Top 7 # Chức Năng Và Nhiệm Vụ Của Hoạch Định Chiến Lược Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Hoạch Định Chiến Lược Là Gì? Vì Sao Chúng Ta Cần Phải Hoạch Định Chiến Lược?

Hoạch định là gì? Hoạch định là một trong bốn tính năng thiết yếu của một quản trị viên đó là: Hoạch địch – tổ chức – Lãnh đạo – tra cứu, cùng lúc đây được coi là một chức năng ưu tiên hay là nền móng của quản trị.

Nhì chung, hoạch định là việc nhà quản trị định hình mục đích của đơn vị, xây dựng một plan chung để đạt mục tiêu và xây dựng một bản plan vừa mới kết hợp và điều phối công việc của đơn vị. Đặt biệt là trong những việc làm kinh doanh, việc sử dụng bank thì cần một plan hoạch định rạch ròi và cụ thể.

Các loại hoạch định thường gặp trong mỗi 

doanh nghiệp

Các loại hoạch định thường gặp là: hoạch định chiến lược, hoạch định dài hạn và hoạch định ngắn hạn. Mỗi hoạch định điều lựa chọn mục tiêu và vạch ra những hành động quan trọng nhằm đạt được mục đích.

Hoạch định là một hoạt động cần thiết trong doanh nghiệp

Hoạch định kế hoạch là một chức năng quản trị của một công ty, giúp bảo đảm cho nhân viên của đơn vị đó cùng hành động hướng đến những mục tiêu chung, đạt được sự thống nhất về các kết quả dự kiến, nghiên cứu và điều chỉnh phương hướng hoạt động của công ty sao cho thích hợp với môi trường kinh doanh luôn biến đổi. Hoạch định plan gồm có việc: xác định các ưu tiên, tụ họp các nguồn lực, và củng cố các hoạt động vận hành.

Hoạch định lâu dài là những hoạch định dẫn dài từ 1 đến 5 năm hoặc lâu hơn tùy vào định hướng tăng trưởng của doanh nghiệp. Những plan này nhằm đáp ứng các điều kiện thị trường, mục tiêu tài chính, và tài nguyên quan trọng để đạt được sư mệnh của công ty đề ra. Hoạch định dài hạn thường đưa tính chiến thuật nhằm khắc phục những mục đích trên một địa bàn hoạt động nhưng đưa tầm ảnh hưởng đến hoạch định plan.

Hoạch định giúp vẽ ra các hoạt động quan trọng của doanh nghiệp

Hoạch định ngắn hạn là những plan cho từng ngày, từng tháng hay từng năm. Quản trị viên lập plan ngắn hạn để hoàn thiện những bước đầu hoặc những điểm mấu chốt trong quá trình dài hạn đang đề ra. Nói cách không giống, plan ngắn hạn nhắm đến việc giải quyết những chủ đề trước mắt trong một phạm vi công tác hạn chế hoặc một Nhiệm vụ nhất định trong cả quá trình hành động.

mục tiêu

 và bản 

plan

 trong hoạch định

Theo khái niệm hoạch định là gì? Thì chúng ta có thể thấy rằng, mục tiêu và bản kế hoạch chính là 2 nguyên nhân cần thiết nhất trong hoạch định. Cụ thể giống như sau:

mục đích là những hiệu quả, muốn, kỳ vọng mà đơn vị muốn đạt được trong một thời gian cụ thể. ví dụ như mục đích năm nay doanh nghiệp sẽ tăng trưởng hơn năm ngoái 5%. mục đích như kim chỉ nam cho tất cả hành động của nhân viên trong đơn vị.

Để đủ nội lực đề ra mục tiêu chuẩn xác và kết quả, nhà quản trị cần trãi qua các bước sau:

1) định hình sứ mạng, tầm Quan sát của doanh nghiệp;

2) xác định mục đích của doanh nghiệp với các thứ tự ưu tiên hợp lý;

3) xác định nguồn lực của doanh nghiệp;

4) xác định mục đích cho từng bộ phận;

5) Quy phù hợp thành văn bản và mạng đến mọi người.

Bản kế hoạch là những văn bản phác thảo phương pháp đạt được các mục đích và giới thiệu một phương pháp đặc thù sự phân bổ các gốc lực, tiến độ công việc và các hành động quan trọng để đạt được các mục đích.

