Top 8 # Chức Năng Quốc Hội Theo Hiến Pháp 2013 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Vị Trí, Chức Năng Của Quốc Hội Trong Hiến Pháp Năm 2013

Đây là sự thay đổi cơ bản về nhận thức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đồng thời kế thừa tư tưởng lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hiến pháp năm 1946.

Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ thông qua các cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) mà còn thông qua các cơ quan nhà nước khác, và bằng cả hình thức dân chủ trực tiếp như phúc quyết Hiến pháp khi Quốc hội quyết định (Điều 120), trưng cầu dân ý (Điều 29). Vì thế, quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, Nhân dân sử dụng quyền lập hiến để thiết lập quyền lực nhà nước, trong đó có quyền lập pháp.

Vềchức năng của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn, khái quát hơn trên ba phương diện: thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Trước hết, về thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt rõ ràng giữa quyền lập hiến, quyền lập pháp và thay quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” bằng quy định “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp” (lập hiến và lập pháp theo Hiến pháp năm 1992 là một quyền).

Hiến định nội dung này, Hiến pháp năm 2013 đòi hỏi Quốc hội phải tập trung hơn nữa vào chức năng làm luật để khắc phục tình trạng vừa thiếu pháp luật, vừa mẫu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, trong đó có Quốc hội đều phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, không thể tự định cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn đã được Hiến pháp, pháp luật quy định. Thứ hai, về quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, so với quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng khái quát hơn, bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong Hiến pháp và trong các đạo luật chuyên ngành.

Toàn cảnh phiên họp Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8.

Thứ ba, về giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Đây là hoạt động mang tính chất chính trị, thể hiện ý chí của cử tri và là một trong những tiêu chí để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. So với Hiến pháp năm 1992 thì quy định này có những điểm mới đáng chú ý sau: (1) phạm vi thẩm quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước của Quốc hội là có giới hạn, không mở rộng đến “toàn bộ” hoạt động của Nhà nước (bao gồm các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương mà chỉ tập trung vào các cơ quan ở trung ương như Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao). (2) Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các thiết chế độc lập như Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội thành lập. (3) Quy định khái quát để các luật có điều kiện cụ thể hóa những hoạt động nào của Nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội.

Theo đó, việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, bằng các hình thức: xét báo cáo công tác của các cơ quan Nhà nước (Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập); xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét kết quả điều tra của Ủy ban; tổ chức các đoàn giám sát; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (việc bỏ phiếu tín nhiệm với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn là phương thức để Quốc hội thực hiện quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn khi người đó không xứng đáng với trọng trách được giao); bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội…

Vị trí pháp lý của Quốc hội còn được thể hiện rõ trong các mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Cùng với sự phân công rành mạch chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước còn được thực hiện thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, tránh lấn sân, chồng chéo, mâu thuẫn khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đó. Để tăng cường quan hệ phối hợp trong việc thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp.

Theo đó, sự phối hợp, kiểm soát hoạt động của Quốc hội cũng được thể hiện trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ này, theo hướng việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp không chỉ riêng Quốc hội thực hiện mà còn dựa trên ý kiến đề nghị của “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội”. Đối với quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận quyền sáng kiến lập pháp của nhiều chủ thể, trong đó có Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, đồng thời cũng quy định rõ sự khác nhau về quyền sáng kiến lập pháp của cá nhân đại biểu Quốc hội với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Sự tham gia của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức khác trong quá trình soạn thảo và trình các dự án luật đã thể hiện rõ sự phối hợp giữa Quốc hội với các cơ quan hành pháp và tư pháp trong việc thực hiện quyền lập pháp. Đối với việc phối hợp trong thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Theo đó, Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, văn bản độc lập để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đây là điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 (Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định Chính phủ có quyền ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ). Trong việc thực hiện quyền hành pháp, mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ còn được thể hiện ở quyền quyết định và hoạch định chính sách.

Theo đó, Quốc hội quyết định những chính sách dài hạn, mang tầm định hướng quốc gia, còn Chính phủ quyết định những chính sách ngắn hạn, mang tính chất điều hành các mặt kinh tế, xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp còn thể hiện thông qua việc Quốc hội tham gia vào việc quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; bỏ phiếu tín nhiệm đối với Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ; quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đơn vị hành chính kinh tế – đặc biệt…

Về quan hệ phối hợp, kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội có quyền xét báo cáo công tác của Tòa án nhân dân tối cao; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; bãi bỏ văn bản của Tòa án nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Ngược lại, việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật, giữ vững kỷ cương pháp luật là nhiệm vụ hàng đầu của cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp vào hoạt động xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm tôn trọng, giữ gìn, bảo vệ tính pháp quyền và công lý trong các phán quyết của Tòa án. Đây chính là cách thức thể hiện sự phối hợp quan trọng nhất giúp cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.

