Top 9 # Chức Năng Nhiệm Vụ Của Bộ Máy Nhà Nước Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Thống Nhất Chức Năng, Nhiệm Vụ, Bộ Máy Của Tổ Chức Đảng Trong Doanh Nghiệp Nhà Nước

Các đại biểu tham dự hội thảo.

Báo cáo đề dẫn do đồng chí Nguyễn Thanh Bình trình bày, nhấn mạnh: Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng; từng bước sắp xếp tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng trong doanh nghiệp. Hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với tổ chức đảng, nhất là tổ chức đảng cấp trên cơ sở trong các DNNN và DN có vốn nhà nước chi phối, phải đổi mới, hoàn thiện đồng bộ giữa mô hình tổ chức DN với đổi mới, hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng; kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Từ thực tiễn sinh động của TP Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Thị Dung, Phó Bí thư Thành ủy đề nghị xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng ủy cấp trên cơ sở với tổ chức đảng trực thuộc, nhất là với tổ chức đảng trong DN mà vốn nhà nước không chi phối. Đảng ủy cấp trên cơ sở kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng trong DN có vốn nhà nước không chi phối chỉ kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ; kiểm tra doanh nghiệp chấp hành quy định của luật về chính sách người lao động. Đồng chí đề nghị cần rà soát Luật Doanh nghiệp, Luật Công đoàn; cần có quy định Đảng lãnh đạo đoàn thể, tham gia góp ý kiến vào kế hoạch sản xuất, kinh doanh như thế nào; quan tâm nghiên cứu chỉ đạo về bộ máy Đảng ủy trong DN cổ phần hoá, nhất là DN có vốn nhà nước không chi phối.

Theo đồng chí Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên dự khuyết T.Ư Đảng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng VietinBank, là đơn vị áp dụng mô hình tổ chức đảng chưa toàn ngành, Đảng ủy VietinBank không lãnh đạo, chỉ đạo toàn hệ thống, vì vậy việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng ủy có những bất cập. Công tác xây dựng Đảng, phát triển đảng viên ở các đơn vị trong hệ thống bị hạn chế bởi công tác đánh giá chất lượng tổ chức đảng, đảng viên được thực hiện theo hướng dẫn của cấp ủy địa phương, chưa có sự gắn kết với quy chế đánh giá cán bộ của VietinBank.

Đồng chí Trần Ngọc Thành, Bí thư Đảng ủy Tổng công ty Đường sắt Việt Nam nêu thực tế: Đảng bộ tổng công ty có 114 tổ chức cơ sở đảng, 1.038 chi bộ, trong đó có các tổ chức đảng thuộc doanh nghiệp nhà nước, hoặc công ty cổ phần có vốn sở hữu nhà nước dưới 50%, hoặc đã thoái hết vốn nhà nước. Hoạt động của doanh nghiệp cổ phần phát sinh nhiều yếu tố bất cập, dẫn đến vai trò của tổ chức đảng dần dần bị hạn chế, nhất là ở những nơi Nhà nước không giữ cổ phần chi phối. Vai trò của tổ chức đảng trong doanh nghiệp bị chi phối bởi cổ đông lớn, không còn chủ động trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác cán bộ. Một số doanh nghiệp sau cổ phần hóa làm ăn thua lỗ, lãnh đạo doanh nghiệp, cấp ủy biến động, không phát huy được vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng.