SWOT – mô hình đánh giá sử dụng trong hoạch định

Bao gồm: kế hoạch plan (Strategic Plans) và plan hoạt động (Operational Plans).

Quy trình hoạch định 

kế hoạch

bao gồm

 các bước sau:

1) dựng lại triết lý kinh doanh, sứ mệnh và tầm Nhìn của doanh nghiệp;

2) nghiên cứu và dự báo hoàn cảnh bên ngoài (có thể dùng mô hình PESTEL hoặc mô ảnh 5 áp lực cạnh trạnh);

3) nghiên cứu nơi bên trong doanh nghiệp (phân tích theo chuỗi trị giá của Porter hoặc theo các nguồn lực của doanh nghiệp);

4) phân tích ma trân SWOT cho công ty từ đó mang ra những kế hoạch định hình cho công ty.

tóm lại hoạch định là gì? Hoạch định là hành động của cấp thống trị, của nhà quản trị nhằm xác định và kế hoạch hóa các mục tiêu, phương hướng hành động của doanh nghiệp trong tương lai; tạo điều kiện cho hoạt động của công ty thuận tiện hơn và đi đúng hướng hơn.

Hoạch Định Chiến Lược (Strategic Planning) Là Gì? Khó Khăn Trong Hoạch Định

Khái niệm

Hoạch định chiến lược trong tiếng Anh được gọi là strategic planning.

Đôi khi giai đoạn hoạch định chiến lược của quản trị chiến lược còn được gọi là ” lập kế hoạch chiến lược“.

Hoạch định chiến lược là quá trình đề ra các công việc cần thực hiện của công ty, tổ chức những nghiên cứu để chỉ ra những nhân tố chính của môi trường bên ngoài và môi trường bên trong doanh nghiệp, xây dựng mục tiêu dài hạn, lựa chọn trong số những chiến lược thay thế.

Hoạt động nghiên cứu

Các hoạt động nghiên cứu bao gồm cả việc thu nhập thông tin về lĩnh vực và thị trường hiện tại của công ty. Quá trình này còn có một tên gọi là “kiểm soát môi trường”.

Về phía doanh nghiệp, các nghiên cứu được tổ chức để chỉ ra những điểm mạnh và yếu điểm chính trong các lĩnh vực chức năng của công ty. Có rất nhiều cách để xác định các nhân tố bên trong doanh nghiệp như tính các tiêu chí đánh giá mức độ trung bình trong ngành.

Nhiều nhân tố bên trong như tinh thần làm việc của người lao động, hiệu quả của quá trình sản xuất, tính hiệu quả của hoạt động quảng cáo và mức độ trung thành của khách hàng.

Có vô vàn các kỹ năng trong quản trị chiến lược cho phép các nhà chiến lược có thể kết hợp trực giác với những phân tích để sản sinh và lựa chọn ra chiến lược hợp lí nhất trong tập hợp các chiến lược có thể sử dụng được.

Một thực tế là mọi doanh nghiệp đều có chung một sự hạn chế, đó là sự hạn chế về nguồn lực. Các nhà chiến lược buộc phải lựa chọn chiến lược nào đem lại lợi ích lớn nhất cho doanh nghiệp.

Các quyết định trong giai đoạn hoạch định chiến lược đề ra cho doanh nghiệp sự tập trung vào các sản phẩm cụ thể. Các thị trưởng, nguồn lực và công nghệ trong suốt một khoảng thời gian định rõ.

Các chiến lược chỉ ra những lợi thế trong cạnh tranh dài hạn. Nó cũng có mục tiêu kéo dài những ảnh hưởng tốt cho công ty.

Những nhà chiến lược hiểu rõ nhất viễn cảnh về tương lai của công ty, vì thế họ có thể hiểu được những quyết định phân tích trong quá trình hoạch định, và họ được ủy quyền trong việc điều chuyển những nguồn lực cần thiết trong quá trình thực thi.

Các bước hoạch định

Trong quá trình hoạch định chiến lược, việc định ra một cách rõ ràng nhiệm vụ của doanh nghiệp được sự quan tâm chú ý của không chỉ các nhà hoạch định cấp cao mà còn là sự quan tâm của những người thực hiện.

Một mục tiêu rõ ràng là rất có ích cho việc đề ra những mục tiêu cũng như hoạch định chiến lược. Giai đoạn hoạch định chiến lược được tiến hành qua các bước công việc sau:

– Bước 1: Chức năng nhiệm vụ

Chỉ ra vai trò, bản chất và nội dung cơ bản của doanh nghiệp.

– Bước 2: Đánh giá môi trường bên ngoài

Chỉ ra vai trò, bản chất của việc định giá môi trường bên ngoài nội dung và các công cụ đánh giá.

– Bước 3: Đánh giá môi trường nội bộ

Bản chất của đánh giá nội bộ, công tác đánh giá các mặt hoạt động chính của công ty.

– Bước 4: Phân tích và lựa chọn chiến lược

Sử dụng các mô hình kết hợp đánh giá định tính và định lượng chọn ra một mô hình chiến lược hợp lí cho công ty.

Vai Trò, Chức Năng Nhiệm Vụ Của Quản Trị Chiến Lược Doanh Nghiệp

Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới chỉ ra rằng doanh nghiệp triển khai quản trị chiến lược tốt đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn so với các doanh nghiệp không triển khai quản trị chiến lược. David (1997) tin rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được cải thiện đáng kể nhờ quản trị chiến lược tốt. Việc triển khai quản trị chiến lược từ khâu hoạch định, thực hiện và đánh giá chiến lược tạo thuận lợi cho phép tổ chức hoạt động một cách hiệu quả hơn. Thông qua xác định mục tiêu và kế hoạch dài hạn của doanh nghiệp, quản trị chiến lược đưa ra định hướng, tăng cường phối hợp và kiểm soát các hoạt động của tổ chức. Chiến lược của doanh nghiệp cung cấp định hướng cho các hoạt động của tổ chức và hướng đến đội ngũ nhân sự làm việc trong tổ chức đó (Arasa và K’Obonyo, 2012). Ngoài ra, một mục đích khác của quản trị chiến lược là hướng dẫn tổ chức trong quá trình đưa ra ý định chiến lược, cũng như các vấn đề cần ưu tiên trong quá trình triển khai chiến lược.

Porter (1980) cho rằng phân tích khách quan môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp tạo thuận lợi cho việc cải thiện môi trường kinh doanh của doanh nghiệp và hỗ trợ đắc lực quá trình đưa ra các quyết định quan trọng của các nhà quản lý cấp cao. Ngoài ra, việc xác định các vấn đề chiến lược, phân tích chiến lược và lựa chọn chiến lược giúp doanh nghiệp phân bổ hiệu quả các nguồn lực, tạo lợi thế cạnh tranh bền vững và đóng góp đáng kể vào công tác cải tiến đổi mới trong doanh nghiệp. Đồng thời, quản trị quá trình thực hiện chiến lược, đánh giá và kiểm soát chiến lược cho phép chiến lược được thực hiện trơn tru và theo đúng kế hoạch doanh nghiệp đã đề ra.

Như vậy, quản trị chiến lược doanh nghiệp và hiệu quả sản xuất kinh doanh có mối liên hệ mật thiết với nhau. Các nhà quản lý xây dựng chiến lược nhằm xác định các mục tiêu và mục đích căn bản, dài hạn và cách thức hành động cũng như phân bổ các nguồn lực cho phép doanh nghiệp đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Đồng thời, Arasa và K’Obonyo (2012) cho rằng một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả sẽ chú trọng và đầu tư vào quản trị chiến lược để duy trì và nâng cao các giá trị bền vững thông qua lợi thế cạnh tranh. Cụ thể, vai trò của quản trị chiến lược thể hiện như sau:

Quản trị chiến lược thiết lập các mục tiêu chiến lược cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các mục tiêu cụ thể trong mọi hoạt động, mọi cấp bậc quản lý, từ cấp cao nhất đến thấp nhất trong cấu trúc tổ chức, có tác động đến sự tồn vong và thành công của doanh nghiệp. Hoạch định các mục tiêu chính thống không chỉ góp phần chuyển các định hướng, tầm nhìn thành các mục tiêu cụ thể cần đạt được, mà còn tránh sự sai lệch, nhầm lẫn về định hướng dài hạn của doanh nghiệp. Cả mục tiêu ngắn hạn và dài hạn đều cần thiết. Các mục tiêu chiến lược tổng thể mang tính tổng quát là vị thế trên thị trường và vị thế cạnh tranh mà doanh nghiệp hướng đến, mức lợi nhuận hàng năm, kết quả tài chính và sản xuất kinh doanh. Vì các mục tiêu cần phải được thiết lập tại mọi cấp bậc và bộ phận trong doanh nghiệp, quản trị chiến lược tập hợp sự tham gia của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, bao gồm cả các nhà quản lý; giúp họ xác định một cách rõ ràng và đo lường được phạm vi công việc, mục tiêu và đóng góp của mình vào sự thành công của chiến lược doanh nghiệp (Stoner, 1994).