#1 Những Điểm Mới Về Quốc Hội Theo Hiến Pháp Năm 2013

Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội luôn là cơ quan đóng vai trò, vị trí vô cùng quan trọng, là cơ quan có quyền lực cao nhất, là cơ quan đóng vai trò quyết định trong việc quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, đưa đất nước phát triển. Do đó, Quốc hội luôn là một chế định được cả năm bản Hiến pháp quy định. Mỗi bản Hiến pháp đều có những quy định khác nhau về Quốc hội để phù hợp với tình hình thực tế. Hiến pháp năm 2013 đã được thông qua vào ngày 28 tháng 11 năm 2013, qua đó thể hiện một bước tiến mới trong tư duy lập hiến, trong đó, Quốc hội là chế định được quy định tại chương V với nhiều điểm mới so với bản Hiến pháp năm 1980. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề:” Những điểm mới về Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 so với chế định về Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013. “

Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, Hà Nội, 2014.

Hiến pháp năm 1980.

Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp năm 2013 những điểm mới mang tính đột phá (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Tư pháp, 2015.

Khái quát về chế định Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013

Vị trí, tính chất, chức năng của Quốc hội

Vị trí, tính chất của Quốc hội.

Theo Điều 69 Hiến pháp năm 2013 thì “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân vì: Quốc hội nước ta đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: tập chung dân chủ.

Chức năng của Quốc hội.

Với vị trí, tính chất như trên, Quốc hội có những chức năng lớn sau:

Quốc hội thực hiện quyền lập hiến và lập pháp

Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước như chính sách kinh tế, đối nội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh,…

Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các hoạt động của Nhà nước.

Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội

Các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định trong Điều 70 Hiến pháp năm 2013 và đã được quy định cụ thể trong Luật tổ chức Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2001.

Các nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được phân thành các lĩnh vực sau:

Trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp.

Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.

Trong lĩnh vực tổ chức nhà nước

Trong lĩnh vực giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật

Cơ cấu tổ chức của Quốc hội

Các cơ quan của Quốc hội gồm có: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm có:

Chủ tịch Quốc hội, Các Phó Chủ tịch Quốc hội, Các ủy viên

Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Các Phó Chủ tịch, Các ủy viên.

Các ủy ban của Quốc hội gồm có:

Ủy ban thường trực, Ủy ban lâm thời

Những điểm mới về Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1980

Những điểm mới về chức năng của Quốc hội

Chức năng của Quốc hội được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 tại Điều 69: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.”

Trước hết, có thể thấy với chức năng lập hiến và lập pháp, Hiến pháp năm 2013 có điểm mới là không quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp giống như Điều 82, Hiến pháp năm 1980. Sự khác nhau chỉ thể hiện ở hai chữ “duy nhất”, tuy nhiên nó có sự tác động khá lớn. Dù quy định khác nhau nhưng chúng ta có thể thấy với quyền lập hiến, chỉ có Quốc hội mới có quyền làm Hiến pháp. Còn đối với quyền lập pháp, chúng ta có thể thấy rằng mình Quốc hội không thể xây dựng nên một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, vì vậy mà Hiến pháp 2013 đã không còn giữ lại từ “duy nhất” để mở đường cho các cơ quan khác cùng thực hiện quyền lập pháp. Cụ thể, tại Điều 100 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật.”.

Với chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Hiến pháp năm 1980 quy định: “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hoá, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.” (Điều 82 Hiến pháp 2013). Quy định liệt kê như vậy tưởng chừng rất cụ thể nhưng lại trìu tượng, chỉ phù hợp với quan niệm Quốc hội là một thiết chế có toàn quyền trong mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây. Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội “quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước” có tính bao quát cao hơn, là cơ sở Hiến định để sau này Luật cụ thể hóa vai trò của Quốc hội trong từng thời kỳ.

Với chức năng “giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” so với Hiến pháp năm 1980 có điểm mới sau: không quy định “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.” (bỏ cụm từ “toàn bộ”). Điều này thể hiện ở phạm vi giám sát tối cao có giới hạn, quy định khái quát để Luật có điều kiện cụ thể hóa những hoạt động nào của Nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 6 Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định: ” Quốc hội giám sát tối cao hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập.”

