh và khát vọng của con người trong cuộc đấu tranh xác lập ý nghĩa tồn tại của mình trước thế giới tự nhiên và thế giới con người.

Phản ánh cuộc sống một cách toàn vẹn, sinh động, văn học còn có khả năng vươn tới tầm cao của sự khái quát, nắm bắt sự vận động bên trong của đời sống hiện thực. Chính từ độ chín của sự khám phá, khái quát ấy, văn học có khả năng dự báo tương lai.

Nhờ năng lực ước đoán, tưởng tượng và sự nhạy cảm trước mọi biến động của lịch sử, nhiều nhà văn dự cảm được những biến động của lịch sử, những quá trình xã hội mới ngay khi thực tế đời sống quanh mình vẫn còn trong trạng thái bốn phương phẳng lặng.

Nhà văn tài năng sẽ không đóng khung cuộc sống trong cái nhìn tĩnh quan mà luôn nhìn nhận đánh giá trong sự vận động, phát triển. Yếu tố tiên tri như một phẩm chất chung của những thành tựu văn học lớn. Tuy nhiên, mức độ dự báo, tính chất và nội dung dự báo không phải như nhau trong mỗi trào lưu văn học.

Bên cạnh những tác phẩm tràn đầy dự cảm lạc quan và niềm tin mạnh mẽ vào con người cũng có không ít những tác phẩm, những xu hướng văn học bộc lộ thái độ bi quan, tuyệt vọng trước tương lai loài người. Đối mặt với hiện tại, thâm nhập sâu rộng vào quá trình thực tiễn, văn học hiện thực chủ nghĩa dễ nắm bắt được những tín hiệu của tương lai.

Please follow and like us:

Comments

Hành Vi Xã Hội Và Kiểm Soát Xã Hội. Các Hình Thức Và Chức Năng Của Kiểm Soát Xã Hội

Hành vi xã hội và kiểm soát xã hội (SC) là đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học tương đối trẻ – tâm lý học xã hội. Sự hiểu biết của họ là cần thiết cho mỗi người. Rốt cuộc, thành công của nó ở một mức độ lớn phụ thuộc vào khả năng xây dựng các mối quan hệ xã hội mang tính xây dựng.

Về mức độ xã hội hóa trẻ em

Xã hội hóa của trẻ nhỏ được gọi là chính. Một đứa trẻ đi vào thế giới. giống như một tờ giấy trắng (tabula rasa), hoàn toàn không biết gì về xã hội. Chẳng mấy chốc, anh phát hiện ra rằng không gian xung quanh mình bị người khác chiếm chỗ. Chính họ là người xây dựng các mô hình cho em bé (mô hình, ma trận) để tìm hiểu về thế giới.

Lĩnh vực xã hội sự kiểm soát xung quanh mỗi cá nhân rất phức tạp bởi hành vi xã hội phát triển của anh ta.

Xã hội hóa thứ cấp của đứa trẻ trùng với việc mua lại một nền giáo dục chính thức. Nhiệm vụ chính của nó là trí thức hóa, tiếp thu các kỹ năng tư duy logic. Đứa trẻ mất đi địa vị độc nhất, đặc trưng của vị trí trong gia đình, trở nên bình đẳng trong trường với các đồng tu. Đồng thời, chính ở giai đoạn giáo dục, ông nhận được những ý tưởng chính về nhà nước, về bất bình đẳng xã hội, về hệ tư tưởng thịnh hành trong xã hội. Trong suốt quá trình xã hội hóa, đứa trẻ được cha mẹ chăm sóc.

Xã hội hóa ở tuổi trưởng thành

Ở giai đoạn thứ ba, đặc trưng bởi sự trưởng thành xã hội, một người trưởng thành (18-60 tuổi) giành được độc lập như một tác nhân kinh tế. Anh ấy (cô ấy) cá nhân kiếm tiền để cung cấp cho cuộc sống của mình, có được gia đình riêng của mình.

Ở giai đoạn trưởng thành, vai trò xã hội của một người có được các địa vị pháp lý khác nhau (chồng, vợ, cha, mẹ). Ông cũng thích vị thế chuyên nghiệp, chính thức. Thông qua sau này, quyền lực có thể được giao phó cho anh ta. Sự trưởng thành xã hội của một người được thể hiện ở sự tham gia tích cực của anh ta vào đời sống xã hội của các cộng đồng khác nhau xung quanh anh ta – công nghiệp, quốc gia, chung chung.

Xã hội hóa người về hưu

Xã hội hóa tuổi già bao gồm sự ra đi dần dần của một người từ hoạt động lao động tích cực. Ý nghĩa của nó là đi chệch khỏi đặc tính trì trệ bản ngã của tuổi nghỉ hưu, thể hiện ở:

giảm các biểu hiện của tinh thần;

cô lập về quá khứ;

trong sự gián đoạn của giao tiếp với hiện tại;

tổ chức một vòng tròn mới của truyền thông.

Các lĩnh vực có thể có của chuyên môn này là một vị trí công cộng tích cực trong sự giáo dục của thế hệ trẻ, trong các nhóm xã hội tại nơi cư trú (ủy ban sân, hợp tác xã nhà mùa hè, v.v.)

Sự thích nghi của con người trong xã hội là kết quả của hành vi xã hội

Hành vi xã hội tích cực của đa số các thành viên trong xã hội cho phép họ giải quyết thành công các nhiệm vụ thích ứng quan trọng nhất ban đầu đối với một người, góp phần vào tiến bộ khoa học và kỹ thuật, tăng trưởng hạnh phúc và theo đó là mức sống.