Quản trị chiến lược thiết lập các mục tiêu hàng năm, hoạch định các chính sách, phân bổ nguồn lực, tái cấu trúc tổ chức, phát huy văn hóa và phong cách lãnh đạo doanh nghiệp. Một chiến lược tốt giúp doanh nghiệp đi đúng hướng trong quá trình hoạt động của mình, và mang lại kết quả đáng kể cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhiều chiến lược đã bị thất bại ở khâu thực hiện chứ không phải khâu hoạch định. Đôi khi, các nhà quản lý quan niệm rằng khi đã vạch đúng đường đi thì chắc chắn sẽ đi đến đích. Quản trị chiến lược tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi chiến lược khi phát sinh một số yếu tố bất ngờ thông qua hỗ trợ nhà quản trị ứng phó kịp thời và phân bổ nguồn lực một cách hợp lý nhằm duy trì định hướng chiến lược và đạt được các mục tiêu đã đề ra (Quinn, 1980).

Việc kiểm tra và đánh giá chiến lược trong quản trị chiến lược giúp doanh nghiệp xem xét lại môi trường bên trong, bên ngoài doanh nghiệp; thiết lập ma trận đánh giá thành công và đề xuất các hành động điều chỉnh nếu cần. Theo Mankins và Steele (2005), hoạt động này cho phép doanh nghiệp phân tích và đánh giá kỹ lưỡng một số nội dung như : (i) tầm nhìn về tương lai mà doanh nghiệp mong muốn còn phù hợp với tình hình thực tế hay không, (ii) những thay đổi đang diễn ra trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, và (iii) vấn đề cần bổ sung mới hay điều chỉnh trong chiến lược do bối cảnh kinh doanh thay đổi, do xuất hiện công nghệ mới hay các yếu tố tác động từ môi trường bên ngoài, cũng như những thay đổi trong nguồn lực nội bộ của doanh nghiệp.

Đối với các nhà lãnh đạo hay quản trị cao cấp, quản trị chiến lược có những vai trò sau:

Giúp thấy rõ mục đích và hướng đi của mình trên cơ sở phân tích môi trường bên trong, nắm rõ điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp, nhờ đó mà lãnh đạo xem xét và xác định doanh nghiệp nên đi theo hướng nào và khi nào tới một điểm cụ thể xác định. Ngoài ra, quản trị chiến lược cũng khuyến khích nhân viên nắm vững những gì cần làm để nâng cao hiệu quả làm việc.

Môi trường bên ngoài doanh nghiệp luôn biến đổi nhanh, các biến đổi này dễ tạo ra các nguy cơ cũng như cơ hội bất ngờ cho doanh nghiệp. Việc quản trị chiến lược phải nhằm vào các yếu tố này (cơ hội và nguy cơ môi trường trong tương lai). Nên yêu cầu nhà quản trị chiến lược trong một chiến lược phải phân tích và dự báo các điều kiện môi trường trong tương lai gần cũng như xa.

Lý do quan trọng nhất của vận dụng quản trị chiến lược là phần lớn các công trình nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp vận dụng quản trị chiến lược thì đạt kết quả tốt hơn so với kết quả họ đạt được trước đó và các doanh nghiệp không vận dụng quản trị chiến lược. Việc áp dụng quản trị chiến lược sẽ giảm rủi ro sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.

