Top 11 # Giải Pháp Cho Nền Kinh Tế Việt Nam Hiện Nay Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Đề Tài Chiến Lược Xây Dựng Và Giải Pháp Chủ Yếu Cho Nền Kinh Tế Tri Thức Của Việt Nam Hiện Nay

MỤC LỤC A – Mở đầu 2 B – Nội dung 3 I – Những khái niệm và vấn đề cơ bản. 3 1. Nền kinh tế tri thức là gì? 3 2. Một số đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức. 4 II – Chiến lược xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay. 7 1.Những thời cơ và thách thức. 7 2.Những thành công và thất bại trong bước đầu xây dựng nền kinh tế tri thức ở nước ta. 9 III.Giải pháp chủ yếu cho nền kinh tế tri thức của Việt Nam hiện nay. 14 1.Phải có chủ trương, chính sách phát triển hợp lý. 14 2.Bồi dưỡng, đào tạo nhân tài, nâng cao dân trí trong chiến lược con người. 15 3.Phát triển khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin. 16 4.Một nền văn hóa thích hợp với kinh tế tri thức. 17 C.Kết Luận 18 Tài Liệu Tham Khảo 19 A – Mở đầu Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay , do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại , đặc biệt là công nghệ thong tin , công nghệ sinh học , công nghệ vật liệu … nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc , nhanh chóng về cơ cấu , chức năng và phương thức hoạt động . Đây là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc biệt : lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức , nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Đặc điểm trên đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa ở nước ta , nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn , ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới ; công nghiệp hóa , hiện đại hóa phải gắn với kinh tế tri thức , phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức , kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại để có thể nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay , kinh tế tri thức được sự quan tâm của mọi tầng lớp trong xã hội , chính phủ Việt Nam cũng rất chú trọng vào việc phát triển nền kinh tế tri thức.Vậy nền kinh tế tri thức là gì ? Chúng ta cần làm những gì để xây dựng và phát triển được nền kinh tế tri thức ? Đó là những câu hỏi mà em sẽ trả lời trong bài viết này. Em xin cảm ơn chúng tôi Đào Phương Liên đã giúp đỡ em trong quá trình giảng dạy để em có thể hoàn thành được đề tài này. B – Nội dung I – Những khái niệm và vấn đề cơ bản. 1. Nền kinh tế tri thức là gì? Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX có một sản phẩm mới cực kỳ quan trọng , có thể nói là hết sức cơ bản , của thời đại thông tin là nền kinh tế tri thức.Nền kinh tế này đã tạo ra những biến đổi to lớn trong mọi mặt hoạt động của con người và xã hội : đó là cơ sở hạ tầng mới của xã hội mới – xã hội thông tin , khác hẳn nền kinh tế sức người và nền kinh tế tài nguyên của các xã hội trước ( xã hội nông nghiệp và xã hội công nghiệp).Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trên công nghệ cao , đó là nét đặc trưng rất tiêu biểu của nền văn minh thông tin – sản phẩm của cách mạng thông tin , cách mạng tri thức.Nói đến tri thức – sáng tạo tri thức , phổ biến , truyền thụ tri thức , học tập và lĩnh hội tri thức , ứng dụng tri thức – không thể không nói đến khoa học , công nghệ và giáo dục – đào tạo. Tổ chức hợp tác và phát triển (OECD) của Liên hiệp quốc định nghĩa : ” Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra , phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế , tạo ra của cải , nâng cao chất lượng cuộc sống”. Nói đơn giản , đó là nền kinh tế dựa vào tri thức. ” Các ngành sản xuất dịch vụ mới do công nghệ cao tạo ra như các dịch vụ khoa học công nghệ , các dịch vụ tin học , các ngành công nghiệp công nghệ cao … được gọi là ngành kinh tế tri thức.Các ngành truyền thống như công nghiệp , nông nghiệp , nếu được cải tạo bằng công nghệ cao , mà giá trị do tri thức mới , công nghệ mới đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị , thì những ngành ấy cũng là ngành kinh tế tri thức.Nền kinh tế gồm chủ yếu các ngành kinh tế tri thức được gọi là nền kinh tế tri thức” (Trích theo chúng tôi Đặng Hữu ( chủ biên ) ” Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức”). 2. Một số đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tạo nên bộ mặt mới của nền kinh tế , tạo tiền đề hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin, với những nét đặc trưng nổi bật là: a. Vai trò quan trọng của công nghệ cao , đặc biệt là công nghệ thông tin được áp dụng mạnh mẽ trong đó vai trò quan trọng nhất hiện nay là Internet và thương mại điện tử. – Nền kinh tế công nghiệp : dựa chủ yếu vào máy móc , tài nguyên. – Nền kinh tế tri thức : các yếu tố thông tin và tri thứ có vai trò hang đầu.Các ngành công nghệ cao ( công nghệ thông tin , công nghệ sinh hoc , công nghệ tự động hóa , công nghệ vật liệu mới ….) phát triển nhanh chóng và có giá trị gia tăng nhanh. – Nhịp độ tăng GDP trong ngành công nghệ thông tin cao hơn 3- 4 lần nhịp độ tăng tổng GDP ; tốc độ tăng việc làm do công nghệ thông tin tạo ra nhanh hơn từ 14 -16 lần so với toàn bộ các ngành kinh tế còn lại. – Phát triển kinh tế có lien quan nhiều đến sở hữu trí tuệ , sáng tạo va sử dụng thông tin, đặc biệt trong các ngành sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng cao về trí tuệ trên cơ sở đầu tư mạnh mẽ vào vốn con người. b. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. – Điều đầu tiên chúng ta cần khẳng định là lực lượng sản xuất có một bước ngoặt quan trọng trong nền kinh tế tri thức. – Trong nền kinh tế tri thức , lao động sáng tạo là chủ yếu.Các doanh nhân tri thức , các khu công nghệ cao trong đó doanh nhân và nhà khoa học có thể là 1.Thời gian từ kết quả nghiên cứu khoa học đến công nghệ và đua sản phẩm ra thị trường ngày càng rút ngắn: Thế kỷ 19 : 60 – 70 năm; thế kỷ 20 : 30 năm ; riêng thập niên 90 : 3 năm -Thị trường công nghệ mới , sản phẩm mới gia tăng nhanh chóng : Để đạt mức 500 triệu người sử dụng telephone phải mất 74 năm; radio 38 năm; tivi 13 năm ; nhưng Internet chỉ có 3 năm. – Phòng thí nghiệm ,cơ quan khoa học , ngoài nghiên cứu còn mang chức năng sản xuất , kinh doanh. Quá trình đổi mới công nghệ diễn ra còn nhanh hơn cả khả năng thích nghi của con người. -Phát minh khoa học ngày càng nhiều và mở ra khả năng khoa học có thể giải quyết được hầu hết những gì con người muốn làm để phục vụ cho cuộc sống của mình. – Lực lượng sản xuất tinh thần đang chiếm ưu thế và có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với lực lượng sản xuất vật chất ; tri thức trở thành sản phẩm có giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với các sản phẩm vật chất khác, vì nó tạo ra giá trị mới ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong GDP. c.Thời gian để tiến hành công nghiệp hóa được rút ngắn. Nhờ cuộc cách mạng KH&CN mới , những nước nghèo có thể tìm được cơ hội để phát triển , nếu tạo ra được nguồn nhân lực chất lượng cao , tiếp cận được trình độ KH&CN hiện đại. Ở thế kỷ 18 , một nước muốn công nghiệp hóa phải mất khoảng 100 năm; cuối thế kỷ 19 , đầu thế kỷ 20 la khoảng 50 – 60 năm; trong những thập niên 70 -80 la khoang 20 – 30 năm; đến cuối thể kỷ 20 , quãng thời gian nay có thể còn ngắn hơn nữa. Nền kinh tế tri thức nằm trong bối cảnh toàn cầu hóa nên luôn có một sự cạnh tranh quyết liệt , những quá trình hợp tác sẽ có hiệu quả và bổ sung cho nhau , không tách rời nhau. d.Nguồn nhân lực trong xã hội nhanh chóng được trí thức hóa – Con người phải làm việc bằng năng lực trí tuệ là chính , càng không phải chỉ là năng lực thể chất. – Cơ cấu lao động xã hội thay đổi căn bản : nhân lực trong các ngành dịch vụ , đặc biệt là dịch vụ xử lý thông tin và dịch vụ tri thức , tăng nhanh. – Sự cách biệt giàu nghèo về thực chất là sự cách biệt về tri thức và năng lực tạo ra tri thức.Các nước đang phát triển chỉ bằng con đường phát triển KH&CN , giáo dục – đào tạo nhằm tăng nhanh vốn tri thức , mới có thể rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. e.Cơ cấu kinh tế , hình thức tổ chức xã hội thay đổi cơ bản. – Một số cơ cấu tổ chức cũ theo kiểu kim tự tháp biến thành cơ cấu mạng lưới. – Mọi hoạt động chỉ đạo , điều hành của hệ thống tài chính , của các cơ quan xí nghiệp đều thông qua mạng máy tính ( Chính phủ điện tử; thương mại điện tử).Xuất hiện công ty ảo , trường học ảo… – Trò chơi kinh tế ” tổng không” ( thắng – thua) được thay bằng mô hình ” hai bên cùng thắng” thể hiện trong cạnh tranh và hợp tác; chuyển giao công nghệ… – Năng lực kinh doanh và phát hiện , chiếm lĩnh thị trường trong nhiều trường hợp còn quan trọng hơn năng lực sản xuất. f.Sự thách thức về văn hóa Trong nền kinh tế tri thức – xã hội thông tin , văn hóa có điều kiện phát triển nhanh và văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.Do thông tin , tri thức bùng nổ , trình độ nền văn hóa nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn hóa phong phú đa dạng , nhu cầu thưởng thức văn hóa của người dân nâng cao.Nhờ các phương tiện truyền thông tức thời , đặc biệt là Internet , giao lưu văn hóa hết sức thuận lợi , tạo điều kiện cho các nền văn hóa có thể tiếp thu tinh hoa của nhân loại để phát triển nền văn hóa của mình. g.Xã hội hóa thông tin thúc đẩy sự dân chủ – Thông tin đến với mọi người và họ đều dễ dàng truy cập đến các thông tin cần thiết .Do đó đặt ra vấn đề là phải dân chủ hóa các hoạt động và tổ chức điều hành trong xã hội. – Các tổ chức quản lý cũng thay đổi nhiều.Trong thời đại thông tin , mô hình chỉ huy tập chung , có đẳng cấp là không , mà phải theo mô hình phi đẳng cấp , phi tập trung , mô hình mạng , trong đó tận dụng các quan hệ ngang , thông tin được đến một cách thuận lợi , nhanh chóng đến tất cả mọi nơi , không đi qua các nút sử lý trung gian. II – Chiến lược xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay. 1.Những thời cơ và thách thức. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đưa ra chiến lược : ” Đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa , xây dựng nền tảng để đến khoảng năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp”.Nhưng chúng ta không thể rập khuôn theo mô hình công nghiệp hóa mà các nước đi trước đã làm , chúng ta cần hiểu công nghiệp hóa là sự chuyển từ nền kinh tế lạc hậu , năng suất , chất lượng , hiệu quả thấp , dựa vào phương pháp sản xuất nông nghiệp , lao động thủ công là chính sang nền kinh tế có năng suất , chất lượng , hiệu quả cao , theo phương pháp công nghiệp , dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất , vì vậy mà công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa.Như vậy kinh tế tri thức chính là vận hội ngàn vàng để chúng ta đẩy nhanh công nghiệp hóa , hiện đại hóa.Chúng ta phải thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ cực kỳ lớn lao : Chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Việt Nam vừa mới trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng đặt cho nước ta nhiều cơ hội và thách thức: – Chúng ta được tiếp xúc nhiều hơn với nền kinh tế thế giới , có cơ hội được học hỏi kinh nghiệm của các nền kinh tế mạnh trên thế giới. – Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp nước ngoài nếu muốn tồn tại.Đây cũng sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp của ta đổi mới. – Tri thức Việt Nam qua thực tế sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm mới.Đây là một điều quan trọng để rút ngắn khoảng cách của tri thức nước ta với tri thức các nước phát triển. – Người lao động Việt Nam muốn đáp ứng nhu cầu mới thì phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và phải có vốn ngoại ngữ tốt để phục vụ cho công việc. – Nhiều nhân tài của đất nước ta cũng sẽ dễ mất đi hơn ( chảy máu chất xám) nếu như nước ta không có các chính sách đãi ngộ phù hợp. Chúng ta có thế mạnh về tiềm năng con người , chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2005 xếp thứ 108/177 nước.Thực tế chứng minh người Việt Nam có khả năng nắm bắt và làm chủ nhanh các tri thức mới và công nghệ hiện đại.Nhiều ngành mới xây dựng nhờ sử dụng công nghệ mới đã theo kịp trình độ các nước trong khu vực ( bưu chính viễn thông , năng lượng , dầu khí , cầu đường …).Cho nên chúng phải thực hiện chính sách bằng và dựa vào con người , khoa học công nghệ như nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã chỉ ra: ” Chiến lược phát triển đất nước ta là chiến lược dựa vào tri thức và thông tin , chiến lược đi tắt , đón đầu với mũi nhọn là công nghệ thông tin”.Vì vậy Việt Nam cần tập trung phát triển công nghệ thông tin để thúc đẩy phát triển và hiện đại hóa các ngành , các lĩnh vực sản xuất dịch vụ , nâng cao hiệu quả tổ chức và quản lý , đồng thời để phát triển các ngành công nghiệp thông tin là những ngành có giá trị gia tăng cao nhất , những ngành trụ cột trong xã hội tương lai.Chúng ta cần tập trung phát triển và đào tạo thế hệ trẻ , đồng thời tìm cách lôi kéo lực lượng người Việt Nam có tri thức , trình độ cao trở về nước công tác. Nền kinh tế của nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc độ : một mặt phải lo phát triển nông nghiệp , nâng cao năng lực sản xuất những ngành công nghiệp cơ bản , lo giải quyết những nhu cầu cơ bản và bức xúc của người dân.Mặt khác đồng thời phải phát triển nhanh những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao , nhất là công nghệ thông tin để hiện đại hóa và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế , tạo ngành nghề mới , việc làm mới , đạt tốc độ tăng trưởng cao. 2.Những thành công và thất bại trong bước đầu xây dựng nền kinh tế tri thức ở nước ta. a.Thành công. Ngày càng nhiều ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật cao phát triển , cùng với đó là các tập đoàn lớn trong lĩnh vực này xuất hiện.Tiêu biểu nhất chúng ta phải kể đến tập đoàn FPT – tập đoàn công nghệ thông tin lớn nhất Việt Nam.Ngành công nghệ thông tin ngày càng đóng góp nhiều hơn vào ngân sách chung của cả nước. Công nghệ thông tin cũng đã được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất , dịch vụ.Chúng ta cũng đã có các dịch vụ bán hàng qua mạng , tìm kiếm việc trên mạng … Ngoài ra , Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã có trang web riêng có đầy đủ các tin tức về Đảng , các Nghị quyết , chính sách , các bộ luật hiện hành.Ngoài ra việc tham khảo, mọi người còn có thể đóng góp ý kiến của mình thông qua mạng. Người Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội học tập mọi lúc , mọi nơi . Số lượng sinh viên du học ngày càng tăng , đây là lực lượng rất quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước sau này.Chúng ta cũng có nhiều nhân tài công nghệ thông tin đang theo học nước ngoài.Đáng kể chúng ta phải nhắc đến Vũ Duy Thức , người đạt giải nhì cuộc thi tin học Mỹ năm 2000 và giải nhất năm chúng tôi vậy đã có tới 7 trường đại học đồng ý cấp học bổng tiến sĩ cho anh sinh viên mới có 22 tuổi này : MIT , Stanford , Carnege Mellon , Berkeley , USC , Washington , Massachusetts Amherst.Ngoài ra , lực lượng học sinh của ta tham gia các cuộc thi học sinh giỏi quốc tế luôn đạt thành tích rất cao. Trình độ lao động của ta ngày càng tăng , nhiều vị trí người lao động của ta đã có thể đảm nhận thay cho việc thuê lao động nước ngoài trước đây.Nhiều Việt kiều đang có xu hướng về nước để phát triển sự nghiệp của mình .Họ là lực lượng rất hùng hậu , họ đã làm việc và tiếp cận với phương pháp quản lý hiện đại , phong cách chuyên nghiệp , có các mối quan hệ tốt. Việc nâng cao dân trí cho người dân nông thôn được thực hiện rất tốt: -Gần 100% tổng số xã đã có điện thoại và điểm bưu điện văn hóa xã.Người dân được sử dụng các dịch vụ bưu chính , viễn thông , được đọc các loại sách , báo , tạp chí về pháp luật, kinh tế , chính trị , văn hóa , khoa học kỹ thuật… -Nhiều người nông dân tiên tiến đã biết sử dụng khoa học công nghệ , internet để phục vụ cho quá trình sản xuất của mình nhằm tăng hiệu quả sản xuất. Viễn thông của ta cũng đạt được những thành tựu đáng kể: -Internet có mặt ở Việt Nam từ năm 1997 , đến nay đã đạt khoảng 2 triệu thuê bao ( đạt mật độ 1,6%).Internet chính là một công cụ quan trọng phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. -Số lượng người sử dụng điện thoại di động ở Việt Nam ngày càng tăng , đi kèm với đó là các dịch vụ truyền hình di động và internet tốc độ cao cung cấp cho điện thoại di động. -Chúng ta đã lắp đặt được các tuyến cáp quang nội địa và quốc tế đạt tốc độ 240 Gb/s sử dụng công nghệ ghép song WMA , có thể tải được 240000 cuộc điện thoại cùng một lúc.Điều đó cũng đã tạo điều kiện cho nhiều loại hình dịch vụ thông tin như :fax , truyền số liệu , truyền hình di động , đặc biệt tạo môi trường lý tưởng cho internet tốc độ cao. -Đặc biệt chúng ta vừa phóng thành công vệ tinh đầu tiên VINASAT 1.Đây là 1 bước ngoặt cho sự phát triển của nền công nghệ thông tin va truyền thông của ta. -Ngoài ra về tài chính , chúng ta đã có thị trường chứng khoán tuy mới vài năm tuổi còn rất non trẻ xong nó bước đầu khẳng định hướng đi cũng như khả năng hội nhập của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hóa , nước ta ngày càng mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều quốc gia trên thế giới theo tiêu chí : “Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới”.Việc gia nhập WTO và tổ chức thành công hội nghị APEC lần thứ 14 (năm 2006) càng chứng tỏ được vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Tuy tiếp xúc với các nền văn hóa mới trên thế giới nhưng nền văn hóa Việt Nam vẫn luôn được các nước trên thế giới coi là một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. b.Thất bại. Việc tuyên truyền và giáo dục cho mọi người hiểu về kinh tế tri thức ở nước ta vẫn còn hạn chế.Rất nhiều người thậm chí còn chưa hề nghe thấy tên “kinh tế tri thức”. Tuy tăng trưởng kinh tế của nước ta luôn ở mức cao nhưng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta vẫn còn chậm.Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp ở nước ta vẫn còn chậm chạp và gặp nhiều khó khăn.Đây là nguyên nhân chính làm cho nền kinh tế nước ta vẫn còn thiên về đầu tư hữu hình theo kiểu toàn dân, trong khi đó đầu tư vô hình , vốn trí tuệ chưa được quan tâm xây dựng và phát huy đúng mức; một số cơ chế chính sách của ta vẫn còn mang đậm tàn dư của nền kinh tế hoạch hóa tập trung bao cấp. Khả năng giải quyết việc làm của nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế: mỗi năm nước ta có them khoảng 1,3 triệu lao động mới nhưng chỉ có 1,1 triệu trong số này có được việc làm.Vì vậy , tỉ lệ thất nghiệp ở nước ta đang có xu hướng tăng lên. Nguồn nhân lực – nhân tố quan trọng nhất cho nước ta tiến vào kinh tế tri thức tuy đã được cải thiện những vẫn còn nhiều điều đáng nói: -Hiện nay , Việt Nam có trên 43 triệu lao động nhưng 74,7% chưa được qua đào tạo , số còn lại thì không thật giỏi nghề.Tỉ lệ lao động có trình độ đại học, cao đẳng chỉ chiếm 5,5%. – Những công việc đòi hỏi trình độ cao cấp thì hầu hết chúng ta vẫn phải thuê lao động , chuyên gia nước ngoài. -Xuất khẩu lao động là giải pháp giải quyết việc làm rất có hiệu quả , nhưng nhiều người lao động ở nước ngoài tự ý phá hợp đồng , điều này tạo ra ấn tượng không tốt , làm mất danh tiếng của người lao động Việt Nam đối với bạn bè quốc tế. – Khả năng làm việc theo nhóm của lao động nước ta là rất kém , những việc đòi hỏi sự phối hợp của nhiều người thì hiệu quả thường không bằng được công việc cần 1 hoặc 2 người.Điều này được phản ánh qua câu nói: “1 người Việt Nam hơn 1 người Nhật nhưng 2 người Việt Nam thua 2 người Nhật”. -Nhiều người có được việc làm là nhờ quan hệ , tiền bạc mà không hề có trình độ , tài năng.Nếu những người này được nắm các vị trí quan trọng thì không biết sẽ gây ra những hậu quả gì? Việc đào tạo nguồn nhân lực của ta vẫn còn yếu kém: -Chỉ có 15-20% sinh viên ra trường có thể đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng.Nhận xét chung của các nhà tuyển dụng đối với sinh viên hiện nay là: ” Thiếu kiến thức, yếu kỹ năng, ứng xử vụng về , mơ hồ về nghề nghiệp, đặc biệt vốn ngoại ngữ thì rất ít người đáp ứng được nhu cầu”.Thậm chí nhiều sinh viên tuy đã học năm thứ 3 ở đại học nhưng khi được hỏi về nghề nghiệp tương lai của mình thì vẫn còn mơ hồ.Điều này chứng tỏ khoảng cách giữa giảng đường và thực tế vẫn còn rất xa xôi và rất khó để thu hẹp khoảng cách này. – Kém ngoại ngữ có lẽ là điều khó chấp nhận nhất đối với sinh viên Việ

Lựa Chọn Và Giải Pháp Nào Cho Nền Kinh Tế Xanh Việt Nam? (Phần I)

LTS: Kinh tế xanh được Liên Hiệp Quốc định nghĩa là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi trường và khủng hoảng sinh thái. Một nền kinh tế xanh được đặc trưng bởi sự tăng trưởng bền vững của các hợp phần kinh tế có khả năng duy trì và gia tăng nguồn vốn tự nhiên của trái đất.