Những điểm mới về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội

Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 70, Hiến pháp năm 1980 quy định tại Điều 83. So với Hiến pháp năm 1980 thì Hiến pháp năm 2013 có một số điểm mới về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội như:

Quy định rõ hơn, khả thi và phù hợp hơn các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề về phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Khoản 3, điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quốc hội “Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”. Quy định như vậy phù hợp hơn đối với một thiết chế hoạt động nghị trường, dân chủ, đưa ra những chính sách tầm vĩ mô, tầm quốc gia.

Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70) cho phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình tòa án nhân dân, làm rõ hơn mối quan hệ giữa Quốc hội với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Quốc hội kiểm soát được nhân sự của Tòa án nhân dân tối cao. Đồng thời nâng cao vị trí của Thẩm phán, bảo đảm cho Thẩm phán độc lập trong xét xử.

Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự của Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và các cơ qun khác do Quốc hội thành lập.

Quy định việc bỏ phiếu tín nhiệm với các chức danh mà Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Quy định này giúp tạo lòng tin cho nhân dân, giúp các đại biểu thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, những công việc mà mình quản lí trong thời gian qua, nhất là những vấn đề mà nhân dân quan tâm.

Quy định việc trưng cầu ý dân. Trưng cầu dân ý là một cuộc bỏ phiếu trực tiếp, trong đó toàn bộ các cử tri được yêu cầu chấp nhận hay phủ quyết một đề xuất đặc biệt. Đó có thể là sự thông qua một hiến pháp mới, một sự sửa đổi hiến pháp, một bộ luật, một sự bãi miễn một quan chức đã được bầu hay đơn giản chỉ là một chính sách riêng của chính phủ. trưng cầu dân ý hay bỏ phiếu toàn dân là một hình thức dân chủ trực tiếp.

Những điểm mới trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan của Quốc hội

Ủy ban thường vụ Quốc hội. Theo Hiến pháp năm 1980 thì Quốc hội không có Ủy ban thường vụ Quốc hội, thay vào đó là Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc định ra thiết chế Hội đồng Nhà nước đã bộc lộ nhiều hạn chế và không phát huy được hết vai trò của mình. Nhằm khắc phục những hạn chế đó, Hiến pháp năm 1992 và nay là Hiến pháp năm 2013 đã lập nên Ủy ban thường vụ Quốc hội để thực hiện chức năng là cơ quan thường trực của Quốc hội.

Bổ sung thêm nhiệm vụ và quyền hạn cho Hội đồng dân tộc. Nhiệm vụ của Hội đồng dân tộc là nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát, thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài ra, Hội đồng dân tộc còn có những nhiệm vụ, quyền hạn như các ủy ban của Quốc hội được quy định tại khoản 2 Điều 76 Hiến pháp năm 2013.

Đánh giá chung

Có thể thấy chế định về Quốc hội theo Hiến pháp 2013 được quy định ngắn gọn và khái quát nhưng cũng đầy đủ và tiến bộ hơn so với Hiến pháp năm 1980. Các điều luật được quy định rõ ràng hơn, có nhiều điều luật mới phù hợp với tình hình thực tế và nhu cầu của đất nước trong thời đại mới như quy định về việc bỏ phiếu tín nhiệm với các chức danh mà Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn hay quy định về việc tổ chức trưng cầu dân ý. Cách thiết kế các điều luật cũng thể hiện sự hợp lý, logic, chặt chẽ hơn về bố cục, văn phong, thể hiện sự tiến bộ trong tư duy lập hiến.

Như vậy, Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 có khá nhiều điểm mới so với Hiến pháp năm 1980. Những điểm mới đó làm rõ hơn vai trò to lớn của Quốc hội trong bộ máy nhà nước Việt Nam, đó là một Quốc hội thực sự thay mặt cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là cơ quan đại biểu của nhân dân theo kiểu công xã Pari mà chúng tôi coi là một tập thể làm việc “vừa lập pháp, vừa hành pháp”, là một tổ chức chính quyền thể hiện rất rõ tính chất thay mặt và tính chất quần chúng.

Trân trọng./.

Hội Đồng Bầu Cử Quốc Gia Và Kiểm Toán Nhà Nước Theo Hiến Pháp 2013

Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước theo Hiến pháp năm 2013

Bài viết này tập trung giới thiệu những vấn đề cơ bản nhất về hai thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước mới được quy định trong Chương X Hiến pháp sửa đổi 2013 – một chương hoàn toàn mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam như: sự cần thiết phải nâng tầm hiến định, mô hình và cách thức quy định trong Hiến pháp trên cơ sở so sánh, đối chiếu với Hiến pháp các quốc gia trên thế giới.

TỪ KHÓA: Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, Hiến pháp 2013, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 01/2014

Chương X Hiến pháp sửa đổi 2013 là một chương hoàn toàn mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam, quy định về hai thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.

