Top 6 # Chức Năng Xã Hội Hóa Của Gia Đình Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Chức Năng Giáo Dục, Xã Hội Hóa Đối Với Trẻ Em Của Gia Đình

Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, gia đình có 4 chức năng, trong đó có chức năng “giáo dục, xã hội hóa đối với trẻ em”. Chức năng đó được thể hiện:

Có thể hiểu xã hội hoá đối với trẻ em là một quá trình bao gồm việc đứa trẻ học tập (được chỉ dẫn) về những cách thức, qui định của gia đình và xã hội để nó có thể tham gia vào các hoạt động đời sống của gia đình và xã hội. Đứa trẻ không thể trưởng thành và phát triển nếu chúng bị tách khỏi gia đình và bị biệt lập với xã hội. Với cách tiếp cận như vậy, thì xã hội hóa đối với trẻ em chính là việc dạy dỗ và trao truyền kỹ năng sống của các thành viên gia đình, họ tộc để đứa trẻ trưởng thành, thích ứng được yêu cầu của đời sống.

Mỗi gia đình là một nhóm xã hội khác nhau, do vậy quá trình xã hội hoá đối với trẻ em cũng bị chi phối bởi những đặc điểm khác nhau trong nếp sống. Nội dung và các hình thức của lối sống trong mỗi gia đình không phải là bất biến, ngược lại chúng cũng bị tác động và biến đổi theo từng thời đại. Sự biến đổi đó chủ yếu do tác động của các nhân tố kinh tế và văn hoá, trong đó văn hoá là một nhân tố cực kỳ quan trọng làm thay đổi kết quả quá trình xã hội hoá trẻ em trong những gia đình khác nhau.

Do vậy chức năng “giáo dục, xã hội hóa đối với trẻ em” là một trong những chức năng quan trọng của gia đình, giúp trẻ em có điều kiện và cơ hội phát triển toàn diên./.

Chức Năng Xã Hội Gia Đình Là Gì ?

Khái niệm gia đình:Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người,một thiết chế văn hóa-xã hội đặc thù,được hình thành và tồn tại phát triển trên cơ sở các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyế thống,quan hệ nuôi dưỡng vá giáo dục…giữa các thành viên

Chức năng xã hội Gia đình bao gồm:

Các chức năng tái sản xuất ra con người.

Chức năng giáo dục

Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình

Chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý, tình cảm

1. Các chức năng tái sản xuất ra con người.

Đây là chức năng riêng của gia đình, nhằm duy trì nòi giống, cung cấp sức lao động xã hội, cung cấp công dân mới, người lao động mới, thế hệ mới đảm bảo sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người.

Chức năng này đáp ứng yêu cầu xã hội và nhu cầu tự nhiên của con người. Nhưng khi thực hiện chức năng này cần dựa vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và sự gia tăng dân số để có chính sách phát triển nhân lực cho phù hợp. Đối với nước ta, chức năng sinh đẻ của gia đình đang được thực hiện theo xu hướng hạn chế, vì trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, dân số đông.

2. Chức năng giáo dục

Nội dung giáo dục gia đình bao gồm cả tri thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống, nhân cách, thẩm mỹ… phương pháp giáo dục gia đình cũng đa dạng, song chủ yếu bằng phương pháp nêu gương, thuyết phục về lối sống, gia phong của gia đình truyền thống. Chủ thể giáo dục gia đình chủ yếu là cha mẹ, ông bà đối với con cháu, cho nên giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục.

Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hổ trợ, bổ sung cho gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, giáo dục gia đình có vai trò quan trọng được coi là thành tố của nền giáo dục xã hội chung. Dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn không thể thay thế được.

3. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình

Đây là chức năng cơ bản của gia đình, bao gồm hoạt động kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thỏa mãn các yêu cầu của mỗi thành viên và của gia đình. Sự tồn tại của hình thức gia đình còn phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn, sức lao động của từng gia đình, tăng thêm của cải cho gia đình và cho xã hội.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với sự tồn tại của nền kinh tế thành phần, các gia đình trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ. Đảng và nhà nước đề ra chính sách kinh tế – xã hội, tạo mọi điều kiện cho các gia đình làm giàu chính đáng từ lao động của mình. Ở nước ta hiện nay, kinh tế gia đình được đánh giá đúng với vai trò của nó. Đảng và nhà nước có những chính sách khuyến khích và bảo vệ kinh tế gia đình. Vì vậy mà đời sống của gia đình và xã hội đã được cải thiện đáng kể.

Thực hiện chức năng kinh tế tốt sẽ tạo tiền đề và cơ sở vật chất cho tổ chức đời sống gia đình.

Việc tổ chức đời sống gia đình chính là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập của các thành viên và thời gian nhàn rỗi để tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, đời sống vật chất của mỗi thành viên được đảm bảo sẽ nâng cao sức khỏe của các thành viên đồng thời cũng duy trì sắc thái, sở thích riêng của mỗi người.

Thực hiện tốt tổ chức đời sống gia đình không những đảm bảo hạnh phúc gia đình, hạnh phúc của từng cá nhân mà còn góp vào sự tiến bộ của xã hội.

4. Chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý, tình cảm

Đây là chức năng có tính văn hóa – xã hội của gia đình. Chức năng này kết hợp với các chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho việc xây dựng hạnh phúc gia đình.

Trong gia đình mọi thành viên đều có quyền và nghĩa vụ thi hành các chức năng trên, trong đó người phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng bởi họ đảm nhận một số thiên chức không thể thay thế được. Vì vậy, việc giải phóng phụ nữ được coi là mục tiêu quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải được bắt đầu từ giáo dục.

* Tóm lại, gia đình thông qua việc thi hành các chức năng vốn có của mình có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Các chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Việc phân chia chúng là tương đối. Cấn tránh tư tưởng coi trọng chức năng này, coi nhẹ chức năng kia, hoặ tư tưởng hạ thấp chức năng gia đình. Mọi quyết định tuyệt đối hóa, đề cao quá mức hay phủ nhận hạ thấp vai trò của gia đình đều là sai lầm.

Văn Hóa Gia Đình Tầm Quan Trọng Đối Với Xã Hội

Lịch sử Việt Nam với 4000 năm văn hiến.  Đất nước ta, trải qua biết bao nhiêu cuộc chiến tranh dựng nước và giữ nước từ phong kiến phương bắc, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Tuy nhiên đất nước Việt vẫn trọn vẹn, văn hóa Việt vẫn vững bền không một kẻ thù nào có thể đồng hóa và xâm chiếm được. Để có được một thành quả tự hào đó kể đến vai trò quan trọng của gia đình. Gia đình là chiếc nôi là nguồn sữa nuôi dưỡng lòng yêu nước. Thực tế đã chứng minh trong cuộc chiến tranh  thần thánh của dân tộc nếu không có những gia đình không tiếc hiến dâng của cải, vật chất thậm chí cả tính mạng của mình để giành độc lập thì liệu rằng dân tộc này có trọn vẹn được hay không? Trong chiến tranh là vậy, trong hòa bình nhiều gia đình còn tham gia vào công cuộc cải cách để cùng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Trong thời kỳ nào thì gia đình cũng có một vai trò quan trọng, đặc biệt là văn hóa gia đình. Văn hóa gia đình người Việt không phải là cái gì trừu tượng, chung chung mà được thể hiện cụ thể, rõ ràng trong nếp sống, trong sinh hoạt, suy nghĩ, tình cảm của mỗi thành viên trong gia đình. Đó là nền nếp của gia đình, gia tộc. Gia đình, gia tộc nào có nền nếp tốt thường được dân gian gọi  là có gia phong. Gia phong theo Từ điển Tiếng việt của Đào Duy Anh là “thói nhà, tập quán giáo dục trong gia tộc”; Như thế, gia phong là nếp nhà, là sự khẳng định những suy nghĩ, cảm xúc, hành vi của một cộng đồng gia đình, gia tộc về văn hóa đã kéo dài qua nhiều thế hệ, được mọi người trong gia đình công nhận, tuân theo, thực hiện một cách tự giác gần như tập quán để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cộng đồng gia đình, gia tộc ấy. Văn hóa gia đình, mà trước hết là gia phong, sẽ tạo cho mọi thành viên của gia đình một bản lĩnh vững vàng khi hòa nhập với mọi biến thiên của đời sống xã hội, nó sẽ là tấm lá chắn hữu hiệu ngăn chặn mọi sự thâm nhập tiêu cực của xã hội vào gia đình, gia tộc để bảo tồn, phát huy và tôn vinh những giá trị của một gia đình văn hóa truyền thống.