Một cách khái quát, một chiến lược doanh nghiệp hay hoạt động quản trị chiến lược trong doanh nghiệp có hiệu quả phải là:

Một chiến lược kinh doanh với tầm nhìn rõ ràng trong tương lai;

Một phương hướng chiến lược được xây dựng với sự đồng thuận cao của các nhà quản lý cấp cao, của cả các đối tác và các cổ đông;

Một cơ chế có khả năng giải trình với các khách hàng, đối tác, lãnh đạo, nhân viên trong việc đáp ứng kỳ vọng của họ cũng như trọng tâm đáp ứng được các mục tiêu chính sách đề ra của doanh nghiệp;

Một khung hành động chung cho người quản lý ở các cấp độ nhất định để đảm bảo cùng phối hợp thực hiện nhiều mục tiêu, thậm chí cả khi có sự cạnh tranh ưu tiên giữa các công việc và các mục tiêu khác nhau;

Có khả năng khai thác cơ hội và ứng phó trước những thay đổi từ bên ngoài bằng khả năng điều phối linh động, liên tục, có khả năng ra các quyết định chiến lược phù hợp và đúng thời cơ;

Xây dựng khung quản trị rủi ro đảm bảo cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận của mỗi định hướng kinh doanh, sẵn sàng đương đầu với những thay đổi, rủi ro dự kiến cũng như đảm bảo tính liên tục trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

: Phan Thanh Tú (2019), Quản trị Chiến lược Doanh Nghiệp, NXB Công Thương, trang 15 – 19.

Vì Sao Hoạch Định Chiến Lược Kinh Doanh Là Yếu Tố Quyết Định?

Theo Alfred Chandler (Đại học Havard), hoạch định chiến lược kinh doanh là việc xác định các mục tiêu chủ yếu dài hạn của doanh nghiệp. Từ đó, chọn lựa phương thức hành động và phân bổ các tài nguyên thiết yếu của DN để thực hiện các mục tiêu đó.

Điều đáng lưu ý là, hoạch định chiến lược đều nhắm vào việc thực hiện mục tiêu cốt lõi của DN là gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư ROI (Return on Investment). Và, nội dung cơ bản của chiến lược kinh doanh của DN là hoạch định đường đi để đến đích đã vạch ra.

Thất bại nếu không có chiến lược kinh doanh

Thực tế cho thấy, trong giai đoạn kinh tế khó khăn, số DN thua lỗ cao, trong đó có cả các DN quy mô lớn, thậm chí, nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước cũng trở nên yếu sức đi rất nhiều, khi những lĩnh vực đầu tư (ngoài ngành chính) bị ảnh hưởng bởi các quyết định đầu tư dàn trải, không được kiểm soát.

Thứ nhất, về công tác nghiên cứu thị trường

Thực tế, có thể thấy, nhiều DN không thực hiện nghiên cứu thị trường không thường xuyên, định kỳ; không làm kỹ lưỡng, chuyên sâu. Xây dựng chiến lược kinh doanh vội vàng; đơn giản không dựa trên những căn cứ xác đáng. Điều này thể hiện trên những mặt sau:

Không nắm được chiến lược kinh doanh đang thực hiện và sắp tới của đối thủ cạnh tranh của mình?

Sản phẩm đơn vị sản xuất ra có đáp ứng nhu cầu thị trường?

Điển hình như việc nhiều đơn vị kinh doanh bất động sản thời gian qua tập trung xây dựng căn hộ cao cấp trong khi nhu cầu cần của thị trường là căn hộ bình dân giá thấp. Kết quả là căn hộ cao cấp sản xuất ra không bán được; thị trường bất động sản “đóng băng” cũng một phần xuất phát từ nguyên nhân này.

Không dựa trên điều tra; nghiên cứu; số lượng cụ thể… chỉ ước lượng đại khái, cảm tính.

Thứ hai, nhiều đơn vị kinh doanh đa ngành, trong khi năng lực (vốn tự có, nhân lực…) chỉ đủ khả năng kinh doanh ngành cốt lõi. Trong quá trình hoạt động, có đơn vị chạy theo phong trào, kinh doanh thêm chứng khoán; đầu tư xây dựng bất động sản; ngân hàng… dẫn tới không kiểm soát được hoạt động của DN.

Nhiều DN Việt Nam muốn “ngay lập tức” phát triển thành tập đoàn khổng lồ, trong khi tại các nước, phải mất đến hàng trăm năm mới có thể phát triển thành tập đoàn vững vàng. DN nào cũng đề ra hướng phát triển đa ngành, hướng tới trở thành tập đoàn đa ngành, đầu tư vào mọi lĩnh vực, trong khi khả năng tài chính lại chỉ ở mức vừa phải. Do đó, dẫn tới tình trạng “ăn xổi”, dễ thất bại.