Đồng chí Phạm Xuân Cảnh, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy, thành viên Hội đồng thành viên (HĐTV) Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đề nghị cần có hướng dẫn cụ thể về việc lập các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng bộ toàn tập đoàn, toàn tổng công ty; hướng dẫn việc lập mô hình tổ chức đảng tại cơ quan Công ty mẹ Tập đoàn (bao gồm bộ máy điều hành, bộ máy tham mưu giúp việc của Tập đoàn) trực thuộc Đảng bộ toàn Tập đoàn. Vì trong thực tế, tập đoàn kinh tế là một nhóm doanh nghiệp (gồm Công ty mẹ Tập đoàn và các doanh nghiệp thành viên) và việc điều hành tập đoàn kinh tế thực hiện thông qua Công ty mẹ Tập đoàn, hoạt động bằng pháp lý của Công ty mẹ Tập đoàn. Đại diện Đảng ủy đề nghị cần xác định rõ đối tượng và phân biệt giữa đảng ủy cấp trên cơ sở và đảng ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng. Tại Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thì Đảng ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng còn được giao một số quyền cấp trên cơ sở. Thực tiễn hiện nay, trong các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước chi phối chịu sự điều chỉnh theo các văn bản quy phạm pháp luật. Vai trò của cấp ủy Đảng trong công tác cán bộ được quy định thuần túy chỉ là cấp cho ý kiến (đồng ý hoặc không đồng ý) về công tác cán bộ ở tất cả các khâu theo đề nghị của HĐTV và Tổng giám đốc doanh nghiệp. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn trong lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ cần cụ thể hơn. Cần nêu rõ: Cấp ủy lãnh đạo cụ thể những gì? Lãnh đạo như thế nào? Thẩm quyền được quyết định những gì, quyết định những khâu nào trong công tác cán bộ? Xây dựng quy chế, quy định gồm những gì? Đề nghị bổ sung thẩm quyền của ban thường vụ cấp ủy trong việc quyết định định biên cán bộ chuyên trách của các đoàn thể chính trị – xã hội trong doanh nghiệp.

Kiện toàn tổ chức, bộ máy đồng bộ hơn Phần lớn đại biểu nhất trí cao với dự thảo; đề xuất nên xác định rõ tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước theo mô hình toàn tập đoàn hay mô hình không toàn tập đoàn. Đồng chí Nguyễn Văn Thắng cho rằng, hoạt động của ngành ngân hàng có những đặc thù riêng, trong khi đó tại địa phương, đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh, thành phố chỉ đạo chưa sát với nhiệm vụ chính trị của ngân hàng. Đảng bộ VietinBank mong muốn được kiện toàn theo mô hình đảng bộ toàn ngành để lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các mặt hoạt động, thống nhất xuyên suốt toàn hệ thống, thực hiện đúng chủ trương nhất thể hóa sự lãnh đạo của Đảng.

Đồng chí Ngô Thị Thanh Hằng đề nghị Trung ương nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc các thành phần kinh tế, tránh tình trạng đảng bộ doanh nghiệp thành viên có cùng cấp bộ đảng với đảng bộ các tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Nên ưu tiên xác lập đảng bộ toàn doanh nghiệp vì có nhiều ưu điểm hơn, thuận lợi cho công tác lãnh đạo, điều hành, nhất là trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác cán bộ.

Theo tham luận của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, công tác cán bộ của Đảng ủy Tập đoàn đối với các đơn vị thành viên chưa toàn diện và đồng đều. Hiện nay, Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn quản lý cán bộ đến thủ trưởng các đơn vị cấp III, tuy nhiên, việc đánh giá cán bộ hằng năm (đối với cán bộ của các đơn vị sinh hoạt đảng tại địa phương) chưa đầy đủ thông tin, do chưa có quy định báo cáo thường xuyên. Quy chế làm việc của Đảng ủy Tập đoàn cũng chưa có quy định về mối quan hệ công tác giữa Đảng ủy Tập đoàn với cấp ủy các đơn vị sinh hoạt đảng tại địa phương. Tuy mô hình tổ chức đảng chưa đồng bộ, song Đảng ủy Tập đoàn vẫn giữ được vai trò lãnh đạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng và phát triển Tập đoàn. Vì vậy, Đảng ủy đề nghị tiếp tục mô hình Đảng bộ công ty mẹ mở rộng.