1. Hội đồng bầu cử quốc gia

1.1. Sự cần thiết phải quy định Hội đồng bầu cử quốc gia ở tầm hiến định

Nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử…”, Hiến pháp sửa đổi 2013 đã quy định một cách tổng quát về Hội đồng bầu cử quốc gia ở Điều 117 như sau:

“1- Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụtổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

2- Hội đồng bầu cử quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên.

3- Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia do luật định”.

Hiến pháp sửa đổi 2013 đã nâng tầm hiến định đối với Hội đồng bầu cử quốc gia với tư cách là một thiết chế hiến định độc lập là phù hợp với xu thế chung của nhân loại. Năm 1994, Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) khuyến nghị các Nhà nước thiết lập một “cơ chế quản lý bầu cử trung lập, không thiên lệch và bình đẳng”, bảo đảm sự có mặt của các quan sát viên, đại diện của các đảng phái chính trị, bảo đảm khiếu nại được xem xét, giải quyết có hiệu quả bởi một cơ quan độc lập, không thiên vị như Tòa án hoặc Hội đồng bầu cử. Đặc biệt, vào năm 1998, việc tổ chức, điều hành bầu cử được tiến thêm một bước với việc khuyến khích các quốc gia nên cho phép những nhân viên trong các tổ chức dân sự trong nước và quốc tế quan sát bầu cử[1] . Vì vậy mà vấn đề bầu cử và quan sát bầu cử hiện nay được quy định trong nhiều văn kiện quốc tế hoặc pháp luật bầu cử một số nước. Việc thành lập và hoạt động của tổ chức phụ trách bầu cử sẽ quyết định tính chính xác, khách quan, công bằng, trung thực, phản ánh đúng ý chí của nhân dân và đảm bảo cho các nội dung, yêu cầu của các nguyên tắc bầu cử được quán triệt trong thực tế mà không bị vô hiệu hóa hoặc chí ít bị giảm ý nghĩa. Đạt được mục đích này là điều không đơn giản bởi vì bầu cử là hoạt động hợp thức hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước nên sẽ có rất nhiều thủ đoạn nhằm tác động làm sai lệch kết quả bầu cử, nhất là sự can thiệp của đảng phái chính trị đang cầm quyền. Vì tầm quan trọng của cơ quan này hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nâng tầm hiến định cơ quan này. Theo khảo sát của Viện quốc tế về hỗ trợ bầu cử và dân chủ (IDEA) vào năm 2006, trong số 214 quốc gia và vùng lãnh thổ thì có đến 96% các quốc gia thiết kế cơ quan bầu cử quốc gia ở tầm hiến định (chỉ còn 4% các quốc gia và vùng lãnh thổ chưa tổ chức bầu cử ở cấp quốc gia)[2] . Trong số 11 quốc gia ở Đông Nam Á thì có 4 quốc gia quy định về Ủy ban bầu cử trong Hiến pháp: Malaysia, Mianma, Philippin và Thái Lan[3] .

1.2. Về mô hình cơ quan bầu cử quốc gia:hiện nay, trên thế giớicó 3 mô hình tổ chức cơ quan phụ trách bầu cử cơ bản sau đây:

– Mô hình độc lập:cơ quan bầu cử không chịu trách nhiệm trước chính phủ nhưng có thể chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp, tư pháp. Cơ quan này thường có ngân quỹ độc lập. Thành viên của cơ quan bầu cử không phải là công chức của chính phủ, thường là thành viên của các tổ chức xã hội, dân sự. Mô hình độc lập được áp dụng ở các nước : Ácmênia, Ôxtrâylia, Bôxnia và Hécxêgôvina, Buốckina Phaxô, Canađa, Côxta Rica, Êxtônia, Grudia, Ấn Độ, Inđônêxia, Libêria, Môritani, Nigiêria, Ba Lan, Ảrập Xêút, Thái Lan và Urugoay. Theo khảo sát của Viện quốc tế về hỗ trợ bầu cử và dân chủ (IDEA) vào năm 2006, trong số 214 quốc gia và vùng lãnh thổ thì có đến 55% các quốc gia thiết kế cơ quan bầu cử quốc gia ở tầm hiến định theo mô hình độc lập.