Khi nói về vai trò của gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng phát biểu: “Quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình”. Nhiêu thập kỷ qua cơ cấu xã hội có biến đổi nhưng tổ chức của gia đình không biến đổi nhiều. Gia đình là tế bào của xã hội, do đó, văn hóa gia đình đóng vai trò quan trọng trong vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Gia đình truyền thống Việt Nam xưa rất chú trọng xây dựng gia đạo, gia phong và gia lễ, trong đó gia đạo là sức mạnh của gia đình. Gia đạo là đạo đức của gia đình như đạo hiếu, đạo ông bà, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em. Đạo hiếu là hiếu nghĩa của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Gia lễ là phép ứng xử của con người theo một nguyên tắc có tính tôn ti trật tự theo lễ tiết, đặc biệt là việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh. Ở thời đại nào, văn hóa gia đình cũng là nền tảng cho văn hóa xã hội. Văn hóa gia đình giàu tính nhân văn, nhân bản, đề cao giá trị đạo đức, xây dựng nếp sống văn hóa trật tự, kỷ cương, hun đúc tâm hồn, bản lĩnh cho con người trong từng tế bào của xã hội. Bởi vậy, gia đình tốt là đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội lành mạnh và văn minh.

Không môi trường nào có ảnh hưởng đến hành vi của con người bằng gia đình. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, thiêng liêng đối với mọi người. Gia đình rất cần có những quy tắc, chuẩn mực để hình thành bệ phóng cho những nhân cách tốt đẹp. Giá trị gia đình có thể hình thành từ các sinh hoạt thông thường qua thói quen ứng xử, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và trong các mối quan hệ xã hội khác…Chính những giá trị này có tác dụng sâu sắc đến nhận thức, hành vi của mỗi thành viên. Cha mẹ là những người đầu tiên có ảnh hưởng đến quá trình hình thành niềm tin và hành vi đạo đức của con trẻ. Cha mẹ là tấm gương phản chiếu để nuôi dạy con trở thành những con người mẫu mực và hình thành nên văn hóa gia đình. Trẻ em thường có khuynh hướng bắt chước các mẫu ứng xử của ngời lớn mà người gần gũi nhất của con trẻ chính là cha mẹ, ông bà và những người thân. Dưới mắt con trẻ, cha mẹ vừa là người bảo bọc, vừa là những vị thần nhân ái, là nhà bác học thiên tài hay là nhà tiên tri độc đáo… Chính vì cảm nhận ấy, hầu hết trẻ em trong gia đình đều xem cha mẹ là những người khó sai lầm nhất và bao giờ cũng là những người tốt đẹp nhất. Tính gương mẫu của cha mẹ được thể hiện ở lối sống, nếp sống và những thói quen hàng ngày, con trẻ sẽ theo đó làm gương cho mình. Văn hóa gia đình cũng có thể được biểu hiện ở hình thức quan hệ thứ bậc, giữa anh chị em với nhau, giữa cha mẹ và ông bà, giữa các thành viên gia đình  với mọi người xung quanh. Tính gia trưởng, sự bất bình đẳng giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, sự áp đặt con cái phải nghe theo những gì cha mẹ đặt ra mà không tôn trọng, lắng nghe những suy nghĩ của con cái sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự trưởng thành của trẻ em. Bởi vậy xây dựng một gia đình đúng nghĩa là phương châm của thời đại ngày nay. Gia đình nơi có tình yêu của mẹ, có sự bao dung của cha, sự hiếu thảo của người con và sự bình đẳng biết yêu thương chia sẻ của các thành viên trong gia đình. ..Tất cả sẽ tạo nên văn hóa gia đình ngày nay từ đó sẽ là một nền tảng xây dựng đất nước bình yên giàu mạnh. Cho dù hiện nay Việt Nam đã mở cửa hòa nhập với thế giới giữa muôn vàn các giá trị nhân văn thì giá trị của văn hóa gia đình vẫn là nốt nhạc đẹp nhất mà trong xã hội chúng ta mỗi một con người cần trân trọng và gìn giữ.