Về các loại hành vi xã hội

Hành vi xã hội là có mục đích, với sự giúp đỡ của một người đạt được một mức độ định vị nhất định trong xã hội và trong một nhóm xã hội.

Các loại hành vi xã hội khác nhau về chức năng và lợi ích:

đại chúng (phong trào chính trị, tôn giáo và kinh tế, tin đồn, thời trang);

nhóm (tập thể lao động, câu lạc bộ, sân, đồng tu, v.v.);

Porolevoy (mẹ, cha, macho, aksakal, con, v.v.).

Ngoài ra, hành vi xã hội của một người được đặc trưng bởi định hướng mối quan hệ của anh ta với người khác, đó có thể là:

prosocial (thân thiện, gắn liền với mong muốn giúp đỡ, hợp tác);

cạnh tranh (mong muốn nổi bật, trở thành người giỏi nhất);

loại A (cáu kỉnh, yếm thế, thiếu kiên nhẫn, thù địch với mọi người);

loại B (thiện chí).

Cuối cùng, việc phân loại hành vi xã hội xảy ra với một số mẫu hành vi nhất định:

thành tích thành công (vị trí sống tích cực);

tránh các thất bại (cô lập, giả định không tin tưởng);

tìm kiếm liên lạc hoặc tránh chúng;

mong muốn quyền lực, thờ ơ hoặc vâng lời nó;

mô hình hành vi chủ động hoặc bất lực.

Các loại hành vi xã hội trên được phân loại là tuân thủ pháp luật. Ngoài họ, hành vi có vấn đề, lệch lạc và bất hợp pháp cũng xảy ra.

Chúng tôi sẽ đề cập đến chúng trong bài viết này, coi các biện pháp trừng phạt là một yếu tố của thể loại kiểm soát xã hội.

Kiểm soát xã hội là gì?

Khái niệm này đã được chứng minh bởi nhà khoa học người Pháp T. Tarde, và cuối cùng được các nhà xã hội học người Mỹ R. Park và E. Ross đưa ra.

Họ đã hiểu được bản chất của nó, xem xét tác động xã hội toàn diện đối với một cá nhân có hành vi lệch lạc (xã hội). Thông qua ảnh hưởng này, hành vi của anh ta đã được chuyển thành phù hợp với các chuẩn mực xã hội hiện có.

Theo nghĩa rộng, các nhà khoa học coi kiểm soát xã hội là sự tương tác và tương quan liên tục của một cá nhân với xã hội và các nhóm xã hội. Rõ ràng, bản chất của sự kiểm soát như vậy rất quan trọng phụ thuộc vào loại hình xã hội. Một xã hội cổ xưa, toàn trị và dân chủ có những đặc điểm riêng, được thể hiện trong các tính năng của các quy tắc và chế tài xã hội.

Hai hình thức kiểm soát xã hội

Tùy thuộc vào sự hiện diện của địa vị xã hội, hai hình thức kiểm soát xã hội được phân biệt: không chính thức (tức là không chính thức) và chính thức.

Nếu xã hội là cổ xưa, thì Vương quốc Anh hoàn toàn dựa trên sự lên án hoặc chấp thuận của một nhóm xã hội (thành viên gia đình, bạn bè, người quen và đồng nghiệp). Trong trường hợp này, họ đang nói về một Vương quốc Anh không chính thức.

Trong một xã hội văn minh hơn, hành vi của các cá nhân được điều chỉnh bởi các thể chế nhà nước chuyên ngành: lập pháp và hành pháp, truyền thông. Sau này hoạt động ở cấp quốc gia và thành phố. Kiểm soát xã hội như vậy được gọi là chính thức.

Sự kiểm soát bên ngoài quá mức đối với các hoạt động xã hội của công dân bởi quân đội, cảnh sát, tòa án và các cơ quan kiểm soát là đặc trưng của chế độ quyền lực – độc tài. Trong điều kiện như vậy, các quá trình xã hội bị biến dạng. Chúng giống như một con đường điều chỉnh một chiều. Kiểm soát xã hội nhà nước đối với các quốc gia có hệ thống toàn trị tìm cách trở nên toàn diện, nghĩa là kiểm soát toàn bộ xã hội. Một đặc điểm là trong hầu hết các trường hợp, những người xin lỗi của chế độ độc tài biện minh cho sự sáng tạo của mình bằng nhu cầu khôi phục trật tự, được cho là vì lợi ích của mọi công dân.Tuy nhiên, với cô, họ luôn xuống cấp về mặt xã hội, sự tự nhận thức và những nỗ lực ý chí cần thiết cho sự tự chủ hoàn toàn bị giảm đi.

Trong một xã hội dân chủ, 70% quy định xã hội là tự kiểm soát. Sự phát triển của kiểm soát xã hội thường gắn liền với chế độ dân chủ quyền lực nhà nước.

Mục đích của cả hai hình thức SC (bên ngoài và bên trong) là:

duy trì sự ổn định và trật tự trong xã hội;

tuân thủ tính liên tục trong lối sống và đặc thù của sự phát triển.

Trong các xã hội phát triển cao, cả hai hình thức kiểm soát xã hội đồng thời cùng tồn tại, bổ sung hữu cơ cho nhau.

Các loại kiểm soát xã hội

Chính những nỗ lực chung của những người bị kiểm soát bởi lương tâm của chính họ là động lực chính của tiến bộ xã hội.