– Mô hình chính phủ:là mô hình tổ chức và điều hành bầu cử thường do chính phủ và hệ thống cơ quan hành pháp, hoặc thông qua một bộ, hoặc kết hợp với chính quyền địa phương thực hiện. Ngân quỹ do hà nước, hoặc chính quyền địa phương đài thọ. Những nước áp dụng mô hình này bao gồm Đan Mạch, Niu Dilân, Hoa Kỳ, Anh… Theo khảo sát của Viện quốc tế về hỗ trợ bầu cử và dân chủ (IDEA) vào năm 2006, trong số 214 quốc gia và vùng lãnh thổ thì có đến 26% các quốc gia thiết kế cơ quan bầu cử quốc gia ở tầm hiến định theo mô hình chính phủ.

– Mô hình hỗn hợp, thông thường có hai hệ thống: một hệ thống có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và một hệ thống trực tiếp tổ chức thực hiện do chính phủ hoặc do chính quyền địa phương đảm trách. Mô hình hỗn hợp được áp dụng ở Pháp, Nhật Bản, Tây Ban Nha và một số nước trước đây là thuộc địa của Pháp. Theo khảo sát của Viện quốc tế về hỗ trợ bầu cử và dân chủ (IDEA) vào năm 2006, trong số 214 quốc gia và vùng lãnh thổ thì có đến 15% các quốc gia thiết kế cơ quan bầu cử quốc gia ở tầm hiến định theo mô hình hỗn hợp[4] .

Khoản 1 Điều 117 Hiến pháp sửa đổi 2013 quy định: “Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụtổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp”. Quy định này chứng tỏHội đồng bầu cử quốc gia theo Hiến pháp sửa đổi 2013 được xây dựng theo mô hình độc lập. Mô hình này đảm bảo tính chính xác, vô tư, khách quan, công bằng, không gian lận trong bầu cử. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng để đáp ứng được tinh thần độc lập, xác thực và không bị ảnh hưởng trong bầu cử thì Hội đồng bầu cử quốc gia không nên là một cơ quan do Quốc hội thành lập vì suy cho cùng cơ quan này vẫn là một tổ chức thuộc Quốc hội[5] . Tác giả cho rằng việc quy định Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập thật ra không ảnh hưởng nhiều đến tính độc lập của cơ quan này, bởi lẽ Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội đương nhiệm thành lập để tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa mới. Vì vậy, nên chăng cần bổ sung vào Hiến pháp hoặc Luật quy định”Thành viên của Hội đồng bầu cử quốc gia không thể tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp”nhằm mục đích đảm bảo tính khách quan và hiệu quả của Hội đồng bầu cử quốc gia.

1.3. Về tên gọi và cách quy định trong Hiến pháp

Hiến pháp sửa đổi 2013 chính thức gọi cơ quan này là Hội đồng bầu cử quốc gia. Tuy nhiên, trên thế giới, tùy theo quy mô và tính chất, tổ chức phụ trách bầu cử sẽ có tên gọi khá phong phú: Ủy ban bầu cử (Election Commission), Bộ phụ trách bầu cử (Department of Elections),Hội đồng bầu cử (Electoral Council), Bộ phận bầu cử (Election Unit), Ban phụ trách bầu cử (Electoral Board) hoặc Cơ quan bầu cử (Electoral Management Body(EMB) hay Electoral Management Administration) có thể coi là tên chung dùng để chỉ cơ quan hoặc một số cơ quan có chức năng tổ chức, điều hành bầu cử trong từng quốc gia[6] .

Đa số các nước đều quy định cơ quan bầu cử quốc gia trong một chương riêng hoặc một mục riêng như Hàn Quốc, Thái Lan, Philippin… Nhưng cũng có nước quy định trong một điều như Indonesia (Điều 22E Hiến pháp Indonesia 1945 quy định: “Các cuộc tổng tuyển cử được tổ chức bởi Ủy ban tổng tuyển cử mang tính quốc gia, hoạt động lâu dài và độc lập… Các quy định cụ thể về các cuộc tổng tuyển cử được ghi nhận trong luật”). Hiến pháp các nước thường quy định về các vấn đề sau đây:

– Một là,xác định các nguyên tắc nền tảng chi phối tổ chức và hoạt động của cơ quan bầu cử quốc gia như: 1. tôn trọng pháp luật; 2. không thiên vị và trung lập; 3. phải minh bạch; 4. phải chính xác; 5. cần được thiết kế theo hướng phục vụ cử tri[7] . Hiến pháp 2013 không quy định về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động rất đặc thù của Hội đồng bầu cử quốc gia. Vì vậy, tác giả đề nghị nên quy định các nguyên tắc này trong luật và cần bổ sung ở tầm hiến định trong lần sửa đổi Hiến pháp tiếp theo.