Về tổ chức bộ máy, đồng chí Phạm Xuân Cảnh nêu ý kiến, nên quy định một phó bí thư phụ trách xây dựng Đảng, có thể bố trí kiêm lãnh đạo doanh nghiệp, để có sự lãnh đạo gắn kết, sâu sát hơn với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh mà không nên quy định phó bí thư chuyên trách. Một số đại biểu cho rằng, cần quy định rõ việc lập cơ quan chuyên trách, các ban chuyên trách và định biên cán bộ chuyên trách cho từng ban chuyên trách xây dựng Đảng. Số lượng cán bộ chuyên trách cần phân theo quy mô đảng bộ, vị trí doanh nghiệp: Tập đoàn kinh tế khác tổng công ty và khác các ngân hàng thương mại; đảng bộ toàn tập đoàn khác các đảng bộ công ty mẹ hoặc đảng bộ cơ quan. Cán bộ tại các ban chuyên trách không nên quy định tăng cường bố trí kiêm nhiệm – nếu có thì chỉ nên kiêm nhiệm trong phạm vi cơ quan chuyên trách, giữa các ban chuyên trách; tránh trường hợp quy định “tăng cường bố trí kiêm nhiệm công tác đảng” thì lãnh đạo doanh nghiệp sẽ không bố trí đủ số lượng định biên cần thiết và trong thực tế ở doanh nghiệp, cán bộ tham mưu trực tiếp bố trí kiêm nhiệm hiệu quả không cao.

Đồng chí Nguyễn Kim Anh, Ủy viên Ban cán sự Đảng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề nghị cần cập nhật chủ trương, chính sách mới để xây dựng quy định phù hợp. Thí dụ, nếu chỉ quy định mô hình tổ chức đảng trong ngân hàng thương mại thì chưa đủ. Nhiều ngân hàng nhà nước hiện là ngân hàng cổ phần nhà nước chi phối, hay ngân hàng chính sách là tổ chức tài chính có chức năng tín dụng.

Từ thực tế tại Đảng bộ Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam, đồng chí Hoàng Đức Sơn, Phó Bí thư Đảng ủy cho biết, hiện nay, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp T.Ư có Ban Dân vận, nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng ủy Khối triển khai xuống các đảng ủy trực thuộc, nhưng chưa quy định thuộc ban tham mưu, giúp việc nào của cấp ủy cấp trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ này. Do vậy, cần quy định nhiệm vụ công tác dân vận thuộc ban nào trong các ban tham mưu, giúp việc cấp ủy và nên đưa vào quy định này. Còn đồng chí Trần Ngọc Thành, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tổng công ty Đường sắt Việt Nam nêu ý kiến, khi quy định về mô hình tổ chức đảng cấp trên cơ sở trong DNNN cần xem xét việc sắp xếp các tổ chức đoàn thể chính trị cho phù hợp, tránh tình trạng như hiện nay là tổ chức đảng trực thuộc nơi này; công đoàn, đoàn thanh niên trực thuộc nơi khác. Đối với quy định về số lượng cán bộ chuyên trách công tác đảng, nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu thật kỹ lưỡng để quyết định phù hợp. Cần tính đến chế độ chính sách, nguồn chi trả để không ảnh hưởng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, nhưng vẫn bảo đảm thực hiện nhiệm vụ công tác đảng.

Mối quan hệ giữa đảng ủy với lãnh đạo doanh nghiệp và cấp ủy địa phương Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đảng ủy cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp, cần xây dựng mối quan hệ công tác giữa đảng ủy cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước với: Tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy; đảng đoàn, ban cán sự đảng, lãnh đạo các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương; hội đồng quản trị/hội đồng thành viên, tổng giám đốc và các đoàn thể chính trị – xã hội trong doanh nghiệp; cấp ủy địa phương nơi doanh nghiệp có đơn vị thành viên đóng trên địa bàn. Các đại biểu đã có những kiến nghị, đề xuất cụ thể, tương đối nhất, có thể chia thành các nhóm nội dung là: Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Đường sắt Việt Nam Trần Ngọc Thành kiến nghị, Trung ương cần quy định cơ chế phối hợp giữa đảng ủy tổng công ty, tập đoàn với tỉnh ủy, thành ủy. Thực tế, các đơn vị thành viên của Tổng công ty Đường sắt đóng ở các tỉnh, thành phố và trải dài qua hơn 200 huyện. Nếu Đảng ủy đường sắt phối hợp cấp ủy huyện sẽ rất khó khăn và không thể; còn trong mối quan hệ với tỉnh ủy thì Đảng ủy đường sắt chỉ tương đương cấp huyện, khó gọi là phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy.