Chức năng kiểm soát xã hội

Có hai chức năng chính của kiểm soát xã hội:

Một mặt, điều quan trọng là phải nhanh chóng và đầy đủ chống lại các nỗ lực phá hủy các giá trị xã hội. Các chức năng bảo vệ là bảo thủ trong tự nhiên. Nó đóng vai trò là nền tảng cho sự ổn định trong xã hội, kêu gọi sử dụng cẩn thận các sáng kiến ​​xã hội khác nhau. Trước hết, nó bảo vệ các giá trị nhà nước và tôn giáo, đời sống con người, quyền và nghĩa vụ và tính toàn vẹn về thể chất của công dân. Chức năng bảo vệ trực tiếp góp phần chuyển giao kinh nghiệm từ thế hệ cũ sang thế hệ trẻ.

Với sự giúp đỡ của chức năng ổn định của kiểm soát xã hội, dự đoán và kỳ vọng về hành vi xã hội được đảm bảo. Điều này bảo tồn trật tự xã hội hiện có.

Kiểm soát xã hội là công cụ quan trọng nhất của xã hội giúp cho sự đồng hóa và chấp nhận của mỗi người trong nền văn hóa thịnh hành. Nó là phổ quát. Rốt cuộc, hoàn toàn bất kỳ cấu trúc xã hội nào, thậm chí tồn tại trong một thời gian ngắn, là không thể nếu không có SK.

Hệ thống kiểm soát xã hội

Hệ thống kiểm soát xã hội bao gồm tám yếu tố:

hành động xã hội gây ra phản ứng môi trường đầy đủ;

một dẫn xuất của các giá trị xã hội hiện có, một hệ thống để đánh giá các hành động xã hội;

phân loại các hành động xã hội thành đáng trách và khuyến khích;

đánh giá nhóm đặc trưng của các tình huống xã hội phát sinh trong nhóm này (nhận thức xã hội);

các biện pháp trừng phạt xã hội như một phản ứng của xã hội đối với các hành động xã hội;

tự phân loại, tức là tự nhận dạng một người bằng cách thuộc về một nhóm nhất định trong môi trường xã hội;

lòng tự trọng cá nhân;

một đánh giá cá nhân về môi trường và hoàn cảnh mà người đó tiếp xúc với người khác.

Về cơ chế kiểm soát xã hội

Cơ chế kiểm soát xã hội bao gồm các chuẩn mực xã hội và các biện pháp trừng phạt.

Các chuẩn mực xã hội (chính thức và không chính thức) quy định mọi người cách cư xử trong xã hội. Với sự giúp đỡ của họ:

quá trình xã hội hóa đang được điều chỉnh;

các cá nhân đoàn kết trong các nhóm xã hội, và các nhóm hòa nhập với xã hội;

kiểm soát hành vi lệch lạc.

Theo mức độ nghiêm trọng, các tiêu chuẩn có thể được sắp xếp theo thứ tự sau: cấm kỵ (xúc phạm đền thờ, vi phạm điều răn, loạn luân), luật pháp (hành vi quy phạm của lực lượng pháp lý cao nhất), quyền và tự do, thói quen của một nhóm xã hội, truyền thống, nghi thức, phong tục.

Họ hành động như một tiêu chuẩn, một bộ điều chỉnh cho các hành động, cảm xúc, suy nghĩ và bảo vệ các giá trị xã hội. Sau này đề cập đến các khái niệm của con người được xã hội chấp nhận về lòng yêu nước, công bằng, lòng tốt, tình yêu, tình bạn.

Xử phạt tuân thủ kiểm soát xã hội

Kiểm soát xã hội trong xã hội được thực hiện bởi mọi người trên cơ sở các chuẩn mực hiện có. Quy định diễn ra trên cơ sở nguyên tắc của mối quan hệ giữa chuẩn mực xã hội và các chế tài tương ứng với nó. Bị tước bỏ các biện pháp trừng phạt kèm theo, chuẩn mực xã hội rơi ra khỏi hệ thống kiểm soát xã hội, biến thành một lời kêu gọi, một khẩu hiệu, v.v.

Các chế tài là:

tích cực (danh dự, danh tiếng, công nhận, khuyến khích, phê duyệt) và tiêu cực (kết luận, tịch thu tài sản phạt tiền, khiển trách, nhận xét, kết án);

chính thức (đến từ các tổ chức nhà nước), không chính thức (nhận từ người thân và đồng nghiệp trong các nhóm xã hội);

vật chất (quà tặng, tiền thưởng, tiền phạt, tịch thu) và đạo đức (bằng tốt nghiệp, giải thưởng, khiển trách).

lệch lạc (vi phạm là nhỏ và không bị trừng phạt);

phạm pháp (xử phạt của Bộ luật hành chính);

hình sự (chế tài của Bộ luật hình sự).

Kết luận

Kiểm soát xã hội là một công cụ mạnh mẽ để quản lý xã hội. Hầu hết dân số tự nguyện và không ngừng tuân thủ các chuẩn mực được thiết lập bởi xã hội.

Hiện tại, điều này góp phần vào sự phát triển của các tổ chức siêu quốc gia, làm tăng tỷ lệ quan hệ doanh nghiệp.

Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra thông qua sự ủy thác của các cường quốc nhà nước cho các cơ quan siêu quốc gia. Tuy nhiên, bản chất của kiểm soát xã hội trong xã hội thông tin hầu như không thay đổi.