Hoặc có những DN chỉ phù hợp hoạt động, quy mô hoạt động trong địa phương (tỉnh, thành phố), nhưng với tâm lý muốn khuếch trương bằng mọi giá, đã mở rộng hoạt động trên phạm vi cả nước… Hiện trạng này dẫn đến nhiều khó khăn; chia cắt sức lực, tăng chi phí rất lớn dẫn đến giảm lợi nhuận.

Thứ ba, DN chưa chú trọng xây dựng lợi thế cạnh tranh. Trong dài hạn, nếu không chú trọng tạo sự khác biệt của công ty; dễ bị cạnh tranh; từng thời gian thua kém đơn vị cùng ngành.

Thứ tư, về kế hoạch sử dụng vốn. Từ việc không có kế hoạch kinh doanh, dẫn đến không có kế hoạch sử dụng vốn cụ thể và không thể chủ động về nguồn vốn. Cụ thể:

Sử dụng vốn “vay ngân hàng” vượt quá sức doanh nghiệp. Có DN do “bị động” chạy theo kinh doanh đa ngành, trong khi thực lực lại vừa phải, do đó đa phần sử dụng vốn “vay ngân hàng”. Trong bối cảnh khó khăn triền miên, lại phải trả lãi suất cao (tại Việt Nam qua các năm 2009-2010 lãi suất cao có đến 17%/ năm)…, nên hết sức khó khăn.

Hơn nữa, do không thể chủ động về nguồn vốn, nên DN không có kế hoạch trả vốn. Nhiều đơn vị đã sử dụng vốn vay ngân hàng gấp hàng chục lần vốn điều lệ; thay vì tối đa chỉ được phép gấp 2 lần. Đây chính là đầu mối dẫn đến doanh nghiệp phải đóng cửa, phá sản…

Sử dụng vốn ngắn hạn, đầu tư dài hạn. Phát triển một dự án bất động sản từ 3 năm đến 5 năm, nhưng vay ngân hàng chỉ 6 tháng, 1 năm dẫn đến phải “đáo nợ” liên tục, tăng chi phí rất nhiều. Đồng thời, giảm rất nhiều thời gian dành cho kinh doanh.

Không quan tâm dòng tiền mặt, không có nguồn tiền dự phòng. Gặp khủng hoảng kinh tế toàn cầu, bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước kéo dài, việc không chủ động dòng tiền mặt, quỹ dự phòng…, nhiều DN đã phải vay nợ “xã hội đen” và phải trả giá rất lớn.

Thứ năm, kế hoạch xây dựng và phát triển nguồn nhân lực. Nhiều đơn vị không chủ động (không có kế hoạch) kế hoạch bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, mà chỉ đơn thuần quan tâm đến trả lương cho cán bộ, công nhân viên, nên khả năng mất người khi: (i) Có đơn vị khác trả lương cao hơn; (ii) Gặp khi đơn vị gặp khó khăn.

Thực tế, khó có thể có người giỏi, nếu không có kế hoạch chi tiết đào tạo, những người làm việc tại chỗ, gắn bó nhiều năm với công ty. Bên cạnh đó, cần cấm kỵ việc sử dụng họ hàng, thân quen năng lực rất yếu vào những vị trí chủ chốt của DN. Từ việc sử dụng này, dễ tạo không khí làm việc thiếu cạnh tranh, người giỏi khó được đề bạt, khiến họ nản chí không muốn cống hiến. Tinh thần làm việc toàn doanh nghiệp không cao.

Bên cạnh đó, việc không có kế hoạch chú trọng tuyển bổ sung những người thực sự có năng lực chuyên ngành, nhất là đối với những cán bộ chủ chốt, phó phụ trách tài chính, phụ trách marketing…, nên phải giữ những người ban đầu kiêm nhiệm quá lâu. Điều đó, dẫn đến kết quả kinh doanh nhiều hạn chế. Trong quá trình cạnh tranh, đây cũng là nguyên nhân khiến DN bị thua sút đối thủ.

Những vấn đề trọng tâm trong hoạch định chiến lược

Quá trình điều hành hoạt động doanh nghiệp hơn 25 năm trên cương vị là người đứng đầu doanh nghiệp liên tục tại nhiều đơn vị khác nhau đã đúc rút cho tôi nhiều bài học kinh nghiệm quý. Vì thế, theo tôi, doanh nghiệp cần tập trung vào một số vấn đề quyết định sau:

Một là, về công tác nghiên cứu thị trường.