Ở một góc độ khác, Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Trọng Thừa đề nghị cần quy định thật rõ mối quan hệ giữa đảng ủy trong nội bộ tập đoàn, tổng công ty, cụ thể là với hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, tổng giám đốc. Đồng thời kiến nghị quy định về mối quan hệ phải được cân nhắc, đối chiếu với Luật Doanh nghiệp, xem có cản trở doanh nghiệp phát triển hay không? Bởi vì tiến trình cổ phần hóa tới đây sẽ rất nhanh và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nêu rõ là tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp phát triển.

Đồng chí Hoàng Đức Sơn đề nghị Trung ương quy định rõ hơn việc phối hợp về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác cán bộ; quy định các đảng ủy tập đoàn, tổng công ty phối hợp cấp ủy nào ở địa phương. Để việc phối hợp giữa các đảng ủy tập đoàn kinh tế với cấp ủy địa phương có hiệu quả cao, đề nghị Trung ương quy định cụ thể hơn như, phối hợp bằng việc ban hành các nghị quyết, quyết định, quy định về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác cán bộ và lãnh đạo các đoàn thể quần chúng.

Về mối quan hệ của đảng ủy với các tổ chức trong nội bộ doanh nghiệp, Phó Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh Võ Thị Dung đề nghị, bí thư cấp ủy phải là người giữ vai trò chủ chốt trong doanh nghiệp thì mới thực hiện tốt được nhiệm vụ, phát huy vai trò của tổ chức đảng. Đồng quan điểm này, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy, thành viên HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Phạm Xuân Cảnh đề nghị, bí thư cấp ủy nên là chủ tịch, tổng giám đốc.

Khái Niệm Chức Năng Của Nhà Nước Và Bộ Máy Nhà Nước

Chức năng của nhà nước là những phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.

Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, các chức năng được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:

Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước. Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế … là những chức năng đối nội của các nhà nước.

Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và dân tộc khác. Ví dụ: phòng thủ đất nước, chống xâm lược từ bên ngoài, thiết lập các mối bang giao với các quốc gia khác …

Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn phải xuất phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội. Đồng thời, kết quả của việc thực hiện các chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội.

Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nahf nước sử dụng nhiều hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có ba hình thức hoạt động chính là: Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Trong mỗi nhà nước, việc sử dụng ba hình thức hoạt động này cũng có những đặc điểm khác nhau. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước, các phương pháp hoạt động để thực hiện các chức năng của nhà nước cũng rất đa dạng nhưng nhìn chung có hai phương pháp chính là thuyết phục và cưỡng chế. Trong các nhà nước bóc lột, cưỡng chế được sử dụng rộng rãi và là phương pháp chủ yếu để thực hiện các chức năng của nhà nước. Ngược lại, trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa, thuyết phục là phương pháp cơ bản, còn cưỡng chế được sửu dụng kết hợp và dựa trên cơ sở của thuyết phục và giáo dục. Các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước.

Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan từ trung ương xuống địa phương, bao gồm nhiều loại cơ quan như cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp … Toàn bộ hoạt động của bộ máy nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều cơ quan, mỗi cơ quan cũng có những chức năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi quyền hạn được giao. Vì vậy, cần phân biệt chức năng nhà nước với chức năng của mỗi cơ quan nhà nước cụ thể. Chức năng của nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của toàn thể bộ máy nhà nước, trong đó mỗi cơ quan khác nhau của nhà nước đều tham gia thực hiện ở những mức độ khác nhau. Chức năng của một cơ quan chỉ là những mặt hoạt động chủ yếu của riêng cơ quan đó nhằm góp phần thực hiện những chức năng và nhiệm vụ chung của nhà nước.

Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước thuộc mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau và việc tổ chức bộ máy để thực hiện các chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng. Vì vậy, khi nghiên cứu các chức năng của nhà nước và bộ máy nhà nước phải xuất phát từ bản chất nhà nước trong mỗi kiểu nhà nước cụ thể để xem xét.

Bộ Máy Nhà Nước Là Gì? Mối Liên Hệ Với Chức Năng Của Nhà Nước

Phân tích khái niệm bộ máy nhà nước (Bộ máy nhà nước là gì?). Trình bày mối liên hệ giữa bộ máy nhà nước với chức năng của nhà nước.

1 – Phân tích khái niệm bộ máy nhà nước

a – Bộ máy nhà nước là gì?

Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.

b – Phân tích các đặc điểm của bộ máy nhà nước

– Bộ máy nhà nước là hệ thống cơ quan nhà nước, bao gồm nhiều cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương:

+ Trong bộ máy nhà nước bao gồm khá nhiều cơ quan nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước là một yếu tố, một đơn vị cấu thành bộ máy nhà nước. Chẳng hạn, bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay gồm nhiều cơ quan từ trung ương tới địa phương như Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân…

+ Giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước luôn có sự liên kết chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một thể thống nhất, trong đó mỗi cơ quan nhà nước được xem như là một mắt xích của hệ thống đó.

– Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật và trên cơ sở những nguyên tắc nhất định.

+ Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt, xuất phát điểm, làm cơ sở cho toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

+ Bộ máy nhà nước thường bao gồm nhiều cơ quan có vị trí, vai trò và phạm vi hoạt động… khác nhau, do vậy, khó có thể phát huy được sức mạnh và hiệu quả hoạt động của bộ máy nếu không được tổ chức một cách chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ. Vì thế, để thiết lập trật tự trong bộ máy nhà nước nhằm tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, thống nhất trong hoạt, động giữa các cơ quan nhà nước, tăng cường sức mạnh của cả bộ máy nhà nước, đòi hỏi quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy này phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật và những nguyên tắc chung nhất định. Ví dụ, bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc như: chủ quyền nhân dân, tập trung dân chủ, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật…

– Bộ máy nhà nước được thiết lập để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.

Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước, khi nhà nước cần phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ nào đó, nhà nước thành lập ra các cơ quan tương ứng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ ấy. Chẳng hạn, khi môi trường của đất nước bị ô nhiễm thì nhà nước phải thành lập cơ quan quản lý và bảo vệ môi trường để xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn môi trường nhằm hướng dẫn mọi người bảo vệ môi trường; kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường của các chủ thể và phát hiện, xử lý các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường…

2 – Mối liên hệ giữa bộ máy nhà nước với chức năng của nhà nước

Bộ máy nhà nước được thành lập và hoạt động để thực hiện các chức năng của nhà nước, do vậy, quy mô, cơ cấu của bộ máy nhà nước cũng như cách thức tổ chức và hoạt động của từng cơ quan nhà nước… chịu sự chi phối có tính chất quyết định của chức năng nhà nước. Chẳng hạn, nếu chức năng chủ yếu của nhà nước là trấn áp thì trong bộ máy nhà nước các cơ quan cưỡng chế, trấn áp cũng là chủ yếu và được coi trọng nhất; ngược lại, nếu chức năng chủ yếu của nhà nước là tổ chức và quản lý kinh tế, xã hội thì trong bộ máy nhà nước cũng chủ yếu bao gồm các cơ quan quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng của nhà nước càng nhiều, càng đa dạng, phong phú thì bộ máy nhà nước càng đồ sộ, phức tạp, số lượng các cơ quan và nhân viên trong bộ máy nhà nước càng đông hơn và cách thức tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước càng phải khoa học và hợp lý hơn. Ví dụ, chức năng của Nhà nước Việt Nam hiện nay nhiều hơn, đa dạng và phong phú hơn so với chức năng của các nhà nước phong kiến Việt Nam, do vậy, bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay đồ sộ và phức tạp hơn nhiều so với các nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây.