Bài 2: Các Chức Năng Cơ Bản Của Xã Hội Học

Tóm tắt lý thuyết

Các chức năng cơ bản của xã hội học được xây dựng trên cơ sở đối tượng nghiên cứu của xã hội học:

Chức năng nhận thức.

Chức năng thực tiễn.

Chức năng tư tưởng.

Trang bị cho người học hệ thống tri thức khoa học về sự phát triển và các quá trình xã hội, phản ánh tính quy luật khách quan trong quá trình vận động, biến đổi của các hiện tượng xã hội, đồng thời chỉ ra cơ chế của quá trình chuyển biến đó.

Tạo những tiền đề phương pháp trong quá trình nhận thức về những triển vọng nhằm phát triển hơn nữa đời sống xã hội.

Xác định được nhu cầu phát triển của xã hội, của các tầng lớp, nhóm, các cộng đồng xã hội.

Với hệ thống phương pháp luận thực chứng và các phương pháp nghiên cứu “ngành”, kết quả nghiên cứu xã hội học cung cấp những thông tin thể hiện tính khoa học (tính xác thực, độ tin cậy, tập trung và có chọn lọc…), không ngừng nâng cao nhận thức xã hội trong cộng đồng.

Mọi hoạt động của con người đều được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cụ thể, chứa đựng những vấn đề mang tính quy luật được rút ra từ kinh nghiệm thực tế của quá khứ và hiện tại.

Trong các hoạt động thực tế, những nguyên lý này được xã hội học tiếp cận từ các chuẩn mực, các quy tắc…

Ý nghĩa thực tiễn của các phương pháp xã hội học thực nghiệm cho phép khảo nghiệm tính đúng đắn, xác thực của các mô hình, các quyết sách trong công tác quản lý xã hội trên cơ sở lí luận và thực tiễn.

Trong hoạt động khoa học xã hội học, các chức năng thực tiễn được thực hiện bằng các phương pháp luận nhận thức từ việc xác lập đối tượng nghiên cứu của mình.

Chức năng thực tiễn và chức năng nhận thức có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chức năng thực tiễn của xã hội học luôn luôn bắt nguồn từ bản chất khoa học của quá trình nhận thức.

Khi nghiên cứu thực trạng của các quan hệ xã hội, những tri thức xã hội học tạo điều kiện đề con người có thể kiểm soát được quan hệ xã hội của mình và điều hoà các quan hệ đó phù hợp với yêu cầu khách quan của sự vận động, biến chuyển và tiến bộ xã hội.

Năng lực dự báo: trên cơ sở nắm bắt chính xác các quy luật và xu hướng phát triển của xã hội thông qua các mối quan hệ xã hội. Tri thức xã hội học tạo tiền đề và là điều kiện đề thiết kế và điều chỉnh mối liên kết xã hội, phục vụ tốt công tác quản lý xã hội một cách khoa học.

Củng cố mối liên hệ giữa khoa học với đời sống thực tế, phát huy tác dụng của xã hội học đối với công tác tổ chức, quản lý và điều tiết xã hội nói chung. Phát huy năng lực dự báo, quản lý và chỉ đạo.

Xã hội học có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thực tiễn của các cơ quan quản lý xã hội bởi:

Nhu cầu của công tác quản lý đối với các hoạt động xã hội.

Nội dung có tính đặc thù của xã hội học.

Nối liền lý thuyết khoa học với hoạt động thực tiễn. Góp phần vào việc giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển xã hội.

Thể hiện ở việc phục vụ cho việc giáo dục quần chúng theo định hướng giá trị xã hội.

Trang bị tri thức về các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, giáo dục lý tưởng xã hội. Thúc đẩy, duy trì các quan hệ mang tính nhân văn sâu sắc.

Lập trường của nhà xã hội học chân chính phải luôn luôn đảm bảo tính khách quan, khoa học trong quá trình nghiên cứu.