                                                                 Trương Công Hiếu (VHTT)

Phân Tích Chức Năng Cơ Bản Của Gia Đình Thực Tiễn Của Việc Nghiên Cứu Xã Hội Học Gia Đình Đối Với Lính Vực Pháp Luật

Xã Hội Học Đại Cương

MỤC LỤC A. Mở bài…………………………………………………………………………………………..2 B. Nội dung………………………………………………………………………………………..2 I. Khái niệm…………………………………………………………………………………..2 1. Xã hội học là gì?……………………………………………………………………….2 2. Xã hội học gia đình là gì?…………………………………………………………..3 3. Gia đình là gì?…………………………………………………………………………..3 II.

Chức năng của gia đình……………………………………………………………5

1) Tái tạo ra một thế hệ mới bao gồm cả việc sinh đẻ và giáo dục đào tạo:………………………………………………………………………………………………..5 2, nuôi dưỡng và chăm sóc các thành viên trong gia đình…………………….7 III.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đối với lĩnh vực

pháp luật: [13]………………………………………………………………………………….9 a, Đối với việc xây dựng pháp luật:………………………………………………..10 b, đối với việc thực hiện pháp luật:………………………………………………….11 C. Kết luận……………………………………………………………………………………….12

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

A. Mở bài Gia đình ,nói đến gia đình thì ai cũng sẽ nghĩ ngay đến ngôi nhà mà ta đã lớn khôn lên từ đó,là nơi mà thời thơ ấu chúng ta đã gắn bó là nơi sẻ chia tình cảm,an ủi động viên nhau giữa các thành viên trong gia đình là nơi chứa chan bao tình cảm thiêng liêng giữa những người trong gia đình với nhau .tuy rằng “mỗi cây mỗi hao mỗi nhà mỗi cảnh” nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì đó cũng sẽ vẫn mãi là nơi ta lui về mỗi khi mệt mỏi …. Nếu ta ví Gia đình đó là tế bào của xã hội ,thì chỉ khi nào tế bào đó phát triển tốt,vững mạnh thì xã hội cũng mới có thể phát triển được và sẽ chẳng bao giờ chúng ta lại không nhắc đến vai trò của gia đình đối vói mỗi cá nhân chúng ta và cũng như đối với xã hội bởi gia đình có một vai trò một vị trí quan trọng trong xã hội,chính vì thế để làm rõ hơn vấn đề này thì em xin đi phân tích và lựa chọn đề tài : “phân tích chức năng cơ bản của gia đình? Thực tiễn của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đối với lính vực pháp luật?” cho bài học kỳ của em. Vì đây là đề tài với một thời lượng nghiên cứu hạn hẹp và kiến thức còn hạn chế nên trong bài sẽ có nhiều chỗ còn sai sót và thiếu ý .rất mong được sự góp ý của quý thầy (cô) để bài làm hay và hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! B.Nội dung I. Khái niệm 1. Xã hội học là gì? o Xã hội học là : Xã hội học là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung, và đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử; là khoa học về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong các hoạt động của cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc.[1]