Do được thành lập để thực hiện các chức năng của nhà nước nên hiệu quả thực hiện các chức năng của nhà nước lại phụ thuộc vào sự hợp lý trong tổ chức và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Nếu bộ máy nhà nước được tổ chức hợp lý, phù hợp với chức năng, hoạt động có hiệu quả thì hiệu quả thực hiện các chức năng của nhà nước sẽ cao và ngược lại, nếu tổ chức của bộ máy nhà nước không hợp lý, hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả thì hiệu quả thực hiện chức năng của nhà nước sẽ thấp.

Chia sẻ bài viết:

Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam

(Theo Nghị định 96/2008/NĐ-CP, ngày 26/08/2008)

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước.

Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:

1. Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Ngân hàng Nhà nước đã được phê duyệt và các dự án, đề án theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

2. Trình Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, năm năm, hàng năm; chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành động và các dự án, công trình quan trọng thuộc lĩnh vực ngân hàng; dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác thuộc thẩm quyền chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của pháp luật.

3. Ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị thuộc lĩnh vực quản lý của Ngân hàng Nhà nước.

4. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện văn bản pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án, công trình quan trọng thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước đã được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước.

5. Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, trình Chính phủ để trình Quốc hội; sử dụng lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; trình Chính phủ đề án phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng.

6. Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, đổi tên và chấp thuận việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng; hướng dẫn về các điều kiện thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.

7. Kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng; kiểm soátt tín dụng; xử lý các hành vi vi phạm luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật.

a) Quản lý các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật.

b) Quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước; kiểm soát dự trữ quốc tế;

c) Xác định tỷ giá giữa Việt Nam đồng và ngoại tệ, tổ chức và phát triển thị trường ngoại tệ; xây dựng cơ chế tỷ giá trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

9. Về xây dựng cán cân thanh toán quốc tế:

a) Thu thập, tổng hợp, lập dự báo và theo dõi việc thực hiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam; báo cáo tình hình thực hiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam theo quy định của pháp luật;

b) Làm đầu mối cung cấp số liệu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam cho các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.

10. Về quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của người cư trú là tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và cá nhân theo quy định của pháp luật:

a) Thực hiện quản lý nhà nước đối với việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc khu vực công; giám sát, theo dõi việc vay, trả nợ nước ngoài của khu vực tư nhân; hướng dẫn và kiểm tra việc bảo lãnh vay nước ngoài của các ngân hàng thương mại và của các tổ chức khác được phép cấp bảo lãnh vay nước ngoài theo quy định của pháp luật;

c) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính điều hành hạn mức vay thương mại nước ngoài hàng năm của doanh nghiệp, tổ chức khác đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;

d) Tổng hợp tình hình vay, trả nợ nước ngoài hàng năm của các doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc khu vực công và khu vực tư nhân; báo cáo Thủ tướng Chính phủ, đồng gửi Bộ Tài chính để tổng hợp chung tình hình về vay, trả nợ nước ngoài hàng năm của cả nước;

đ) Hướng dẫn và tổ chức việc đăng ký các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc khu vực công và khu vực tư nhân (kể cả các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh);

g) Thiết lập hệ thống cảnh báo sớm về rủi ro từ nợ của khu vực doanh nghiệp;

h) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác về quản lý vay, trả nợ nước ngoài theo quy định của pháp luật.