– Hai là, khi đề cập cơ quan bầu cử quốc gia, Hiến pháp các nước cũng thường quy định về thành phần và điều kiện, tiêu chuẩn của các thành viên. Ví dụ, Hiến pháp 1986 của Philippin quy định Ủy ban bầu cử gồm Chủ tịch và 6 thành viên đều do Tổng thống bổ nhiệm với sự đồng thuận của Ủy ban về các vấn đề bổ nhiệm của Nghị viện. Để được bổ nhiệm, ứng cử viên phải có đủ các điều kiện sau: 1. là những người có quốc tịch Philippin do sinh ra; 2. có tuổi đời ít nhất 35 tuổi vào thời điểm được bổ nhiệm; 3. tối thiểu có bằng cử nhân; 4. không phải là ứng cử viên cho bất kỳ vị trí nào; 5. phải là thành viên đoàn luật sư Philippin và hành nghề luật ít nhất 10 năm kể từ khi được bổ nhiệm và không được tái bổ nhiệm. Hội đồng bầu cử của Malaysia, Myanmar và Thái Lan đều có 5 thành viên. Cả 5 thành viên của Hội đồng bầu cử Thái Lan đều do Quốc vương bổ nhiệm theo sự chấp thuận trước của Thượng nghị viện. Tiêu chuẩn để được bầu chọn làm Ủy viên Hội đồng bầu cử Thái Lan được quy định cụ thể trong Hiến pháp. Trước tiên người được chọn phải có quan điểm và lập trường trung gian rõ ràng về chính trị. Đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để có thể được Thượng nghị viện đề cử lên Quốc vương bổ nhiệm. Ngoài ra, các ứng cử viên cũng phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: 1. có quốc tịch Thái Lan; 2. từ 40 tuổi trở lên; 3. có bằng cử nhân hoặc tương trở lên; 4. không phải là thành viên đảng chính trị hoặc nắm chức vụ trong đảng chính trị trong thời gian ít nhất 3 năm trước khi được bổ nhiệm; 5. không đồng thời nắm giữ bất kỳ chức vụ, vị trí nào trong bộ máy nhà nước ở cả trung ương và địa phương. Các thành viên Hội đồng bầu cử của Thái Lan có nhiệm kỳ 7 năm kể từ ngày được bổ nhiệm và chỉ được làm một nhiệm kỳ[8] . Hiến pháp Hàn Quốc 1987 quy định: Ủy ban bầu cử Trung ương gồm có ba thành viên do Tổng thống bổ nhiệm, ba thành viên do Quốc hội lựa chọn và ba thành viên do Chánh án Tòa án tối cao lựa chọn. Chủ tịch của Ủy ban được chọn trong số các thành viên. Nhiệm kỳ của thành viên Ủy ban là 6 năm. Các thành viên Ủy ban không thể tham gia các chính đảng hoặc tham gia các hoạt động chính trị[9] . Hiến pháp 2013 Hội đồng bầu cử của Việt Nam chỉ quy định thành phần và cách thành lập (gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên do Quốc hội thành lập), còn số lượng thành viên cụ thể là bao nhiêu người và điều kiện, tiêu chuẩn của thành viên sẽ do luật quy định.

– Ba là,Hiến pháp một số nước cũng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan bầu cử trong Hiến pháp. Ví dụ Hiến pháp 1986 của Philippin quy định 9 loại thẩm quyền của Ủy ban bầu cử, Hiến pháp 1987 của Hàn Quốc thì quy định thẩm quyền của Ủy ban bầu cử ở Điều 115. Điều 117 Hiến pháp sửa đổi 2013 của Việt Nam thì chỉ quy định chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử là tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử sẽ do luật định.