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

2. Xã hội học gia đình là gì? o Định nghĩa: Xã hội học gia đình là một nhánh của xã hội học chuyên biệt; xã hội học gia đình là bộ môn khoa học nghiên cứu sự sinh ra, phát triển và sự hoạt động của gia đình như là một trong những hạt nhân đầu tiên của xã hội trong các điều kiện văn hóa, kinh tế – xã hội cụ thể, cũng như nghiên cứu về cơ cấu của chức năng gia đình trong xã hội; là một bộ môn xã hội học nghiên cứu về gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội và một nhóm nhỏ. Các lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học gia đình:  Nghiên cứu sự sinh ra, quá trình phát triển liên tục của gia đình trong các chế độ xã hội đã qua.  Nghiên cứu về mối quan hệ giữa gia đình và xã hội  Nghiên cứu các mối quan hệ trong gia đình  Nghiên cứu về các chức năng của gia đình .[2] 3. Gia đình là gì? Có câu nói rằng: “gia đình là tế bào của xã hội” vậy gia đình ở đây là gì? Ngay từ thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm sống, gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách xác định phù hợp với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa ra sự so sánh giữa gia đình loài người với cuộc sống lứa đôi của động vật, gia đình loài người luôn luôn bị ràng buộc theo các điều kiện văn hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người. Gia đình ở loài người luôn bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra và sự tác động của xã hội; vì Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình loài người. Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa, kinh tế,… khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới có cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình. Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội mà có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người.[3]

theo “tập bài giảng Xã hội học” của ts Ngọ Văn Nhân cho biết: Dưới góc độ là một thiết chế xã hội: ” Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

Đặc điểm: Chức năng tái sản xuất xã hội của gia đình Việt Nam truyền thống có đặc điểm là: Đông con là một giá trị cơ bản của gia đình và xã hội truyền thống, Từ xa xưa, con người Việt Nam đã đề cao việc duy trì nòi giống gia đình. “đông con hơn nhiều của”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “con gái là con người ta”. Con cái là thứ đáng giá hơn hết trong gia đình..[7]

Chức năng giáo dục của gia đình. Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả giáo dục tri thức và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng không ít của tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn không thể thay thế. Giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục. Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với con cháu. Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn thiện thêm cho giáo dục nhà trường và xã hội. Do đó, dù giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được coi là một thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Giáo dục gia đình luôn trở thành bộ phận quan trọng, hợp thành giáo dục nói chung phục vụ các lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại nào, khi xã hội còn giai cấp và phân chia giai cấp.[8] Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

2, Nuôi dưỡng và chăm sóc các thành viên trong gia đình 

Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của gia đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên và của gia đình. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện (có sở hữu hoặc tham gia sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong kinh tế, đảng và nhà nước đề ra và thực hiện các chính sách sao cho mọi gia đình, mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Cùng với sản xuất kinh doanh, các gia đình và hộ gia đình công nhân viên chức, cán bộ hành chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn nghệ sỹ… cũng được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập chính đáng từ lao động sáng tạo của mình. Các loại gia đình này tuy không trực tiếp thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, nhưng cũng thực hiện một nội dung quan trọng của hoạt động kinh tế: bảo đảm hoạt động tiêu dùng đáp ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của con người, qua đó kích thích sự phát triển hoạt động kinh tế của xã hội. Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc cho tổ chức đời sống của gia đình. Đương nhiên, ngoài cơ sở kinh tế,

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

thì còn nhiều yếu tố khác mới đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh, hạnh phúc.[9] Đặc điểm: Chức năng kinh tế của gia đình Việt Nam truyền thống có những đặc điểm sau: Gia đình Việt Nam truyền thống là một đơn vị kinh tế độc lập, tự sản tự tiêu. Người chồng, người cha trong gia đình đóng vai trò là trụ cột kinh tế, họ đồng thời nắm toàn bộ quyền kiểm soát về kinh tế gia đình Sự trì trệ, máy móc và bảo thủ trong hoạt động kinh tế gia đình luôn biểu hiện cùng cơ chế tổ chức và quản lý mang tính gia trưởng.[10]

Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

Đặc điểm: Chức năng tình cảm, tâm lí của gia đình Việt Nam truyền thống có đặc điểm: Đề cao vai trò của các giá trị đạo đức và các giá trị đó chi phối hầu hết các mối quan hệ của gia đình. Sự thương yêu, chăm sóc con cái hết lòng của cha mẹ đối với con cái, sự hiếu thảo của con cái với cha mẹ; sự gắn bó và yêu thương nhau giữa anh chị em, sự thuỷ chung, hoà thuận trong tình nghĩa vợ chồng Những tình cảm đối với gia đình cũng là cội nguồn của tình làng xóm quê hương và xa hơn là tình yêu đất nước: “cáo chết ba năm quay đầu về núi”. Gia đình là nơi sẻ chia, cảm nhận, của mỗi thành viên trong gia đình. Là nơi dừng chân sau một ngày làm việc mệt mỏi. Là sự gắn kết yêu thương của con người. [12]

 Đánh giá về gia đình: Gia đình là một thiết chế đa chức năng. Mọi thành viên gia đình, tuỳ thuộc vào vị thế, lứa tuổi… đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng nói trên. Trong đó, người phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi họ là người do đặc thù tự nhiên – sinh học, đảm nhận và thực hiện một số thiên chức không thể thay thế. Tuy nhiên, trong quá trình lịch sử, phụ nữ là những người vất vả, cực nhọc và chịu nhiều thiệt thòi nhất cả trong quan hệ xã hội lẫn trong quan hệ gia đình. Do đó, giải phóng phụ nữ được coi là một mục tiêu quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải được bắt đầu từ gia đình. III. Ý nghĩa của việc nghiên cứu xã hội học gia đình đối với lĩnh vực pháp luật: [13] Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

a, Đối với việc xây dựng pháp luật: Xã hội học gia đình là môn koa học nghiên cứu về những sự kiện mang tính chất xã hội của gia đình như mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ giữa gia đình với xã hôi…. đó cũng là những đối tượng nghiên cứu của ngành luật học. Dựa trên những mối quan hệ đó, pháp luật đưa ra những quy phạm điều chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ nêu trên, đưa ra quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh, chị em trong gia đình, giữa vợ và chồng… Kinh tế của gia đình là một trong những nguồn quan trọng để pháp luật điều chỉnh. Ngay trong thời kì đất nước còn chiến tranh, việc nghiên cứu xã hội học gia đình có vai quan trọng trong những chính sách pháp luật của nhà nước ta: Chiến tranh làm cho cơ cấu và quy mô gia đình thay đổi, hầu hết nam nữ thanh niên ra chiến trường đánh giặc bảo vệ tổ quốc. Trước thực trạng đó, chính sách kinh tế của Đảng chủ trương nền kinh tế bao cấp, làm ăn tập thể, các gia đình hình thành nên các hợp tác xã….ngoài mục đích tạo ra hậu phương vững chắc cho tiền tuyến thì còn nhằm làm cho các chiến sỹ ngoài mặt trận yên tâm chiến đấu. Không phải lo lắng về cuộc sống gia đình ở quê.. Sau khi chiến tranh kết thúc, vai trò hậu phương của gia đình không còn quan trọng như xưa, nhiêm vụ quan trọng của đất nước không phải là chống ngoại xâm mà là phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, cơ chế bao cấp không còn phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Kinh tế gia đình ngày càng có vai trò quan trọng. Vì vậy, Nhà nước ta chủ động đưa ra những chính sách nhằm phát triển kinh tế cá thể, chính sách khoán 10, khoán 100… được áp dụng triệt để. Như vậy, dựa vào chức năng của gia đình trong những điều kiên cụ thể mà pháp luật đưa ra những chính sách phù hợp nhất. Lo Văn Dương

Xã Hội Học Đại Cương

Xã Hội Học Đại Cương

Xã Hội Học Đại Cương

Lo Văn Dương