11. Về quản lý cho vay và thu hồi nợ nước ngoài của Chính phủ, tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng:

a) Phối hợp với Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định mức, nguồn vốn, hình thức, đối tượng, cơ chế quản lý cho vay và thu hồi nợ nước ngoài của Chính phủ;

b) Quy định điều kiện, đối tượng, hình thức và cơ chế quản lý cho vay, thu hồi nợ nước ngoài đối với người cư trú là tổ chức tín dụng;

c) Quy định điều kiện, thủ tục, quy trình cấp phép và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định cho phép người cư trú là tổ chức kinh tế cho vay, thu hồi nợ nước ngoài;

d) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác về cho vay và thu hồi nợ nước ngoài theo quy định của pháp luật.

12. Về đàm phán, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng :

13. Đại diện cho nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các ngân hàng và tổ chức tiền tệ quốc tế theo uỷ quyền của Chủ tịch nước, Chính phủ:

a) Thực hiện chức năng thành viên tại Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư quốc tế (International Investment Bank – IIB), Ngân hàng Hợp tác kinh tế quốc tế (International Bank Por Economic Cooperation – IBEC);

14. Về việc thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương:

a) Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu huỷ tiền;

b) Thực hiện tái cấp vốn để cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế;

c) Điều hành thị trường tiền tệ; thực hiện nghiệp vụ thị trường mở;

d) Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng; quản lý nhà nước đối với hoạt động thanh toán; cung ứng dịch vụ thanh toán; tổ chức thực hiện chính sách khuyến khích, mở rộng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt;

đ) Làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc Nhà nước;

e) Tổ chức hệ thống thông tin và cung ứng dịch vụ thông tin ngân hàng; quản lý các tổ chức hoạt động thông tin tín dụng; phân tích xếp hạng tín dụng doanh nghiệp Việt Nam;

g) Thực hiện các nghiệp vụ khác của Ngân hàng Trung ương.

15. Quyết định phê duyệt và tổ chức thực hiện các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền; thẩm định và kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng theo quy định của pháp luật.

16. Quản lý tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật; được sử dụng các khoản trích từ nguồn thu hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ về ngoại hối, tiền tệ và hoạt động ngân hàng để phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của pháp luật.

17. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật.

18. Tổ chức và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của pháp luật.

19. Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và chỉ đạo thực hiện cơ chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng; quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

20. Thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước:

a) Xây dựng đề án thành lập, sắp xếp, tổ chức lại, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo thực hiện sau khi đề án được phê duyệt;

b) Phê duyệt theo thẩm quyền hoặc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng;

c) Trình Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm theo thẩm quyền các chức danh thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc các tổ chức tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước khác thuộcphạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước.

21. Hướng dẫn và kiểm tra hoạt động của hội, tổ chức phi chính phủ trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước; xử lý hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của hội, tổ chức phi chính phủ theo quy định của pháp luật.

22. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng thuộc thẩm quyền; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, cửa quyền; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo quy định của pháp luật.

23. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Ngân hàng Nhà nước theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; quyết định và chỉ đạo đổi mới phương thức làm việc, hiện đại hoá công sở và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của Ngân hàng Nhà nước.

24. Quản lý ngạch công chức, viên chức chuyên ngành thuộc lĩnh vực ngân hàng:

a) Tổ chức thi nâng ngạch viên chức; ban hành tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ ngạch viên chức được phân công, phân cấp quản lý theo quy định của pháp luật;

b) Xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của ngạch công chức thuộc lĩnh vực ngân hàng để Bộ Nội vụ ban hành.

25. Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, chế độ nghỉ hưu, khen thưởng, kỷ luật, tiền lương và các chế độ chính sách khác đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước.

26. Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế về tiền lương, tuyển dụng và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với đặc thù của Ngân hàng Nhà nước.

27. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao và theo quy định của pháp luật.