Hiện nay, phát triển kinh tế xanh là sự lựa chọn chiến lược của nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. Hiệu quả và mô hình thành công từ chiến lược phát triển kinh tế xanh trên thế giới là không thể phủ nhận dưới nhiều khía cạnh: kinh tế – xã hội, môi trường tự nhiên, thói quen tiêu dùng xanh, tiêu dùng thông minh…Là một trong năm quốc gia bị tác động nghiêm trọng nhất bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam không thể chần chừ hơn nữa trong sự chuyển dịch xanh hóa nền kinh tế vốn có nhiều lợi thế.

Bài viết này tập trung giải quyết các vấn đề: 1) Lí thuyết và thực tiễn về kinh tế xanh trên thế giới và Việt Nam; 2) Vì sao phải lựa chọn mô hình phát triển kinh tế xanh trong quá trình phát triển đất nước; 3) Giải pháp nào cho phát triển nền kinh tế xanh tại Việt Nam?

1. Kinh tế xanh là gì ?

Theo UNEP, kinh tế xanh là nền kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái. Nói một cách đơn giản, nền kinh tế xanh có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và hướng tới công bằng xã hội. Trong nền kinh tế xanh, sự tăng trưởng kinh tế gắn với giảm phát thải carbon, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên, ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái. Kinh tế xanh phải là nền kinh tế với con người là trung tâm, trong đó các chính sách tạo ra các nguồn lực mới về tăng trưởng kinh tế bền vững và bình đẳng. Thúc đẩy nền kinh tế xanh và cải tổ quản lý môi trường là hai nhân tố căn bản bảo đảm tiến trình phát triển bền vững của mỗi nước nói riêng và trên phạm vi toàn cầu nói chung.

Với quan điểm đó, kinh tế xanh đã đặt con người vào vị trí trung tâm, trong đó các chính sách do con người hoạch định tạo ra các nguồn lực mới về tăng trưởng kinh tế bền vững và bình đẳng. Thông qua việc đẩy mạnh nền kinh tế xanh và cải tổ quản lý môi trường, con người đã bảo đảm được hai nhân tố căn bản của tiến trình phát triển bền vững của mỗi quốc gia nói riêng và toàn cầu nói chung.

Nền kinh tế xanh được đo lường thông qua hệ thống các nhóm chỉ số, cụ thể như sau:

– Nhóm chỉ số về môi trường (chỉ số sử dụng tài nguyên hiệu quả, chỉ số về ô nhiễm của ngành hoặc toàn bộ nền kinh tế,…).

– Nhóm chỉ số kinh tế (chỉ số về tỷ lệ đầu tư, tỷ lệ sản lượng và việc làm trong các lĩnh vực đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững như GDP xanh, GDP,…).

– Nhóm chỉ số tổng hợp về tiền bộ và phúc lợi xã hội (chỉ số về kinh tế vĩ mô dành cho môi trường, phúc lợi xã hội trên đầu người,…).

2. Vì sao phải lựa chọn nền kinh tế xanh ?

Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy nền kinh tế xanh đã có những vai trò chính yếu sau:

– Thúc đẩy quá trình phát triển bền vững:

Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng hay làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Phát triển bền vững đòi hỏi sự tiến bộ và tăng cường sức mạnh của cả ba yếu tố có tính chất phụ thuộc và tương hỗ: kinh tế – xã hội – môi trường. Chuyển đổi sang nền kinh tế xanh có thể là một động lực quan trọng trong nỗ lực này. Thay vì bị coi như là nơi hấp thụ chất thải tạo ra bởi các hoạt động kinh tế một cách thụ động, thì môi trường trong nền kinh tế xanh được xem là nhân tố có tính quyết định đến tăng trưởng kinh tế, cải thiện chuỗi giá trị, đem lại sự ổn định và thịnh vượng lâu dài. Trong nền kinh tế xanh, nhân tố môi trường có khả năng tạo ra tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. Khi mà sinh kế của một bộ phận người dân có mức sống dưới mức nghèo khổ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, hơn nữa họ là những đối tượng dễ bị tổn thương do tác động của thiên tai cũng như sự biến đổi khí hậu, việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh cũng góp phần cải thiện sự công bằng xã hội, và có thể được xem như là một hướng đi tốt để phát triển bền vững. Cách thức để áp dụng mô hình kinh tế xanh đối với một quốc gia có thể rất khác nhau; điều đó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như đặc điểm địa lý, tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực con người – xã hội và giai đoạn phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những nguyên tắc quan trọng bao gồm bảo đảm phúc lợi cao nhất, đạt mục tiêu công bằng về mặt xã hội và hạn chế tối đa những rủi ro cho môi trường và hệ sinh thái thì vẫn luôn luôn không thay đổi.

– Tạo ra việc làm và giải quyết nạn thất nghiệp:

Nền kinh tế xanh có khả năng tạo ra việc làm trong một loạt các lĩnh vực mới nổi và nhiều tiềm năng, chẳng hạn như nông nghiệp hữu cơ, năng lượng tái tạo, giao thông công cộng, cải tạo các khu công nghiệp, tái chế… Một công việc tốt được hiểu như là công việc có năng suất lao động cao, cùng với hiệu quả về cải thiện môi trường sinh thái và ổn định lượng khí thải ở mức thấp, góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy tăng trưởng và giúp bảo vệ môi trường. Đã có rất nhiều những việc làm xanh như vậy được tạo ra, đặc biệt là trong ngành năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, để bảo đảm một quá trình chuyển đổi nhịp nhàng sang nền kinh tế xanh, cần thiết phải có nỗ lực phối hợp trong việc tạo ra việc làm. Các chính sách về xã hội sẽ cần phải được phát triển cùng với các chính sách về môi trường và kinh tế. Để bảo đảm một quá trình chuyển đổi nhịp nhàng, nhà nước cần tập trung vào các vấn đề quan trọng và cấp thiết, như đầu tư vào những kỹ năng mới, carbon thấp; hay nghiên cứu các chính sách cần thiết để điều chỉnh việc làm trong các lĩnh vực chủ chốt như năng lượng và giao thông vận tải.

– Bảo vệ đa dạng sinh học và tạo cơ hội phục hồi cho các hệ sinh thái trên phạm vi toàn cầu:

Suy giảm đa dạng sinh học làm giảm phúc lợi của một bộ phận dân số thế giới, trong khi một bộ phận dân số khác gặp phải những vấn đề trầm trọng hơn vì đói nghèo. Nếu tình trạng này tiếp tục, nó có thể gây ảnh hưởng đến sự hoạt động của các hệ sinh thái điều hòa khí hậu và có thể dẫn đến những biến đổi không thể lường trước. Hơn nữa, hệ sinh thái là nguồn cung các nguyên liệu chủ yếu phục vụ cho phát triển kinh tế. Bởi những lý do này mà việc gìn giữ và bảo vệ các hệ sinh thái là trọng tâm của Chương trình nghị sự kinh tế xanh. Ngoài ra, đầu tư xanh cũng nhằm giảm những hệ quả tiêu cực do các yếu tố bên ngoài gây ra bởi việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên.Ví dụ, đầu tư vào bảo vệ rừng không những duy trì một loạt các ngành và sinh kế của con người mà còn bảo tồn 80% các loài trên cạn. Bằng cách thúc đẩy đầu tư vào lâm nghiệp xanh, Chương trình nghị sự kinh tế xanh sẽ góp phần ổn định đời sống kinh tế của hơn một tỷ người hiện đang sinh sống bằng các sản phẩm từ gỗ, giấy và chất xơ, với tổng thu nhập chỉ chiếm 1% GDP toàn cầu.

– Tiếp cận và khai thác các công nghệ sạch hiệu quả, nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên, giảm đáng kể lượng chất thải so với công nghệ cũ:

Bảo đảm an ninh lương thực nhờ phát triển nông nghiệp xanh nói riêng và nền kinh tế xanh nói chung. Bảo đảm an ninh vốn, năng lượng, tài nguyên, giảm các chi phí đầu tư và chi tiêu cho lĩnh vực giáo dục, y tế cộng đồng, phúc lợi xã hội.

– Giảm thiểu lượng khí nhà kính, hạn chế sự nóng lên toàn cầu:

Việc lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế xanh sẽ đồng nghĩa với việc sử dụng nguồn năng lượng xanh, năng lượng ít gây ô nhiễm môi trường trong cơ cấu năng lượng quốc gia. Các nguồn năng lượng truyền thống, thâm dụng các nguồn nhiên liệu hóa thạch sẽ được giảm dần và thay thế bằng các nguồn năng lượng cho ít chất thải và an toàn hơn đối với cuộc sống. Chính lựa chọn thông minh này đã góp phần không nhỏ trong việc giảm thiểu lượng các khí nhà kính, hạn chế sự nóng lên của khí hậu toàn cầu hay ít ra đã thay đổi được hành vi, thói quen của doanh nghiệp và người tiêu dùng xanh.

– Xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận dân cư:

Hiện nay, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vẫn được sử dụng như là cách thức phổ biến nhất để đánh giá một nền kinh tế. Tuy nhiên, sự tăng trưởng đó thườngđược tạo ra thông qua việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn là tài sản “chung” như tài nguyên nước, rừng, không khí. Để có tăng trưởng (theo định nghĩa này), chúng ta phải trả giá rất đắt trên cả hai phương diện kinh tế và xã hội, đặc biệt là một bộ phận những người mà sinh kế của họ phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn lực môi trường. Suy giảm đa dạng sinh học và suy thoái các hệ sinh thái đang ảnh hưởng rất lớn đến các ngành nông nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt cá, lâm nghiệp – sinh kế của đa số dân nghèo trên thế giới phụ thuộc hầu hết vào các ngành này. Một điều quan trọng nữa là với mục đích tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản và cải thiện cơ sở hạ tầng. Hướng tới nền kinh tế xanh được coi như là một trong những phương thức nhằm xóa đói giảm nghèo và cải thiện tổng thể chất lượng cuộc sống. Chẳng hạn như cung cấp các nguồn năng lượng có khả năng hỗ trợ cho 1,4 tỷ người hiện đang thiếu điện và cho hơn 700 triệu người khác hiện đang không được tiếp cận với các dịch vụ năng lượng hiện đại. Công nghệ năng lượng tái tạo, như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và các chính sách hỗ trợ năng lượng hứa hẹn sẽ đóng góp đáng kể cho việc cải thiện đời sống và sức khỏe cho một bộ phận người dân có thu nhập thấp, đặc biệt là cho những người hiện đang không có khả năng tiếp cận với năng lượng. Một điều khác mà chúng ta cần cân nhắc là việc ngừng hoặc chuyển hướng các khoản trợ cấp cho những hoạt động có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Trên thực tế, khoảng 700 tỷ USD được chi ra mỗi năm bởi các chính phủ trên khắp thế giới để trợ cấp cho việc sử dụng nguồn nhiên liệu hóa thạch; khoản chi này lớn gấp năm lần tổng số tiền dành cho hỗ trợ phát triển. Phần lớn nguồn trợ cấp được phân bổ đến chính phủ các nước đang phát triển, trong nỗ lực làm dịu cú sốc tăng giá nhiên liệu đối với người nghèo. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng trợ cấp nhiên liệu hóa thạch là không hiệu quả đối với người nghèo, thường họ được hưởng lợi không tương xứng so với các nhóm có thu nhập cao hơn. Gỡ bỏ các khoản trợ cấp gây hại môi trường hoặc thay thế bằng các loại hỗ trợ hướng đến các mục tiêu cụ thể hơn, chẳng hạn như hỗ trợ bằng hình thức chuyển tiền mặt, là cách tốt để góp phần thực hiện mục tiêu xã hội, đồng thời nới lỏng các hạn chế về mặt tài chính và cải thiện môi trường.

– Mở ra thị trường mới, đầy tiềm năng bằng cách kích cầu hàng hóa và dịch vụ là sản phẩm của công nghệ xanh.

Phát triển kinh tế xanh sẽ góp phần thúc đẩy hoại động “mua sắm xanh”. Mua sắm xanh hiện nay đã được nhiều quốc gia thực hiện và đang trở thành một xu thế tất yếu trên thế giới để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Tại Hội nghị Trái đất Rio 20+ diễn ra tại Braxin vào tháng 12-2012, Sáng kiến mua sắm công bền vững (SPPI) đã được nhiều chính phủ và tổ chức trên thế giới tự nguyện ký kết thực hiện. Phát triển dịch vụ mua sắm xanh sẽ kích thích tăng số lượng và chất lượng các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường, thúc đẩy sản xuất sạch, hạn chế ô nhiễm môi trường và mua sắm xanh chính là một trong các biện pháp để thúc đẩy phát triển nền kinh tế xanh, hình thành một loại thị trường mới, kích thích sự gia tăng phát triển của các hàng hóa và dịch vụ có chất lượng cao, bảo đảm yêu cầu để tham gia vào chuỗi giá trị trong quá trình thực hiện mua sắm xanh của chính phủ, các tổ chức và cá nhân các hộ gia đình.

3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh trên thế giới và Việt Nam? – Trên thế giới:

Nhiều mô hình phát triển kinh tế xanh trên thế giới đã và đang được triển khai với quy mô ngày càng sâu và rộng, hiệu quả và cải thiện chính sách không ngừng gia tăng. Trên thế giới, mô hình phát triển kinh tế xanh đã thành công trong các lĩnh vực năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, quy hoạch đô thị,…

+ Lĩnh vực năng lượng: Là một quốc gia đang phát triển, từng được xem là công xưởng của thế giới, Trung Quốc cần rất nhiều năng lượng cho sản xuất kinh tế. Nhiều chuyên gia từng ví rằng, Trung Quốc là cái túi không đáy hứng các nguồn năng lượng từ các nơi trên thế giới đổ về. Tốc độ tăng trưởng năng lượng thường đạt 2 con số / năm, do vậy việc tìm các nguồn năng lượng xanh thay thế là giải pháp sống còn của Trung Quốc trong thời gian gần đây. Cho đến nay, Trung Quốc đã tự chủ được nguồn năng lượng, bước đầu xuất khẩu năng lượng sang các nước láng giềng trong đó có Việt Nam. Tỷ trọng đóng góp từ các nguồn năng lượng xanh trong cơ cấu năng lượng quốc gia đã gia tăng. Xã hội hóa trong đầu tư cho nghiên cứu và triển khai các dự án năng lượng xanh, giá rẻ tại Trung Quốc là lựa chọn được Chính phủ và doanh nghiệp năng lượng áp dụng thành công. Ngoài Trung Quốc, Tunisia, Hàn Quốc cũng là những quốc gia thành công trong lĩnh vực năng lượng khi chọn xu hướng phát triển kinh tế xanh trong tìm kiếm và sử dụng các nguồn năng lượng thay thế cho nhu cầu năng lượng của nền kinh tế tăng trưởng nhanh như hiện nay.

+ Lĩnh vực nông nghiệp: Israel, Pháp là những nước công nông nghiệp có trình độ phát triển rất cao. Họ đã lai tạo thành công các giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao và phẩm chất tốt. Công nghệ lai tạo gien đã đóng vai trò quan trọng tạo ra các giống tốt, kháng bệnh, kháng vi rút, chu kỳ canh tác ngắn, lợi nhuận cao,… Bên cạnh đó, cho đến nay họ đã hiện đại hóa và tự động hóa hầu hết các công đoạn trong quá trình sản xuất nông nghiệp, tạo nguồn gien quý hiếm thuần chủng với các ưu thế lai vượt trội bên cạnh việc tận dụng các ưu thế lai thích nghi của những giống bản địa. Tuy giá thành của nông sản khá cao, quy trình sản xuất phức tạp nhưng chất lượng nông sản đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm góp phần bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, giúp doanh nghiệp và người sản xuất gia tăng lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh và có thể nhân rộng ra các khu vực khác.

Sử dụng các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao sẽ tạo ra thói quen và định hướng tiêu dùng cho người tiêu dùng xanh. Trong tương lai, một khi nhiều khía cạnh của lĩnh vực nông nghiệp, nhiều sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao được ứng dụng vào sản xuất thực tiễn sẽ góp phần cải thiện chất lượng bữa ăn, hạ thấp nguy cơ bệnh tật từ thực phẩm xanh tại các nước đang phát triển, giảm đáng kể tỷ lệ thiếu lương thực cho cộng đồng thế giới,… Sản lượng lương thực tại nhiều khu vực, quốc gia như Uganda, Ấn Độ,… tăng lên nhờ lựa chọn chiến lược phát triển nông nghiệp xanh. Nói cách khác, an ninh lương thực được tăng cường sẽ góp phần ổn định kinh tế, chính trị trên phạm vi toàn cầu.

+ Lĩnh vực lâm nghiệp: Là quốc gia nằm ở khu vực phân bố lượng mưa khá cao, mức độ phục hồi các hệ sinh thái lớn, diện tích rừng nguyên sinh còn khá nhiều, Nepal đã lựa chọn phát triển kinh tế xanh trong lĩnh vực lâm nghiệp. Chiến lược này không chỉ có sự tham gia từ các cơ quan chức năng mà các tầng lớp dân chúng cũng hưởng ứng nhiệt tình, phù hợp với tâm thế của toàn dân.

Phát triển rừng và nghề rừng ở Nepal mang ý nghĩa sống còn đối với đất nước. Địa hình tự nhiên phân bậc khá rõ ràng, lượng mưa hằng năm lớn, nếu không bảo vệ lớp phủ thực vật bề mặt, các hoạt động kinh tế và môi trường tự nhiên sẽ chịu tác động không nhỏ đến từ những thiên tai như lũ lụt, hạn hán, xói mòn, sạt lở,… gây biến dạng địa hình mà thiên nhiên phải mất hàng tỉ năm hình thành. Tương tự Nepal, Ecuador cũng là quốc gia được xem là thành công trong việc khai thác, khôi phục và sử dụng hệ thống rừng quốc gia trong phát triển kinh tế xanh. Họ phát triển lĩnh vực lâm nghiệp hiệu quả kết hợp với khai thác phù hợp (du lịch nghiên cứu, khám phá theo hướng phát triển du lịch sinh thái,…), ít tác động đến thiên nhiên nên giá trị mang lại từ lĩnh vực này tăng nhanh qua các năm.

+ Lĩnh vực đô thị: Là những quốc gia đông dân, tốc độ tăng trưởng dân số nhanh, tốc độ đô thị hóa cao, bài toán quy hoạch hệ thống đô thị của Brazil và Ấn Độ đặt lên vai các nhà quản lí và toàn thể cộng đồng. Bên cạnh việc cải thiện hạ tầng các đô thị hiện có, đáp ứng nhu cầu nhà ở vốn dĩ rất khó khăn, các nước trên đã thành công trong việc xây dựng các đô thị xanh, đô thị sinh thái hiện đại, tạo các khu sinh sống xanh – sạch – đẹp.

Nhiều đô thị mới hình thành đã đáp ứng đầy đủ tiện nghi của người dân tại Brazil, Ấn Độ, Mỹ, đồng thời là các đô thị được quy hoạch, thiết kế, thi công và vận hành với nguồn nguyên liệu xanh, thân thiện với môi trường, sử dụng nguồn năng lượng xanh, sạch và hiệu quả cao. Nhiều đô thị đã tận dụng các nguồn năng lượng tái tạo để tự vận hành các toà nhà chọc trời, ít tác động đến môi trường, sử dụng các phương tiện, thiết bị chiếu sáng kĩ thuật cao, ít tốn năng lượng nhưng cho hiệu suất cao.

– Việt Nam:

Việt Nam có nền kinh tế đang phát triển, gặp khá nhiều thuận lợi nhưng cũng đối diện với không ít khó khăn trong tiến trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay, nước ta chỉ dừng lại ở các hoạt động phát triển theo chiều hướng kinh tế xanh ở quy mô nhỏ, đơn lẻ trên một số lĩnh vực (nông nghiệp, năng lượng, du lịch, sản xuất công nghiệp…).

Sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao đã bắt đầu xuất hiện trên thị trường ngày càng nhiều nhưng đầu ra còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của một nước nông nghiệp có dân số đông. Thói quen tiêu dùng các sản phẩm xanh từ nền nông nghiệp xanh của người tiêu dùng thông minh chưa hình thành đến từng hộ gia đình vì bình quân thu nhập đầu người chưa cao, chưa phân định rạch ròi các dòng sản phẩm xanh và các sản phẩm truyền thống được sản xuất theo quy trình thông thường trong giá cả, quảng bá, sản xuất và cung ứng ra thị trường.

Xu hướng phát triển du lịch sinh thái bền vững đặt ra trong thời gian gần đây được xem là thành công về hướng đi nhưng chưa được áp dụng rộng rãi nhiều nơi trong ngành công nghiệp không khói nhưng nhiều rác. Tâm thế và thói quen thưởng thức, tiêu dùng và sử dụng các dịch vụ, sản phẩm du lịch của du khách đã được cải thiện đáng kể.

Nền kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tiêu hao năng lượng hoặc sử dụng năng lượng xanh (năng lượng gió, năng lượng mặt trời,…), một số sản phẩm làm ra ổn định chất lượng được xuất khẩu, cạnh tranh và xâm nhập vào những thị trường khó tính với tiêu chuẩn y tế nghiêm ngặt.