Chức Năng Xã Hội Của Báo Chí

CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Báo chí là loại hình hoạt động thông tin chính trị xã hội có những chức năng xã hội của mình. Chỉ có hiểu những chức năng xã hội của báo chí là gì; bao gồm những chức năng nào; được thực hiện bằng cách nào … thì mới có thể bàn đến nội dung của hoạt động báo chí. I. KHÁI NIỆM 1. Thuật ngữ chức năng: – Theo từ điển tiếng Việt: Chức năng là: + Hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan, một hệ cơ quan nào đó trong cơ thể. + Tác dụng, vai trò bình thường hoặc đặc trưng của một người nào đó, một cái gì đó. – Theo ngữ nghĩa: Chức năng – tiếng La tinh là Functio được hiểu là sự tổng hợp vị trí, vai trò và tác dụng của một đối tượng, của một hoạt động nào đó. Mỗi một đối tượng tồn tại và vận động, mỗi loại hình hoạt động đều nhằm thực hiện những chức năng nhất định nào đó. Chức năng quy định cả hình thức của hoạt động, cả chất lượng của hoạt động, cả đặc điểm của hoạt động. Muốn hiểu và đánh giá đúng được kết quả hoạt động phải đặt nó trong mối tương quan với nhiệm vụ – như là biểu hiện cụ thể của chức năng. Hiểu được chức năng thì mới hiểu được bản chất của đối tượng nghiên cứu, mới xác định được phương hướng và phương pháp hoạt động, và do đó mới có thể hoạt động một cách phù hợp và có hiệu quả. Hay nói cách khác – chức năng là nhiệm vụ mang tính bản chất, nhiệm vụ khách quan. Như vậy, chức năng không phải là sự áp đặt một cách chủ quan, mà nó tồn tại một cách khách quan trên cơ sở của những quy luật nội tại của loại hình hoạt động. 2. Chức năng xã hội của báo chí: – Từ thuật ngữ chức năng báo chí (đồng nghĩa với các thuật ngữ sứ mệnh; bổn phận vốn có của báo chí, cái báo chí sinh ra để làm), ta hiểu được vị trí, vai trò và tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội. Sự ra đời và tồn tại của báo chí đã khẳng định một cách khách quan vị trí, vai trò và tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội. Tổng hợp vị trí, vai trò và tác dụng của báo chí cũng chính là chức năng xã hội của báo chí. Toàn bộ hoạt động của con người (hoạt động có ý thức), trong đó có hoạt động báo chí luôn mang đặc điểm mục tiêu. Con người chỉ bắt tay vào hoạt động khi đã xác định được mục tiêu, dự định đạt được kết quả mong muốn. Đối với nhà báo – xác định mục tiêu hoạt động phải phù hợp với những chức năng xã hội của báo chí. Thiếu hiểu biết đầy đủ về chức năng báo chí hoạt động của nhà báo có thể sẽ mâu thuẫn với những chức năng vốn có của báo chí. Chức năng của báo chí được hình thành không phải là do sự áp đặt một cách chủ quan từ đâu đó hay từ ai đó, mà tồn tại một cách khách quan trên cơ sở những quy luật nội tại của báo chí. Nói về tính khách quan của những chức năng trên cơ sở của những quy luật nội tại của báo chí – C.Mác viết: “… muốn cho báo chí có thể hoàn thành sứ mệnh của mình thì trước hết cần phải không có áp lực nào từ bên ngoài vào, cần phải thừa nhận là báo chí có những quy luật nội tại của mình”. (C.Mác và Ph. Ăng-ghen Toàn tập; Tập 1, tr.227). Vậy những nhiệm vụ khách quan đó của báo chí là gì? Do có vị trí đặc biết trong hệ thống xã hội và có ảnh hưởng to lớn đến các mặt của đời sống xã hội, vai trò của báo chí không chỉ thể hiện trong số lượng các mối quan hệ, trong khối lượng và ý nghĩa của những thông tin về các lĩnh vực mà báo chí phản ánh, mà còn ở chất lượng của các mối qaun hệ đó, có nghĩa là mở rộng phạm vi chiếm lĩnh thực tế, chú ý tới các lĩnh vực mới, thu hút các đối tượng công chúng mới, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu thông tin của công chúng … Do đó, nhận thức rõ nhiệm vụ khách quan (chức năng) của báo chí là rất phức tạp. Lý luận báo chí của chủ nghĩa Mác- Lê nin và thực tiẽn hoạt động của báo chí cách mạng đã cho thấy báo chí tác động tới xã hội theo nhiều khuynh hướng, thực hiện một số nhóm chức năng: Chức năng tư tưởng, chức năng quản lý – giám sát xã hội, chức năng khai sáng – giải trí, chức năng kinh doanh … II. NHÓM CHỨC NĂNG TƯ TƯỞNG – Hoạt động tư tưởng là hoạt động tác động vào thế giới tinh thần của con người hình thành hệ ý thức xã hội cho phù hợp với những mục tiêu đã xác định. Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn coi trọng công tác tư tưởng, coi công tác tư tưởng là một trong số những công tác quan trọng nhất, song song với công tác tổ chức và công tác kiểm tra. Nội dung công tác tư tưởng của Đảng ta: – Truyền bá hệ tư tưởng. – Truyền bá Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng. Mục đích của công tác tư tưởng: – Để quần chúng nhân dân biến hệ tư tưởng của Đảng thành hệ tư tưởng của quần chúng nhân dân. – Để giác ngộ, nâng cao tính tự giác cho quần chúng nhân dân. – Để bồi dưỡng niềm tin, tình cảm cách mạng, cổ vũ hành động. Các loại hình của công tác tư tưởng: – Hoạt động lý luận (Quán triệt và phổ biến hệ tư tưởng; Tổng kết thực tiễn để hình thành đường lối chiến lược , chủ trương, chính sách). – Hoạt động tuyên truyền. – Hoạt động cổ động. (Khi đã có đường lối chiến lược, Chủ trương, chính sách … thì tuyên truyền và cổ động cho chúng). Các công cụ tư tưởng: – Hệ thống các trường lớp chính trị. – Sinh hoạt tư tưởng theo các cơ quan, đoàn thể, đơn vị, tổ chức … – Đội ngũ báo cáo viên. – Bảo tàng, Triển lãm, Pa nô, Áp phích, Các đội tuyên truyền … – Văn học nghệ thuật. – Báo chí (bao gồm các loại hình) là công cụ đặc biệt quan trọng. Trong số các công cụ tư tưởng của Đảng thì báo chí đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Chính vai trò, tác dụng của báo chí trong việc giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với quần chúng nhân dân đã tạo thành nhóm chức năng tư tưởng của báo chí. Báo chí là công cụ tư tưởng quan trọng bởi lẽ báo chí hàng ngày hàng giờ thông qua hoạt động chuyển tải thông tin truyền bá hệ tư tưởng của Đảng vào quần chúng nhân dân, hướng tính tích cực xã hội của quần chúng nhân dân vào việc thực hiện những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Nhóm chức năng tư tưởng của báo chí bao gồm các thành tố: 1. Chức năng mục tiêu: – Lý luận báo chí cách mạng đã chỉ rõ ý nghĩa to lớn của báo chí trong việc hình thành đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân. Vai trò của báo chí cũng tăng nhanh đồng hành với sự phất triển của xã hội cùng với việc mở rộng quy mô của các hoạt động xã hội và thu hút quần chúng nhân dân tham gia vào các phong trào, các hoạt động xã hội. – Báo chí làm nhiệm vụ khách quan là chuyển tải thông tin một cách nhanh chóng, toàn diện và có định hướng. Cũng như mọi hoạt động khác của con người, hoạt động báo chí bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu xác định. Mục tiêu của hoạt động báo chí là nâng cao tính tự giác cho đối tượng công chúng. (Tự giác là làm việc gì tự mình hiểu mà làm, không cần phải nhắc nhở, đốc thúc). Để nâng cao tính tự giác cho công chúng, báo chí phải nâng cao nhận thức và tự nhận thức cho họ. Nhận thức và tự nhận thức nằm trong mối quan hệ biện chứng. Nhận thức (là khả năng của con người phản ánh và tái hiện hiện thực vào tư duy) – là toàn bộ những tri thức về thế giới xung quanh: những quy luật, những hiện tượng, những khuynh hướng, những quá trình của đời sống xã hội. Còn tự nhận thức là hiểu được vị trí của mình trong thế giới, trong các mối quan hệ xã hội; hiểu được mục đích, ý nghĩa của cuộc sống, hiểu được mục đích và yêu cầu, hiểu được cách thức để đạt được mục đích và thỏa mãn những nhu cầu ấy … Sự tự giác là kết quả của nhận thức và tự nhận thức. Tự giác là động lực mạnh mẽ của hành vi, nó quy định tính tích cực xã hội của con người. – Để thực hiện tốt chức năng mục tiêu – báo chí phải: + Giúp cho công chúng nhận thức thế giới khách quan một cách toàn diện, sâu sắc và đúng đắn. + Định hướng xã hội cho công chúng một cách toàn diện, đúng đúng đắn và khoa học. 2. Chức năng định hướng. Để nâng cao tính tự giác cho đối tượng công chúng đòi hỏi báo chí phải định hướng cho họ một cách toàn diện và đúng đắn. Định hướng xã hội – là tác động, giáo dục, giúp đỡ cho công chúng hiểu và đánh giá đúng các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội để từ đó họ xác định được mục tiêu, khuynh hướng và đặc điểm hành vi của mình. Sự định hướng như vậy thể hiện ở các mặt: – Thứ nhất: Qua thông tin báo chí cung cấp giúp cho công chúng hiểu được cái gì đang diễn ra. Sự định hướng bắt đầu từ hiểu biết tất cả các sự kiện hàng ngày diễn ra trong thế giới xung quanh để tạo thành bức tranh toàn cảnh về thế giới khách quan của con người mà con người sống trong nó. Đối với báo chí, mô hình thông tin, hệ thống các khái niệm về cuộc sống là rất quan trọng. – Thứ hai: Qua việc cung cấp thông tin báo chí giúp cho công chúng xác định rõ được rằng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể cần đạt tới cái gì, cả về trước mắt, cả về lâu dài từ quan điểm chính thống. – Thứ ba: Sự định hướng được thể hiện qua việc đánh giá các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng, các nhân vật … (Đương nhiên là từ quan điểm chính thống). Sự đánh giá đó sẽ có sức thuyết phục, tác động mạnh mẽ tới đối tượng khi nó như là những kết luận được rút ra từ việc phân tích các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng, các nhân vật … ấy của thực tiễn (từ quan điểm chính thống). – Thứ tư: Sự định hướng còn thể hiện ở việc phổ biến những giá trị, những chuẩn mực, những phương thức, phương pháp hoạt động … nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra và đạt được những kết qủa cao nhất trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Kết quả định hướng của báo chí đến mức nào phụ thuộc vào mức độ công khai các vấn đề của đời sống xã hội; vào sự dễ hiểu, cập nhật của thông tin; vào khả năng phản ánh và xem xét công khai, thẳng thắn các vấn đề của đời sống xã hội trên báo chí. Định hướng của báo chí trong thực tế có thể toàn diện, sâu sắc và đúng đắn; có thể toàn diện nhưng không sâu sắc và đúng đắn; và cũng có thể là rất yếu kém. Báo chí cách mạng – với bản chất giai cấp và vai trò lịch sử của mình – phải định hướng một cách sâu sắc, toàn diện và đúng đắn, hình thành ý thức khoa học và tiến bộ cho công chúng xã hội, làm sao để công chúng báo chí nhận thức đúng về thế giới