2. Kiểm toán nhà nước

2.1. Sự cần thiết phải quy định Kiểm toán nhà nước ở tầm hiến định

Tuyên bố Lima về những chuẩn mực của kiểm tra tài chính 1977 và Tuyên bố Mexicovề sự độc lập của các cơ quan kiểm toán 2007 của Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán (INTOSAI) đã đề cập rất rõ ràng sự cần thiết và những nội dung cần quy định về Kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp. Theo đó, “cơ quan kiểm toán tối cao cần phải có sự độc lập về tổ chức và chức năng đủ để hoàn thành các nhiệm vụ của mình”; “việc thành lập cơ quan kiểm toán tối cao và mức độ cần thiết của nó cần được quy định trong Hiến pháp, các chi tiết cụ thể do luật quy định”; đặc biệt, kiểm toán tối cao cần phải “có sự bảo vệ đầy đủ về mặt pháp luật nhằm chống lại các tác động từ bên ngoài đối với sự độc lập và thẩm quyền kiểm toán của cơ quan này”; “tính độc lập của Kiểm toán viên cũng phải được quy định trong Hiến pháp”[10] . Tuy không có sự ràng buộc về mặt pháp lý trong phạm vi của từng quốc gia, lãnh thổ nhưng Tuyên bố Lima 1977 và Tuyên bố Mexico 2007 có ảnh hưởng rõ nét đối với sự phát triển của cơ quan kiểm toán ở mỗi quốc gia. Hiện nay, đa số các nước, lãnh thổ trên thế giới đều có quy định trong hiến pháp về cơ quan Kiểm toán nhà nước. Theo thống kê sơ bộ, trong số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát, có 75 quốc gia ghi nhận Kiểm toán nhà nước là thiết chế hiến định. Trong đó, có 26 quốc gia và vùng lãnh thổ ghi nhận cơ quan Kiểm toán nhà nước trực thuộc Quốc hội; có 5 quốc gia và vùng lãnh thổ ghi nhận cơ quan Kiểm toán nhà nước trực thuộc Chính phủ; có 6 quốc gia và vùng lãnh thổ ghi nhận cơ quan Kiểm toán nhà nước trực thuộc tòa án; có 12 quốc gia và vùng lãnh thổ ghi nhận cơ quan Kiểm toán nhà nước trực thuộc Tổng thống; có 2 quốc gia và vùng lãnh thổ ghi nhận cơ quan Kiểm toán nhà nước trực thuộc nhà vua; có 22 quốc gia và vùng lãnh thổ ghi nhận cơ quan Kiểm toán nhà nước hoàn toàn độc lập với các thiết chế khác của nhà nước[11] . Có 4 quốc gia Asean quy định về cơ quan kiểm toán độc lập trong Hiến pháp bao gồm: Inđônêxia, Xingapo, Philippin và Thái Lan. Hiến pháp sửa đổi 2013 của Việt Nam quy định về Kiểm toán nhà nước tại Điều 118là phù hợp với thực tiễn hoạt động của Kiểm toán nhà nước và phù hợp với thông lệ quốc tế:

“1- Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

2- Tổng Kiểm toán nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán nhà nước, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán nhà nước do luật định.

Tổng Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.

3- Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm toán nhà nước do luật định”.

Như vậy, mô hình Kiểm toán nhà nước của nước ta theo Hiến pháp sửa đổi 2013 là trực thuộc Quốc hội, do Quốc hội thành lập. Tổng Kiểm toán nhà nước do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.

2.2. Cách quy định về Kiểm toán nhà nước trong hiến pháp

Hiến pháp các quốc gia và vùng lãnh thổ có mức độ quy định cụ thể rất khác nhau đối với thiết chế Kiểm toán nhà nước: Hiến pháp các quốc gia như Cộng hòa Liên bang Đức, Xurinam, Xlôvenia, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Aixơlen, Mêhicô thì chỉ quy định Kiểm toán nhà nước hết sức cơ bản, khái quát, còn các nội dung khác sẽ do luật chuyên ngành quy định; trong khi đó Hiến pháp của Philippin, Malaysia, Thái Lan, Singapore, Ba Lan, Áo, Braxin thì quy định rất chi tiết về tất cả các nội dung từ chức năng, thẩm quyền đến tổ chức, thành lập và các quyền được bảo đảm để cơ quan Kiểm toán nhà nước thực hiện nhiệm vụ của mình.

Các quy định về Kiểm toán nhà nước có thể xếp vào một chương, mục riêng như: Áo, Cộng hòa Séc, Ixraen, Ấn Độ, Thái Lan,…; hoặc xếp vào chương, mục chung về các thiết chế độc lập hay các thiết chế thực hiện chức năng theo dõi và kiểm soát như: Ba Lan, Philippin, Inđônêxia, Nam Phi, Xuđăng,…; cũng có thể xếp vào chương, mục tài chính, ngân sách như Cộng hòa Liên bang Đức, Malaysia, Tây Ban Nha, Xlôvenia,…; hoặc nằm trong chương, mục với cơ quan thuộc nhánh quyền lực tương ứng mà Kiểm toán nhà nước trực thuộc như: Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Braxin, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Thụy Điển[12] .

Hiến pháp sửa đổi 2013 của Việt Nam quy định Kiểm toán nhà nước cùng chương với thiết chế hiến định độc lập khác là Hội đồng bầu cử quốc gia và chỉ quy định những vấn đề cơ bản, ở tầm khái quát còntổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm toán nhà nước sẽ do luật định.

CHÚ THÍCH

[1] Dẫn theo Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội, 2013, tr. 294, 295.

[2] Dẫn theo Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992,Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật Hà Nội, 2013, tr. 297.