Một số khu đô thị mới hình thành tại các thành phố lớn mang hơi hướng của đô thị xanh, đô thị sinh thái nhưng gặp khó khăn trong tiêu thụ là một trở ngại không nhỏ đối với các nhà đầu tư bất động sản. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là chúng ta cần kiên trì thay đổi tư duy và thói quen sử dụng không gian xanh sẽ góp phần hình thành các đô thị xanh – sạch – đẹp trong tương lai.

Trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng những địa bàn trọng điểm của nền kinh tế xanh (cao nguyên Bắc Bộ, miền Trung, Tây Nguyên, đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là đảo Phú Quốc). Đây là địa bàn có vai trò rất lớn trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước, nơi ăn chốn ở, duy trì văn hóa bản địa, kiểm soát thiên tai, giá trị quốc phòng, góp phần giảm thiểu tác hại của hiệu ứng nhà kính…

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật

Vai Trò &Amp; Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam Hiện Nay

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN 3 1. Bản chất của kinh tế tư nhân 3 2. Tính tất yếu tồn tại kinh tế tư nhân ở Việt Nam 4 3. Vai trò của kinh tế tư nhân 8 II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN 13 1. Thực trạng phát triển 13 2. Nguyên nhân 18 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN 19 1. Những thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế tư nhân 19 2. Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân 22 2.a Các vấn đề kinh tế vĩ mô 22 2.b Các vấn đề kinh tế vi mô 27 IV. KẾT LUẬN 29 LỜI MỞ ĐẦU Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay,đặc biệt là vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới đã và đang đặt ra những cơ hội cũng như những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam.Việt Nam đã và đang có những bước tiến vững chắc trong việc phát triển nền kinh tế thị trường địng hướng xã hội chủ nghĩa,hội nhập cùng thế giới bằng việc phát huy nội lực đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngoài thông qua việc phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế.Trong đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân trong việc phát triển nền kinh tế. Hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương khóa IX khẳng định: “kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa”. Vậy trong việc phát triển kinh tế Việt Nam thành phần kinh tế tư nhân đã có vai trò như thế nào? Hay tại sao Việt Nam lại phải phát triển kinh tế tư nhân trong khi chúng ta muôn hướng tới một xã hội xã hội chủ nghĩa nơi sở hữu tư liệu sản xuất là của tập thể.Việc xác định đúng vai trò của kinh tế tư nhân và con đường đúng đắn cho sự phát triển của thành phần kinh tế này là việc làm cấp thiết hiện nay, bởi vì hiện nay toàn cầu hóa là một xu thế phát triển tất yếu trong tiến trình phát triển của nhân loại, chúng ta không muốn bị cuốn vào vòng xoáy dó một cách thụ động thì chúng ta phải biết phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, nó là một mắt xích quan trọng trong việc nối kết nền kinh tế thị trường Việt Nam với nền kinh tế thị trường thế giới. Vì vậy em xin làm rõ về vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam và thực trạng phát triển của thành phần kinh tế này trong thời gian qua cũng như xin đưa ra một số ý kiến về giải pháp phát triển thành phần kinh tế này. vai trß vµ gi¶i ph¸p ph¸t triÓn kinh tÕ t­ nh©n ë viÖt nam hiÖn nay I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN 1. BẢN CHẤT CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN: Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên chủ mghĩa xã hội, việc đổi mới đường lối phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua đã đem lại cho chúng ta những bước tiến vượt bậc. Chúng ta chấp nhận mở cửa hội nhập với thế giới, xây dựng đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy nội lực đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Việc xây dựng đường lối phát triển kinh tế như vậy là sự phù hợp với thực tế khách quan hiện nay ( phù hợp với điều kiện thực tế của kinh tế Việt Nam hiện nay và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra như một điều tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử) vì vậy đã mang lại cho chúng ta những thành tựu đáng kể. Trong kết quả chúng ta có hôm nay phải kể đến sự đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam của khu vực kinh tế tư nhân nhất là sau khi có sự đổi mới đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Kinh tế tư nhân là một loại hình Kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, gắn liền với lao động cá nhân người chủ sở hữu và lao động làm thuê. Kinh tế tư nhân ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Như vậy bản chất của lọai hình kinh tế này đó là dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Người sở hữu tư liệu sản xuất là người chủ và họ luôn có xu hướng tối đa hóa lợi ích mà mình thu được vì vậy họ phải bóc lột sức lao động của công nhân làm thuê. Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì chế tạo ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của nó. Thật vậy giá trị thặng dư, phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động của công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ bóc lột lao động làm thuê. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động mỗi nhà tư bản, cũng như toàn bộ xã hội tư bản. Các nhà tư bản luôn được bộ máy chính quyền tư bản bảo vệ lợi ích nên họ đã tìm đủ mọi cách để bóc lột giá trị thặng dư như tăng cường độ lao động, kéo dài thời gian lao động, tăng năng suất lao động… Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sỏ hữu,quản lí, phân phối để thích nghi với điều kiện mới nhưng về bản chất thì không thay đổi. Nhà nước tư bản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế xã hội nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản. Xét trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay thì kinh tế tư nhân chịu sự kiểm soát quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nên không còn hoàn toàn giống như kinh tế tư nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khái niệm kinh tế tư bản tư nhân chỉ xuất hiện gắn liền với sự hình thành và phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình đổi mới ở nước ta với sự xuất hiện và phát triển các loại hình doanh nghiệp của tư nhân không đồng nghĩa với sự xuất hiện trở lại của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản. Các loại hình doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp ở nước ta, được hình thành và phát triển trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, được nhà nứơc khuyến khích và bảo vệ không hoàn toàn do quy luật giá trị thặng dư chi phối. Hơn nữa các loại hình doanh nghiệp của tư nhân và đội ngũ doanh nhân ở nước ta được hình thành và phát triển trong điều kiện mới, không hàm chứa tính chất giai cấp hay bản chất tư bản như dưới xã hội tư bản điều này được chứng minh là đã có rất nhiều doanh nhân là đảng viên. Các doanh nghiệp của tư nhân nước ta đại diện cho một lực lựơng sản xuất mới, là một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân… 2.TÍNH TẤT YẾU TỒN TẠI KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: * Quan điểm về kinh tế tư nhân của Đảng trước khi đổi mới (1986) Kinh tế tư nhân là đối tượng chính phải cải tạo, xóa bỏ. Vì kinh tế tư nhân luôn đồng nghĩa với làm ăn cá thể bóc lột, tự phát lên con đường chủ nghĩa tư bản, vì thế kinh tế tư nhân không thể là một chủ thể kinh tế để xây dựng chr nghĩa xã hội. Sau cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta thì Đảng và Nhà nước đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ(cá thể, thợ thủ công, tiểu thương…) và sở hữu tư nhân của giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam. Đối với sở hữu tư nhân của những ngừơi sản xuất nhỏ thì Nhà nước cải tạo bằng con đường vận động thuyết phục để đưa họ vào làm ăn tập thể. Còn đối với sở hữu tư nhân của giai cấp tư sản dân tộc thì Nhà nước phân làm hai đối tựơng, một đối tượng đó là các nhà tư sản dân tộc nhưng có công với cách mạng và kháng chiến thì Nhà nước cải tạo hòa bình bằng cách chuộc lại hay chưng mua rồi sau đó chuyển thành sở hữu Nhà nước (sau đó vận động họ kết hợp với nhà nước để kinh doanh hình thành các xí nghiệp công tư hợp doanh) Đối với nhà tư sản làm tay sai cho đế quốc phong kiến thì Nhà nước cải tạo bằng cách quốc hữu hóa hay tịch thu toàn bộ tài sản biến thành sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên trong giai đoạn này ngay cả ở trong nghiệp là nơi diễn ra quá trình xóa bỏ tư nhân mạnh nhất nhưng sở hữu tư nhân vẩn còn tồn tại,trong thời gian này những ngừơi không vào tập thể hợp tác xã, làm ăn cá thể, tiểu thương… thường không được coi trọng, bị phân biệt trong nhiều việc. * Từ sau đại hội VI kinh tế tư nhân được thừa nhận tồn tại khách quan lâu dài có lợi cho quốc kế dân sinh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX khẳng định: ” Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên trong thời kỳ hiện nay về mặt tâm lý vẫn còn nhiều người nghi ngờ về tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân, họ vẫn giữ quan niệm cũ trước đổi mới cho rằng không nên phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân đi liền với sự bóc lột của tư bản, kinh tế tư nhân là một rào cản trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Điều này đã tạo nên tâm lý lo ngại cho một bộ phận không nhỏ trong xã hội và tạo thành một rào cản về mặt tâm lý trong việc xây dựng phát triển kinh tế tư nhân theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. Việc Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một việc làm đúng đắn, thể hiện tầm nhìn sâu, rộng, xuyên suốt của Đảng. Việc xây dựng đường lối chủ trương của Đảng đã gắn với thực tế, xuất phát từ thực tế phù hợp với điều kiện và tình hình phát triển của Việt Nam. Xuất phát từ thực tế thì nhà nước ta đã khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong gần 20 trở lại đây vì sự tồn tại phát triển của kinh tế tư nhân hay phát triển nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là một sự tất yếu khách quan xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất: phù hợp với thực trạng của lực lượng sản xuất phát triển chưa đồng đều ở Việt Nam. Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là điểm xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn rất thấp kém và do đó sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi vậy trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chẳng những không cần phải xóa bỏ mà còn cần được tạo mọi điều kiện để phát triển. Trình độ lực lượng sản xuất của chúng ta không những còn rất thấp kém mà còn phát triển không đồng đều có nhiều trình độ khác nhau do đó trong nền kinh tế tồn tại nhiều loại hình sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất dẫn đến tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Trong lịch sử mỗi phương thức sản xuất có một loại hình sở hữu tư liệu sản xuất đặc trưng nhưng điều đó không có nghĩa là mỗi phương thức sản xuất chỉ có một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất mà có thể có nhiều loại hình sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau cùng tồn tại. Sự xuất hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất do tính chất và trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất quy định, lực lượng sản xuất không ngừng vận động biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng không ngừng vận động biến đổi, tương ứng với mỗi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do vậy sự chủ quan nóng vội duy ý chí trong việc xóa bỏ sở hữu tư nhân, xác lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất đều trái với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phải trả giá. Điều này đã được thực tế ở Việt Nam trong những năm sau khi giành độc lập đến 1986 chứng minh. việc xóa bỏ vội vàng sở hũu tư nhân, phát triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã làm cho kinh tế Việt Nam trì trệ, lâm vào khủng hoảng, lạm phát tăng cao…Vì vậy từ một nền sản xuất nhỏ với nhiều loại hình sở hữu không thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc xóa bỏ chế độ tư hưu ngay. Thứ hai: trong quá trình phát triển do điều kiện lịch sử đã để lại nhiều thành phần kinh tế như thành phần kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ, thành phần kinh tế tự nhiên của đồng bào dân tộc ở dẻo cao phía bắc và tây nguyên… mà chúng ta không thể cải biến nhanh được. Hơn nữa sau nhiều năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới mới đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới: thàh phần kinh tế Nhà nước,thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản nhà nước… các thành phần kinh tế này tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau. Thứ ba: phát triển kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với xu thế phát triển kinh tế khách quan của thời đại ngày nay, thời đại các nước hướng về phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, nó tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc phát triển kinh tế thị trường sẽ giúp Việt Nam có những cơ hội to lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập với thế giới. Chúng ta đang đàm phán để được gia nhập tổ chức WTO vì vậy nếu chúng ta không phát triển thị trường thì chúng ta sẽ không thể cạnh tranh được với các nước trên thế giới, dẫn tới việc lạc hậu, bị cuốn theo vòng xoáy của toàn cầu hóa. Thứ tư: phát triển kinh tế nhiều thành phần phù hợp với lòng mong muốn thiết tha của người dân Việt Nam là được đem hết tài năng, sức lực để lao động làm giàu cho đất nước và cho cả bản thân mình, làm cho cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc. Thứ năm: phát triển kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác có hiệu quả nhất các tiềm năng hiện có và đang còn tiềm ẩn trong nước, có thể tranh thủ tốt nhất sự giúp đỡ từ bên ngoài nhằm phát triển kinh tế hướng vào mục tiêu tăng trưởng nhanh và hiện đại hóa. Chỉ có phát triển nhiều thành phần kinh tế chúng ta mới có khả năng huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, tiềm năng về con người, mới có thể áp dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Thứ sáu: phát triển kinh tế nhiều thành phần mới có khả năng giải quyết được vấn đề việc làm của chúng ta. Nước ta còn có lực lượng lao động dồi dào (hơn 40 triệu lao động) cần cù thông minh, song số người chưa có việc làm hay thiếu việc làm còn nhiều, vừa lãng phí sức lao động, vừa gây ra những khó khăn lớn về kinh tế xã hội ( thất nghiệp, tệ nạn…) Trong khi khả năng thu hút lao động của khu vực kinh tế nhà nước không nhiều thì việc khai thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác là một trong những giải pháp quan trọng để tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Từ những lý do phân tích như trên chúng ta có thể thấy việc Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là việc làm hết sức đúng đắn phù hợp với thực tế, mong muốn của người dân và lựa chọn đúng con đường phát triển giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. 3. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN: Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa…” Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của kinh tế tư nhân đã được Đảng khẳng định và trên thực tế khu vực kinh tế tư nhân cũng đã và đang thể hiện được vai trò của mình trong nền kinh tế, và ngày càng có những đóng góp quan trọng trong nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân đang thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. * Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung tăng ổn định trong những năm gần đây. Nhịp độ tăng trưởng năm 1997 là 12,89%; năm 1998 là 12,74%; năm 1999: 7,5%; năm 2000: 12,55% và chiếm tỷ trọng tương đối ổn định trong GDP, tuy năm 2000 có giảm chút ít so với năm 1996 (từ28,45% năm 1996 còn 26,87% năm 2000). Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhân trong tổng GDP giảm đi chút ít do sự tham gia và đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngòai. Bảng đóng góp GDP của khu vực kinh tế tư nhân: Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Tổng GDP toàn quốc Tỷ đ 272.036 313.623 361.017 399.943 444.140 chúng tôi vưc tư nhân – 77.481 87.475 98.625 106.029 119.337 % trong GDP toàn quốc % 28.48 27.89 27.32 26.51 26.87 2. hộ kinh doanh cá thể Tỷ đ 57.879 65.555 73.321 78.054 87.604 Tỷ trọng hộ trong GDP % 21.28 20.9 20.31 19.52 19.72 Tỷ trọng hộ trong khu Vực kinh tế tư nhân – 74.7 74.94 74.34 73.62 73.41 3. Doanh nghiệp tư nhân Tỷ đ 19.602 21.920 25.304 27.975 31.733 Tỷ trọng trong GDP % 7.21 6.99 7.01 6.99 7.14 Tỷ trọng trong khu vực Tư nhân % 25.3 25.06 25.66 26.38 26.59 Nguồn:Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng,giải pháp phát triển kinh tế tư nhân. Ban kinh tế trung ương ngày 26-11-2001 Trong 4 năm (2000-2003) tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân trong công nghiệp đạt mức 20% năm. Trong nông nghiệp kinh tế tư nhân đã có đóng góp đáng kể trong trồng trọt chăn nuôi và đặc biệt là trong các ngành chế biến và xuất khẩu. Nhờ sự phát triển của kinh tế tư nhân, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch quan trọng theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH khu vực nông nghiệp nông thôn. * Đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách: Theo số liệu thống kê của bộ thương mại, đến năm 2002 khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, kinh tế tư nhân là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, số lượng hàng hóa tham gia xuất khẩu ngày càng tăng, mở rộng thị trường xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân đến nay đã tăng khá, 9 tháng đầu năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đó các công ty cổ phần đạt 361.759.900 USD, công ty trách nhiệm hữu hạn đạt 1.606.489.900 USD, công ty tư nhân đạt 211.900.000 USD(số liệu của tổng cục hải quan) Các doanh nghiệp tư nhân đã tham gia tích cực vào xuất nhập khẩu trực tiếp, đến năm 2000 số doanh nghiệp tư nhân tham gia xuất khẩu trực tiếp tăng lên 16.200 doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về một số mặt hàng quan trọng( sản phẩm thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến…), đã có một số doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD / năm, ở một số địa phương kinh tế tư nhân là khu vực đóng góp chủ yếu về xuất khẩu ( Hà Giang: 60%,Bình Thuận 45%, Quảng Ngãi 34% ).Vì thế khu vực ngòai quốc doanhtrong nước từ chổ chỉ chiếm 11% giá trị xuất khẩu vào năm 1997 thì đến quý I-2002 dã tăng lên khoảng 31% ( Thời báo kinh tế Việt Nam số 66 ngày 3-6-2002 ). Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước và có xu hướng ngày càng tăng, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002.Nhiều địa phương mức đóng góp của doanh nghiệp dân doanh chiếm trên 20% nguồn thu ngân sách địa phương ( Bình Định 33% Tiền Giang 24%…). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. * Kinh tế tư nhân có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư xã hội phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Trong 10 năm gần đây vốn đầu tư cho khu vực tư nhân tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhân đạt 31.542 tỷ đồng chiếm 24.05% , năm 2000 đạt 55.894 tỷ đồng tăng 13.8% so với năm 1999,chiếm 24.31% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội,và trong gần 4 năm thực hện luật doanh nghiệp số vốn các doanh nghiệp đầu tư là hơn 145.000 tỷ đồng. Đặc biệt số vốn đăng kí giai đoạn 2000-2003 cao gấp 4 lần số vốn đăng kí 9 năm trước đó (1991-1999). Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế địa phương. Nhờ vốn huy động được từ thực hiện luạt doanh nghiệp cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội đã thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ vốn đầu tư trong nước, tăng tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực dân doanh trong tổng dầu tư toàn xã hội (Vốn đầu tư của dân cư và các doanh nghiệp từ chổ chiếm 20% năm 2000 tăng lên 23% năm 2001; 25.3% năm 2002 và trong năm 2003 khoảng gần 27% trong đầu tư ). * Khu vực kinh tế tư nhân tạo việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo: Ở nước ta hàng năm có khoảng 1.5 triệu người đến độ tuổi lao động, gồm có lực lượng thanh niên đến độ tuổi lao động, số học sinh tốt nghiệp phổ thông , trung học, đại học , cao đẳng và dạy nghề. Ngoài ra còn có những lao động bị thât nghiệp do sắp xếp lại sản xuất trong các nghành kinh tế quốc dân. Nếu chỉ thông qua các doanh nghiệp Nhà nước thì sẽ không bao giờ tạo đủ công ăn việc làm cho những người có nhu cầu lao động. Thực tế những năm qua cho thấy ở thời điểm cao nhất quốc doanh củng chỉ thu hút được khoảng 2 triệu lao động/năm. Trong khi dó tính đến thời điểm 31-12-2000 số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân là4.643.884 người chiếm 12% tổng số lao động xã hội, bằng 1.36 lần tổng số việc làm trong khu vực kinh tế Nhà nước. Lao động của hộ kinh doanh cá thể là 3.802.057 người,của các doanh nghiệp tư nhân là 841.787 người, trong 3 năm ( 2000-2002 ) các doanh nghiệp dân doanh và hộ kinh doanh cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1.5 triệu chổ làm việc mới . Tuy nhiên số lao động qua thực tế khảo sát ở hộ kinh doanh cá thể còn lớn hơn nhiều so với số đăng kí vì nhiều hộ gia đình hủ yếu sử dụng lao động trong dòng họ, lao động mang tính thời vụ và lao động nông nhàn không thể hiện trong các báo cáo thống kê. Khu vực kinh tế tư nhânvới mọi loại hình, mọi quy mô, mọi nghành nghề, áp dụng nhiều phương thức sản xuất đã và đang góp phần quan trọng trong việc tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Với việc ngày càng tạo ra nhiều việc làm và sử dụng linh hoạt mọi loại lao động, tạo được th nhập đáng kẻ cho người lao động nhất là những người lao động thời vụ hay thiếu việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Theo thực tế khảo sát thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân thường có mức thu nhập tương đương hoặc cao hơn thu nhập của người lao động trồng lúa ở nông thôn cùng địa bàn.Chính vì vậy khu vực kinh tế tư nhân đang có sức hút lao động lớn và đang làm chuyển dịch dần cơ cấu lao động của nước ta theo hướng giảm tỉ lệ lao động trong nông nghiệp và tăng tỉ lệ lao động trong công nghiệp và dịch vụ góp phần đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước. * Góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường địn hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của kinh tế tư nhân góp phần thu hút được ngày càng nhiều lao động ở nông thôn vào các nghành phi nông nghiệp nhất là công nghiệp, giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân càng càng tiến bộ hơn, các mặt hàng ngày càng phong phú đa dạng, số lượng hàng hóa tham gia xuất ngày càng tăng đòi hỏi việc hoàn thiện cơ chế quản lí về nhiều mặt như chất lượng, hàng giả, trốn thuế… * Kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển kinh tế tư nhân là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh giửa các thành phần kinh tế phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước. Thể chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hơn với cơ chế kinh tế mới.Các loại thị trường bắt đầu hình thành và phát triển như thị trường hàng hóa dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường chứng khoán… Khu vực kinh tế tư nhân còn là môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay sự giao lưu kinh tế văn hóa giữa các nước phát triển mạnh và kinh tế tư nhân là khu vực năng động, có hiệu quả cao cho nên nó là những đối tác quan trọng trong các liên doanh với nước ngoài. Tuy nhiên chúng ta cũng cần nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh tế tư nhân thì khi chúng ta gia nhâp WTO mới có chổ đứng trên thị trường thế giới. II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI GIAN QUA Ở VIỆT NAM 1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN. Sau cuộc cách mạng dân tộc thành công chúng ta muốn nhanh chóng tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa nên đã vội vàng thực hiện xóa bỏa mọi hình thức sở hửu tư nhân chính vì vậy yhành phần kinh tế tư nhân là đối tượng cải tạo của cách mạng xã hội. Tư liệu sản xuất của nhân dân được Nhà nước chưng mua hoặc quốc hữu hóa để biến thành tài sản của Nhà nước.Tuy nhiên cả trong hoàn cảnh như vậy thì kinh tế tư nhân vẫn có sự tồn tại, đặc biệt là trong nông nghiệp nơi có phong trào tập thể hóa rất cao nhưng vẫn tồn tại kinh tế tư nhân chứng minh sự tồn tại khách quan và sức sống mãnh liệt của thành phần kinh tế này. Từ sau đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 198) với sự thay đổi quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân thì khu vực kinh tế tư nhân đã có sự phát triển rất mạnh mẽ và đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Các chính sách như chính sách về thuế, đất đai, vốn… Đã khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển và làm thay đổi diện mạo của khu vực kinh tế tư nhân. Sự thay đổi đầu tiên phải nói đến là số lượng doanh nghiệp được thành lập nhiều và gia tăng với tốc độ cao. Về hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ:Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn và tăng nhanh. Tính đến cuối năm 2003 cả nước có 2.7triệu hộ kinh doanh cá thể công thương nghiệp, 130.000 trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hóa. Về doanh nghiệp của tư nhân: năm 1991cả nước chỉ có 414 doanh nghiệp đến năm 1992 là 5.189 doanh nghiệp, năm 1995 là 15.276 doanh nghiệp, năm 1999 là 28.700 doanh nghiệp. Như vậy trong giai đoạn 1991-1999 bình quân mỗi năm tăng thêm 5000 doanh nghiệp, trong đó các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có tốc độ tăng về số lượng rất cao. Kinh tế tư nhân có sự phát triển nhanh như vậy vì Nhà nước đã ban hành luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 mở đường cho sự bùng nổ về số lượng của thành phần kinh tế tư nhân. Luật doanh nghiệpcó hiệu lực từ 1-1-2000 là một khâu đột phá thúc đẩy sự phát triển vượt của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Tính đến tháng 9-2003 đã có gần 73.000 doanh nghiệp mới đăng kí đưa tổng số doanh nghiệp khu vực tư nhân ở nước ta lên 120.000, đây là một sự gia tăng nhanh của các doanh nghiệp tư nhân ở giai doạn này. Thực tế cho thấy nếu so với thời kì trước khi thực hiện luật doanh nghiệp thì trong 4năm qua số doanh nghiệp đăng kí kinh doanh bình quân hàng năm bằng 3.75 lần so với thời kì 1991-1999. Đặc biệt ở một số địa phương như Lai Châu, Hưng Yên, Thanh Hóa… số doanh nghiệp đăng kí kinh doanh tăng từ 4-8 lần. Điều đáng chú ý là số doanh nghiệp không hoạt động chiếm tỷ lệ thấp, theo thống kê của nhiều thành phố thì số doanh nghiệp đang thực sự hoạt động chiếm 80% – 85% trong tổng số doanh nghiệp đăng kí. BIỂU ĐỒ SỐ LƯỢNG CÁC DOANH NGHIỆP KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN GIAI ĐOẠN 19991-2003. Sự phát triển về quy mô vốn, lĩnh vực và địa bàn kinh doanh: Cho đến nay khu vực kinh tế tư nhân đã thu hút một lượng lớn vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh và hộ kinh doanh cá thể đang trở thành nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế ở nhiều địa phương. Tỷ trọng đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp dân doanh trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 28.8% năm 2002. Trong những năm qua mức vốn đăng kí trung bình trên một doanh nghiệp có xu hướng ngày một tăng lên. Theo báo cáo tổng kết 4 năm thi hành luật doanh nghiệp thời kì 1991-1999 vốn đăng kí bình quân trên một doanh nghiệp là gần 0.57 tỷ đồng, năm 2000 là 0.96 tỷ đồng, năm 2002 là 2.8 tỷ đồng, ba tháng đầu năm 2003 là 2.6 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ tiềm lực to lớn của khu vực kinh tế tư nhân, số doanh nghiệp có vốn đăng kí lớn ngày càng tăng cho thấy sự làm ăn hiệu quả và phát triển mạnh mẽ ở khu vực kinh tế tư nhân.Sự làm ăn hiệu quả của các doanh nghiệp tư nhân là do đã biết khai thác các thế mạnh của các nghành nghề trên khắp các địa bàn. Từ khi có chính sách đổi mới khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh, mở rộng các hoạt động kinh doanh trong hầu hết các nghành và lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Kinh tế tư nhân không còn chỉ hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, thương mại mà đã mở rọng hoạt động trong các nghành công nghiệp, dịch vụ cao cấp như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, chế biến, công nghệ thông tin, ngân hàng tài chính…Sự đa dạng hóa nghành nghề đầu tư đã thu hút được nhiều lao động và các doanh nghiệp cũng góp phần đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động. Số công nhân có tay nghề lao động cao ngày càng nhiều, nhân viên kĩ thuật phát triển nhanh. Việc nâng cao chất lượng nguồn lao động do yêu cầu của công nghệ ngày càng hiên đại đang được các doanh nghiệp đầu tư, và ngày càng mang lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp. Việc phát triển mạnh trong mọi nghành nghề mà pháp luật không cấm đã làm đa dạng các hình thức tổ chức doanh nghiệp. Nếu trước đây khu vực kinh tế tư nhân chỉ gồm các doanh nghệp tư nhân và hộ kinh tế cá thể thì hiện nay có thêm các hình thức khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần… Doanh nghiệp tư nhân là loại hình mới được phục hồi và phát triển rất nhanh sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân, còn công ty cổ phần mới ra đời chủ yếu sau khi ban hành luật công ty năm 1990. Theo số liệu điều tra của viện quản lý kinh tế trung ương năm 1994 cho thấy: 77.7% các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần là thành lập mới, còn 23.3% số công ty là do chuyển đổi hình thức tổ chức ( từ doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân). Hiện nay công ty trách nhiệm hữu hạn đang là hình thức được yêu thách nhất và phát triển rất mạnh trong cả nước. Khu vực kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển nhanh trong thời gian qua, đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng không phải là không có những mặt hạn chế yếu kém: Một là: Hầu hết các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân của nước ta ._.