xung quanh, hiểu được vị trí và vai trò của mình để lựa chọn thái độ và hành vi cho phù hợp. Định hướng xã hội toàn diện, sâu sắc, đúng đắn và khách quan sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động của công chúng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xã hội đã đề ra. Báo chí thực hiện chức năng mục tiêu, hình thành tính tự giác thông qua định hướng xã hội một cách toàn diện, sâu sắc, đúng đắn và khách quan – mang đặc điểm tổng hợp; có nghĩa là báo chí phải tác động tới các mặt của thế giới tinh thần, tới toàn bộ các bộ phận cấu thành của cấu trúc ý thức xã hội: Thế giới quan; Ý thức lịch sử, văn hóa và Dư luận xã hội. Thế giới quan: là quan niệm thành hệ thống về thế giới, về các hiện tượng tự nhiên và xã hội. TGQ thể hiện cả ở 2 phương diện: bức tranh thực tiễn về thế giới và mối quan hệ, quan điểm về thế giới. Hệ thống quan niệm này quy định lập trường, quan điểm, niềm tin, lý tưởng … của con người. TGQ là lăng kính mà thông qua đó con người nhận thức và đánh giá thế giới xung quanh, thẩm định các giá trị vật chất và tinh thần, bày tỏ thái độ trước các sự kiện, hiện tượng … của đời sống xã hội, xác định mục đích, phương hướng và đặc điểm của hành vi. TGQ là hạt nhân của cấu trúc ý thức xã hội, được hình thành là do cả một quá trình và nó bền vững, chậm thay đổi. Ý thức lịch sử, văn hóa: là thành tố thứ 2 của cấu trúc ý thức xã hội, nó đóng vai trò trung gian, truyền dẫn giữa TGQ và Dư luận xã hội (DLXH). Ý thức lịch sử, văn hóa là quan niệm của con người về lịch sử, về hiện tại trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai. Để xem xét, thẩm định và đánh giá các sự kiện, hiện tượng của thực tiễn, con người phải hiểu và biết được lịch sử hình thành và vận động của thực tiễn, các mối quan hệ của thực tiễn với thời đại, với môi trường tự nhiên và xã hội … Bởi lẽ hiện tại như là quá trình vận động và phát triển của quá khứ, bị quy định bởi quá khứ và ảnh hưởng đến tương lai. Sự hình thành ý thức lịch sử, văn hóa do nhiều yếu tố: văn hóa truyền thống, kiến thức được trang bị bởi hệ thống nhà trường từ thấp đến cao, văn học nghệ thuật, các phương tiện thông tin đại chúng và tuyên truyền, kinh nghiệm sống … trong đó báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng do khả năng cung cấp thông tin nhanh, đa dạng và phong phú: phổ biến những tri thức, những kinh nghiệm, những giá trị lịch sử, thẩm định và cổ động cho những giá trị lịch sử, tạo môi trường cho sự hình thành ý thức lịch sử, văn hóa. Dư luận xã hội: là thành tố động nhât, linh hoạt nhất của ý thức xã hội. DLXH là phản ứng, thái độ của xã hội trước một sự kiện, hiện tượng, vấn đề … hay một nhân vật nào đó. Đối tượng của DLXH là toàn bộ các sự kiện, hiện tượng … của đời sống xã hội. Chủ thể của DLXH là các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các nhóm xã hội, các vùng hay địa phương … DLXH xem xét và đánh giá các sự kiện thường ngày của đời sống xã hội xuất phát từ mối liên hệ đối với chúng. DLXH có thể tiến bộ, có thể lạc hậu, có thể thúc đẩy, có thể kìm hãm sự tiếp thu cái mới, sự phát triển của xã hội. Các thành tố của ý thức xã hội nằm trong mối liên hệ chặt chẽ, vận động một cách linh hoạt dưới sự tác động của thực tiễn. 3. Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng. Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng của báo chí được thể hiện ở sự giáo dục, bao gồm giáo dục thường xuyên và giáo dục lại đối với công chúng báo chí. Giáo dục – là hoạt động nhằm hình thành ý thức ở đối tượng. Khi nhận được những thông tin (về quá khứ và hiện tại, về những quy luật vận động và phát triển của xã hội, về những giá trị và chuẩn mực của cuộc sống …) tạo ra sự thay đổi về chất trong mỗi con người. Nếu những thông tin tiếp nhận ấy là chân thực và khách quan thì quan điểm riêng được hình thành sẽ là tích cực (và ngược lại). Để đạt được hiệu quả giáo dục, báo chí khi truyền bá những thông tin về thực tiễn phải giúp cho công chúng hiểu biết được những quy luật, những sự kiện, hiện tượng, những quá trình của đời sống xã hội, phải quan tâm đến việc tạo ảnh hưởng tư tưởng mạnh mẽ tới họ, phải phối hợp và gắn với những giá trị, những chuẩn mực, những tư tưởng hiện hành, có nghĩa là gắn với chức năng mục tiêu của hoạt động thông tin, với toàn bộ các hình thức định hướng xã hội. Nội dung quan trọng nhất của giáo dục là hình thành tư duy kinh tế, giáo dục ý thức chính trị, ý thức lao động, ý thức đạo đức, ý thức luật pháp, tinh thần yêu nước … và đấu tranh chống lại những tư tưởng và những chuẩn mực đạo đức xa lạ. Hoạt động giáo dục trong báo chí góp phần tạo ra niềm tin của công chúng. Sự xuất hiện của niềm tin đối với báo chí – đó là kết quả của việc tiếp thu thông tin cá nhân, hình thành từ sự tin tưởng vào những phản ánh, phân tích và đánh giá, đề xuất, kiến nghị và kết luận của báo chí. Niềm tin đối với báo chí khác với đức tin trong tôn giáo. Đức tin trong tôn giáo là sự ngộ nhận thiếu bằng chứng … còn niềm tin đối với báo chí được hình thành từ báo chí và do báo chí – thông qua những bằng cớ xác thực của thực tiễn. (Thông qua kỹ năng phản ánh, phân tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng … hàng ngày của báo chí). Do vậy, để hình thành niềm tin của công chúng, đòi hỏi báo chí phải sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các phương pháp tái tạo thực tiễn trong các tác phẩm báo chí, vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những đặc điểm, những quy luật của hoạt động tuyên truyền, cổ động và tổ chức mà nhờ những phương pháp này thực hiện một cách hiệu quả nhiệm vụ giáo dục của báo chí. – Tuyên truyền: là hoạt động truyền bá những tư tưởng nền tảng, quan điểm cơ bản của hệ tư tưởng của chế độ. Nội dung tuyên truyền cơ bản: + Tuyên truyền hệ tư tưởng. + Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. + Tuyên truyền các quan niệm khái quát về thời đại. + Tuyên truyền hình thành lối sống mới. – Cổ động: là hoạt động của báo chí để phổ biến những thông tin thời sự, tác động tích cực và có định hướng vào lập trường, thái độ, tình cảm … của công chúng. Bằng những thông tin phản ánh các sự kiện, hiện tượng hàng ngày về thực tiễn, cổ động được thể hiện trong những đánh giá rõ ràng nhằm hình thành nên mối quan hệ của công chúng với các sự kiện, hiện tượng ấy cho phù hợp với ý nghĩa của nó, định hướng hoạt động cho công chúng. – Tổ chức: Kết quả hoạt động tuyên truyền và cổ động của báo chí được phản ánh trong việc hình thành ý thức và tự ý thức ở công chúng, trong việc giáo dục ý thức, trong việc định hướng toàn diện, sâu sắc và đúng đắn (khoa học). Đó là bước đi đầu tiên, quan trọng của công tác tổ chức. Nó tạo điều kiện quan trọng và cần thiết cho tính tích cực trong các hoạt động xã hội của công chúng để chuyển sang bước thứ hai: tập hợp và hướng dẫn hoạt động của công chúng nhàm thực hiện những mục tiêu chung của xã hội trong từng giai đoạn xã hội cụ thể. Tuyên truyền, cổ động và tổ chức có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đan xen trong nhau, là điều kiện và tiền đề của nhau khó có thể phân định rạch ròi. III. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ – GIÁM SÁT XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ 1. Khái niệm. a). Quản lý – là sự tác động có ý thức, có hệ thống của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đảm bảo cho khách thể quản lý hoạt động có hiệu quả trong việc thực hiện những mục tiêu đã đề ra. b). Quản lý xã hội – khách thể quản lý là những tổ chức, những đơn vị, những cơ quan, đoàn thể, những cá nhân thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, của cả xã hội nói chung. Xã hội bản thân nó là một thực thể cực kỳ đa dạng và phức tạp về số lượng và chất lượng của các bộ phận cấu thành, về vị trí của chúng trong hệ thống xã hội, về chức năng xã hội của chúng, về tính chất của sự tác động lẫn nhau giữa chúng với nhau và giữa chúng với thế giới xung quanh. Mỗi một khách thể đó lại thuộc về một lớp những hệ thống hỗn hợp (chủ thể quản lý) lớn hơn (bao gồm cả yếu tố con người và sự vật). c). Bản chất của hoạt động quản lý – Chủ thể quản lý tác động tới khách thể quản lý bằng thông tin dưới dạng các quyết định quản lý. Hoạt động quản lý do vậy luôn gắn với quá trình thu thập, xử lý thông tin để soạn thảo các quyết định quản lý và khi đã có quyết định quản lý thì phổ biến những quyết định quản lý ấy một cách nhanh chóng, đầy đủ … tới khách thể quản lý. Hoạt động quản lý là hoạt động mang tính chu kỳ. Bất kỳ một chu kỳ quản lý nào cũng bắt đầu từ việc thu thập, xử lý thông tin và kết thúc bằng việc thu nhận những thông tin và cũng là điểm bắt đầu của chu kỳ quản lý mới. Việc khởi thảo chiến lược quản lý (những mục tiêu và nhiệm vụ lâu dài), soạn thảo và lựa chọn các quyết định quản lý, tổ chức thực hiện các quyết định quản lý, điều chỉnh và kiểm tra, tổng kết và đánh giá … cũng xuất phát từ việc thu thập thông tin, xử lý những thông tin thu thập được và kết thúc bằng việc phổ biến những thông tin mới. Như vậy, quản lý xã hội không thể tách rời quá trình liên tục sản xuất và tái sản xuất thông tin. Hiệu quả của hoạt động quản lý do vậy bị quy định bới sự “nhiễu thông tin” và trình độ, năng lực của chủ thể quản lý. – Nhiễu thông tin – là những yếu tố bên ngoài tác động thường xuyên, liên tục (cả tác động tích cực, cả tác động tiêu cực) vào quá trình quản lý. Sự tác động như vậy rất đa dạng. Một số có tác động với cường độ yếu, tác động trong một thời gian ngắn. Số khác tác động yếu nhưng lại thường xuyên hoặc lâu dài không làm rối loạn nghiêm trọng cơ cấu và chức năng của cả hệ thống. Thông tin đầy đủ và kịp thời về những tác động “nhiễu” như vậy tạo điều kiện cho chủ thể quản lý ổn định hệ thống trong trường hợp “nhiễu” yếu và thời gian tác động ngắn, và thích ứng, thích nghi trong trường hợp tác động “nhiễu” thường xuyên hay lâu dài. Có những tác động “nhiễu” phá hoại cơ cấu quản lý và gây rối loạn các chức năng của cả hệ thống hay một số bộ phận cấu thành nào đó của hệ thống quản lý. Để khắc phục – chủ thể quản lý phải khôi phục cơ cấu chức năng nhằm ổn định hệ thống, duy trì hoạt động của hệ thống. Để làm được điều đó cần phải thu thập thông tin đầy đủ và chính x