Hoạch định chiến lược kế hoạch kinh doanh phải dựa trên cơ sở tiến hành công tác nghiên cứu thị trường tỷ mỷ, nắm vững nhu cầu thực tế của thị trường; đối thủ cạnh tranh của mình là ai? phương thức, cách thức kinh doanh của họ ra sao?

Thời gian qua, có nhiều doanh nghiệp thất bại vì công tác nghiên cứu thị trường làm không kỹ lưỡng, không chuyên sâu. Do đó, quyết định đầu tư ngành sản phẩm không đúng, kết quả là sản xuất dư thừa, hàng hóa bán không được; sản xuất không theo nhu cầu của thị trường.

Hai là, xây dựng cách thức tổ chức bán hàng tối ưu.

Vấn đề mang ý nghĩa quyết định cho sự thành công của công ty là cách thức tổ chức bán hàng; kênh phân phối hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp thành công khi xây dựng cách thức tổ chức bán hàng tối ưu bằng các chiến lược tiếp thị sản phẩm tốt, đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng qua các đại lý, các điểm bán hàng trên khắp các tỉnh, thành. Có thể nêu ở đây một số điển hình như công ty Vissan với hơn 300.000 điểm bán hàng, Vinamilk xây dựng trên 500.000 điểm bán hàng trên cả nước…

Ba là, xác định kinh doanh chuyên ngành hay đa ngành?

Sau một thời gian thử nghiệm, công ty Vinamilk quyết định bỏ sản xuất mặt hàng cà phê (bán toàn bộ dây chuyền sản xuất cà phê), mà tập trung nguồn lực cho sản phẩm chính là “sữa”. Kết quả doanh thu các năm đều tăng vượt lên, lợi nhuận tăng lên, ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới và bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước kéo dài. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp khác thất bại chỉ vì ngoài ngành chính, đầu tư thêm chứng khoán, Bất động sản, ngân hàng…

Bốn là, nguồn vốn kinh doanh. Chúng ta kinh doanh dựa trên nguồn vốn nào? Cần xác định vay nợ hay không? Mức độ nợ tỷ lệ % trên vốn chủ sở hữu? Hoặc nhắm đến mời gọi hợp tác nguồn vốn để kinh doanh; hoặc từ nguồn mời gọi cổ đông (phát hành cổ phần); hay phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chuyển đổi… cũng như lộ trình đưa doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán có cần hay không?… Đó là các vấn đề mà DN cần quan tâm và trả lời bằng được trong quá trình phát triển của mình.

Năm là, xây dựng lợi thế cạnh tranh của DN. Hãng tư vấn chiến lược BCG danh tiếng của Mỹ đã đưa ra: “Đối thủ muốn duy trì thế cạnh tranh lâu dài phải giữ vững lợi thế độc đáo bằng cách tạo ra khác biệt so với người khác. Quản trị sự khác biệt này chính là tinh hoa của chiến lược kinh doanh dài hạn”. Vì thế, hoạch định chiến lược kinh doanh cần phải chứng minh điểm khác biệt giữa công ty mình và các đối thủ cạnh tranh có thể qua: mẫu mã, bao bì, chất lượng, giá thành sản phẩm…

Ví dụ: Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long xác định sự khác biệt, đầu tư dòng sản phẩm căn hộ bình dân: dòng sản phẩm Ehome. Toàn bộ thiết kế tập trung tạo căn hộ hữu dụng, sử dụng diện tích ít nhưng tiện dụng; giá thành sản phẩm rất thấp hợp nhu cầu người dân. Kết quả là Ehome 1,2,3,4 … hàng không đủ bán dù thị trường bất động sản đang “đóng băng”.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, trong từng giai đoạn, nhất là trong khi môi trường kinh doanh biến động mạnh, doanh nghiệp có thể phải xem xét lại, định lại chiến lược kinh doanh của mình, nhằm kịp thời thay đổi phù hợp với nhu cầu thị trường, phù hợp với điều kiện, năng lực mới. DN cũng cần thường xuyên tái cấu trúc, giảm thiểu chi phí, tăng thêm thị phần và lợi nhuận để tạo nền móng chuẩn bị cho thời kỳ hồi phục của nền kinh tế.