[3] Tô Văn Hòa, Nghiên cứu so sánh Hiến pháp các quốc gia ASEAN, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật , Hà Nội, 2012, tr. 328.

[4] Dẫn theo Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật Hà Nội, 2013, tr. 296, 297.

[5] Phan Nhật Thanh, Hội đồng bầu cử Thái Lan và góp ý quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5, năm 2013.

[6] Dẫn theo Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật Hà Nội, 2013, tr. 298.

[7] Dẫn theo Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới,Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội, 2013, tr. 298, 299.

[8] Tô Văn Hòa, Nghiên cứu so sánh Hiến pháp các quốc gia ASEAN, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật Hà Nội, 2012, tr. 330, 331, 332.

[9] Xem Điều 114 Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987.

[10] Xem Điều 5 và Điều 6 Mục II Tuyên bố Lima năm 1977.

[11] Dẫn theo Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới,Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật Hà Nội, 2013, tr. 274, 275, 276.

[12] Nguồn Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới,Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật Hà Nội, 2013, tr. 276, 277./.

Tác giả: TS. Nguyễn Mạnh Hùng – Phó trưởng khoa Luật Hành chính, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh

Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 01/2014, Trang 57-61

Phân Tích Chức Năng Lập Hiến Và Lập Pháp Của Quốc Hội Theo Pháp Luật Hiện Hành?

Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. (Điều 69 HP 2013)

Phân tích chức năng lập hiến và lập pháp của Quốc hội theo pháp luật hiện hành?

Trả lời:

Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. (Điều 69 HP 2013)

Hiến pháp qui định những vấn đề cơ bản nhất như hình thức nhà nước, bản chất nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân, hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của cơ quan nhà nước.

Luật quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nước thuộc các lĩnh vực đời sống, xã hội

Hiến pháp và Luật là những văn bản có giá trị cao. Các văn bản pháp luật khác gọi là cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, luật, không được trái mà phải phù hợp với nội dung và tinh thần Hiến pháp, Luật, Vì:

Xuất phát từ Hiến pháp và Luật là VBPL cóa giá trị pháp lý cao nên chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền ban hành

Quyền lập hiến, lập pháp của Quốc hội gồm: thông qua sửa đổi và bổ sung hiến pháp và luật. Việc này phả trải qua một trình tự thủ tục hết sức chặc chẽ và phức tạp. Thông qua sửa đổi, bổ sung Luật theo quy trình rất chặc chẽ gồm 6 giai đoạn

Lập chưng trình xây dựng Luật và Pháp lệnh

Soạn thảo: CQNN Tổ chức trình dự án luật và thánh lập ban soạn thảo

Thẩm tra: CQNN không soạn thảo có thẩm quyền thẩm tra

Lấy ý kiến: UBTVQH, nhân dân, ĐBQH, Đoàn ĐBQH

Thông qua

Công bố

Nhận xét về chức năng này:

+ Một văn bản Luật do Quốc hội ban hành còn nằm dưới dạng Luật khung, chưa có khả năng thi hành ngay. Thông thường văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành phảo chờ văn bản hướng dẫn của chính phủ mới có thể thi hành được

+ Cần tách bạch chức năng lập hiến và lập pháp của Quốc hội để đảm bảo tính rối cao của Hiến pháp

Ưu điểm :

Đảm bảo tính chuyên môn sâu:

Ví dụ: Quốc hội muốn ban hành Luật giáo dục thì giao Bộ trưởng Bộ giáo dục viết dự án rồi đưa ra thẩm tra, đại biểu Quốc hội thông qua. Điều này đảm bảo tính chuyên sâu vì do chính cơ quan quản lý lĩnh vực đó viết dự án.

Chính phủ có khả năng tài chính và nhân lực để làm luật.

Chính phủ vừa là chủ thể xây dựng dự án vừa là chủ thể ban hành văn bản hướng dẫn thi hành sẽ thuận tiện hơn.

Hạn chế:

Cục bộ ngành: khi xây dựng dự án luật xu hướng mang lại nhiều lợi ích do ngành mình quản lý

Chính phủ đang quá tải bởi số lượng dự án luật, pháp lệnh cần soạn thảo và chịu sức ép bởi tiến độ thực hiện. Tình trạng ảnh hưởng đến chất lượng các dự án luật do Chính phủ soạn thảo

Vô hiệu hóa chức năng làm Luật của Quốc hội. Điều này xuất phát từ lý do Quốc hội có quyền ban hành văn bản luật nhưng đa phần các dự án luật do chính phủ trình. Nếu xu hướng này kéo dài thì thực chất việc làm luật của Quốc hội chỉ là thông qua các dự án luật của Chinh phủ soạn thảo.