Vai Trò Và Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam Hiện Nay

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRề CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN 3 1. Bản chất của kinh tế tư nhõn 3 2. Tớnh tất yếu tồn tại kinh tế tư nhõn ở Việt Nam 4 3. Vai trũ của kinh tế tư nhõn 8 II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN 13 1. Thực trạng phỏt triển 13 2. Nguyờn nhõn 18 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN 19 1. Những thuận lợi và khú khăn trong phỏt triển kinh tế tư nhõn 19 2. Một số giải phỏp phỏt triển kinh tế tư nhõn 22 2.a Cỏc vấn đề kinh tế vĩ mụ 22 2.b Cỏc vấn đề kinh tế vi mụ 27 IV. KẾT LUẬN 29 LỜI MỞ ĐẦU Trong xu thế toàn cầu húa hiện nay,đặc biệt là vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới đó và đang đặt ra những cơ hội cũng như những thỏch thức đối với nền kinh tế Việt Nam.Việt Nam đó và đang cú những bước tiến vững chắc trong việc phỏt triển nền kinh tế thị trường địng hướng xó hội chủ nghĩa,hội nhập cựng thế giới bằng việc phỏt huy nội lực đồng thời tranh thủ cỏc nguồn lực bờn ngoài thụng qua việc phỏt huy sức mạnh của cỏc thành phần kinh tế.Trong đú phải kể đến sự đúng gúp quan trọng của thành phần kinh tế tư nhõn trong việc phỏt triển nền kinh tế. Hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương khúa IX khẳng định: “kinh tế tư nhõn là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dõn.Phỏt triển kinh tế tư nhõn là vấn đề chiến lược lõu dài trong phỏt triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xó hội chủ nghĩa”. Vậy trong việc phỏt triển kinh tế Việt Nam thành phần kinh tế tư nhõn đó cú vai trũ như thế nào? Hay tại sao Việt Nam lại phải phỏt triển kinh tế tư nhõn trong khi chỳng ta muụn hướng tới một xó hội xó hội chủ nghĩa nơi sở hữu tư liệu sản xuất là của tập thể.Việc xỏc định đỳng vai trũ của kinh tế tư nhõn và con đường đỳng đắn cho sự phỏt triển của thành phần kinh tế này là việc làm cấp thiết hiện nay, bởi vỡ hiện nay toàn cầu húa là một xu thế phỏt triển tất yếu trong tiến trỡnh phỏt triển của nhõn loại, chỳng ta khụng muốn bị cuốn vào vũng xoỏy dú một cỏch thụ động thỡ chỳng ta phải biết phỏt huy sức mạnh của cỏc thành phần kinh tế trong đú cú thành phần kinh tế tư nhõn, nú là một mắt xớch quan trọng trong việc nối kết nền kinh tế thị trường Việt Nam với nền kinh tế thị trường thế giới. Vỡ vậy em xin làm rừ về vai trũ của kinh tế tư nhõn ở Việt Nam và thực trạng phỏt triển của thành phần kinh tế này trong thời gian qua cũng như xin đưa ra một số ý kiến về giải phỏp phỏt triển thành phần kinh tế này. vai trò và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở việt nam hiện nay I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRề CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN 1. BẢN CHẤT CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN: Việt Nam đang trong giai đoạn quỏ độ lờn chủ mghĩa xó hội, việc đổi mới đường lối phỏt triển kinh tế xó hội trong thời gian qua đó đem lại cho chỳng ta những bước tiến vượt bậc. Chỳng ta chấp nhận mở cửa hội nhập với thế giới, xõy dựng đường lối phỏt triển kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, phỏt huy nội lực đồng thời tranh thủ cỏc nguồn lực bờn ngoài để xõy dựng và phỏt triển kinh tế đất nước. Việc xõy dựng đường lối phỏt triển kinh tế như vậy là sự phự hợp với thực tế khỏch quan hiện nay ( phự hợp với điều kiện thực tế của kinh tế Việt Nam hiện nay và quỏ trỡnh toàn cầu húa đang diễn ra như một điều tất yếu trong quỏ trỡnh phỏt triển của lịch sử) vỡ vậy đó mang lại cho chỳng ta những thành tựu đỏng kể. Trong kết quả chỳng ta cú hụm nay phải kể đến sự đúng gúp ngày càng quan trọng vào sự phỏt triển kinh tế xó hội Việt Nam của khu vực kinh tế tư nhõn nhất là sau khi cú sự đổi mới đường lối phỏt triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Kinh tế tư nhõn là một loại hỡnh Kinh tế dựa trờn sở hữu tư nhõn về tư liệu sản xuất, gắn liền với lao động cỏ nhõn người chủ sở hữu và lao động làm thuờ. Kinh tế tư nhõn ra đời, tồn tại và phỏt triển trong những điều kiện kinh tế xó hội nhất định, do trỡnh độ phỏt triển của lực lượng sản xuất quyết định. Như vậy bản chất của lọai hỡnh kinh tế này đú là dựa trờn sở hữu tư nhõn về tư liệu sản xuất. Người sở hữu tư liệu sản xuất là người chủ và họ luụn cú xu hướng tối đa húa lợi ớch mà mỡnh thu được vỡ vậy họ phải búc lột sức lao động của cụng nhõn làm thuờ. Mỗi phương thức sản xuất cú một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ỏnh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đú. Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thỡ chế tạo ra giỏ trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của nú. Thật vậy giỏ trị thặng dư, phần giỏ trị mới dụi ra ngoài giỏ trị sức lao động của cụng nhõn làm thuờ tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt phản ỏnh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ búc lột lao động làm thuờ. Mục đớch của sản xuất tư bản chủ nghĩa khụng phải là giỏ trị sử dụng mà là sản xuất ra giỏ trị thặng dư, là nhõn giỏ trị lờn. Theo đuổi giỏ trị thặng dư tối đa là mục đớch và động cơ thỳc đẩy sự hoạt động mỗi nhà tư bản, cũng như toàn bộ xó hội tư bản. Cỏc nhà tư bản luụn được bộ mỏy chớnh quyền tư bản bảo vệ lợi ớch nờn họ đó tỡm đủ mọi cỏch để búc lột giỏ trị thặng dư như tăng cường độ lao động, kộo dài thời gian lao động, tăng năng suất lao động… Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy cú những điều chỉnh nhất định về hỡnh thức sỏ hữu,quản lớ, phõn phối để thớch nghi với điều kiện mới nhưng về bản chất thỡ khụng thay đổi. Nhà nước tư bản hiện nay tuy cú tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế xó hội nhưng về cơ bản nú vẫn là bộ mỏy thống trị của giai cấp tư sản. Xột trong điều kiện quỏ độ lờn chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam hiện nay thỡ kinh tế tư nhõn chịu sự kiểm soỏt quản lý của nhà nước xó hội chủ nghĩa nờn khụng cũn hoàn toàn giống như kinh tế tư nhõn trong xó hội tư bản chủ nghĩa. Khỏi niệm kinh tế tư bản tư nhõn chỉ xuất hiện gắn liền với sự hỡnh thành và phỏt triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quỏ trỡnh đổi mới ở nước ta với sự xuất hiện và phỏt triển cỏc loại hỡnh doanh nghiệp của tư nhõn khụng đồng nghĩa với sự xuất hiện trở lại của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản. Cỏc loại hỡnh doanh nghiệp tư nhõn hoạt động theo luật doanh nghiệp ở nước ta, được hỡnh thành và phỏt triển trong điều kiện cú sự lónh đạo của Đảng cộng sản, chịu sự quản lý của Nhà nước xó hội chủ nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, được nhà nứơc khuyến khớch và bảo vệ khụng hoàn toàn do quy luật giỏ trị thặng dư chi phối. Hơn nữa cỏc loại hỡnh doanh nghiệp của tư nhõn và đội ngũ doanh nhõn ở nước ta được hỡnh thành và phỏt triển trong điều kiện mới, khụng hàm chứa tớnh chất giai cấp hay bản chất tư bản như dưới xó hội tư bản điều này được chứng minh là đó cú rất nhiều doanh nhõn là đảng viờn. Cỏc doanh nghiệp của tư nhõn nước ta đại diện cho một lực lựơng sản xuất mới, là một trong những động lực thỳc đẩy tăng trưởng kinh tế, phỏt triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhõn bao gồm kinh tế cỏ thể, tiểu chủ, tư bản tư nhõn… 2.TÍNH TẤT YẾU TỒN TẠI KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: * Quan điểm về kinh tế tư nhõn của Đảng trước khi đổi mới (1986) Kinh tế tư nhõn là đối tượng chớnh phải cải tạo, xúa bỏ. Vỡ kinh tế tư nhõn luụn đồng nghĩa với làm ăn cỏ thể búc lột, tự phỏt lờn con đường chủ nghĩa tư bản, vỡ thế kinh tế tư nhõn khụng thể là một chủ thể kinh tế để xõy dựng chr nghĩa xó hội. Sau cỏch mạng dõn tộc dõn chủ ở nước ta thỡ Đảng và Nhà nước đứng trước hai hỡnh thức sở hữu tư nhõn về tư liệu sản xuất là sở hữu tư nhõn của những người sản xuất nhỏ(cỏ thể, thợ thủ cụng, tiểu thương…) và sở hữu tư nhõn của giai cấp tư sản dõn tộc Việt Nam. Đối với sở hữu tư nhõn của những ngừơi sản xuất nhỏ thỡ Nhà nước cải tạo bằng con đường vận động thuyết phục để đưa họ vào làm ăn tập thể. Cũn đối với sở hữu tư nhõn của giai cấp tư sản dõn tộc thỡ Nhà nước phõn làm hai đối tựơng, một đối tượng đú là cỏc nhà tư sản dõn tộc nhưng cú cụng với cỏch mạng và khỏng chiến thỡ Nhà nước cải tạo hũa bỡnh bằng cỏch chuộc lại hay chưng mua rồi sau đú chuyển thành sở hữu Nhà nước (sau đú vận động họ kết hợp với nhà nước để kinh doanh hỡnh thành cỏc xớ nghiệp cụng tư hợp doanh) Đối với nhà tư sản làm tay sai cho đế quốc phong kiến thỡ Nhà nước cải tạo bằng cỏch quốc hữu húa hay tịch thu toàn bộ tài sản biến thành sở hữu Nhà nước. Tuy nhiờn trong giai đoạn này ngay cả ở trong nghiệp là nơi diễn ra quỏ trỡnh xúa bỏ tư nhõn mạnh nhất nhưng sở hữu tư nhõn vẩn cũn tồn tại,trong thời gian này những ngừơi khụng vào tập thể hợp tỏc xó, làm ăn cỏ thể, tiểu thương… thường khụng được coi trọng, bị phõn biệt trong nhiều việc. * Từ sau đại hội VI kinh tế tư nhõn được thừa nhận tồn tại khỏch quan lõu dài cú lợi cho quốc kế dõn sinh trong thời kỳ quỏ độ lờn chủ nghĩa xó hội. Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khúa IX khẳng định: ” Kinh tế tư nhõn là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dõn. Phỏt triển kinh tế tư nhõn là vấn đề chiến lược lõu dài trong phỏt triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xó hội chủ nghĩa”. Tuy nhiờn trong thời kỳ hiện nay về mặt tõm lý vẫn cũn nhiều người nghi ngờ về tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhõn, họ vẫn giữ quan niệm cũ trước đổi mới cho rằng khụng nờn phỏt triển kinh tế tư nhõn, kinh tế tư nhõn đi liền với sự búc lột của tư bản, kinh tế tư nhõn là một rào cản trong con đường đi lờn chủ nghĩa xó hội của chỳng ta. Điều này đó tạo nờn tõm lý lo ngại cho một bộ phận khụng nhỏ trong xó hội và tạo thành một rào cản về mặt tõm lý trong việc xõy dựng phỏt triển kinh tế tư nhõn theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. Việc Đảng và Nhà nước ta chủ trương xõy dựng phỏt triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xó hội chủ nghĩa là một việc làm đỳng đắn, thể hiện tầm nhỡn sõu, rộng, xuyờn suốt của Đảng. Việc xõy dựng đường lối chủ trương của Đảng đó gắn với thực tế, xuất phỏt từ thực tế phự hợp với điều kiện và tỡnh hỡnh phỏt triển của Việt Nam. Xuất phỏt từ thực tế thỡ nhà nước ta đó khuyến khớch phỏt triển kinh tế tư nhõn trong gần 20 trở lại đõy vỡ sự tồn tại phỏt triển của kinh tế tư nhõn hay phỏt triển nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quỏ độ đi lờn chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam hiện nay là một sự tất yếu khỏch quan xuất phỏt từ những lý do sau: Thứ nhất: phự hợp với thực trạng của lực lượng sản xuất phỏt triển chưa đồng đều ở Việt Nam. Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quỏ độ lờn chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam là điểm xuất phỏt rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều đú cú nghĩa là trỡnh độ của lực lượng sản xuất ở nước ta cũn rất thấp kộm và do đú sở hữu tư nhõn về tư liệu sản xuất vẫn cũn phự hợp với trỡnh độ của lực lượng sản xuất, là nhõn tố thỳc đẩy sự phỏt triển của lực lượng sản xuất. Bởi vậy trong giai đoạn đầu của thời kỳ quỏ độ lờn chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam, sở hữu tư nhõn về tư liệu sản xuất chẳng những khụng cần phải xúa bỏ mà cũn cần được tạo mọi điều kiện để phỏt triển. Trỡnh độ lực lượng sản xuất của chỳng ta khụng những cũn rất thấp kộm mà cũn phỏt triển khụng đồng đều cú nhiều trỡnh độ khỏc nhau do đú trong nền kinh tế tồn tại nhiều loại hỡnh sở hữu khỏc nhau về tư liệu sản xuất dẫn đến tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Trong lịch sử mỗi phương thức sản xuất cú một loại hỡnh sở hữu tư liệu sản xuất đặc trưng nhưng điều đú khụng cú nghĩa là mỗi phương thức sản xuất chỉ cú một hỡnh thức sở hữu tư liệu sản xuất mà cú thể cú nhiều loại hỡnh sở hữu tư liệu sản xuất khỏc nhau cựng tồn tại. Sự xuất hiện của cỏc hỡnh thức sở hữu tư liệu sản xuất do tớnh chất và trỡnh độ phỏt triển của cỏc lực lượng sản xuất quy định, lực lượng sản xuất khụng ngừng vận động biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng khụng ngừng vận động biến đổi, tương ứng với mỗi trỡnh độ phỏt triển của lực lượng sản xuất sẽ cú một kiểu quan hệ sản xuất. Do vậy sự chủ quan núng vội duy ý chớ trong việc xúa bỏ sở hữu tư nhõn, xỏc lập sở hữu cụng cộng về tư liệu sản xuất đều trỏi với yờu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phự hợp với tớnh chất trỡnh độ phỏt triển của lực lượng sản xuất và phải trả giỏ. Điều này đó được thực tế ở Việt Nam trong những năm sau khi giành độc lập đến 1986 chứng minh. việc xúa bỏ vội vàng sở hũu tư nhõn, phỏt triển kinh tế kế hoạch húa tập trung đó làm cho kinh tế Việt Nam trỡ trệ, lõm vào khủng hoảng, lạm phỏt tăng cao…Vỡ vậy từ một nền sản xuất nhỏ với nhiều loại hỡnh sở hữu khụng thể tiến thẳng lờn chủ nghĩa xó hội thụng qua việc xúa bỏ chế độ tư hưu ngay. Thứ hai: trong quỏ trỡnh phỏt triển do điều kiện lịch sử đó để lại nhiều thành phần kinh tế như thành phần kinh tế tư nhõn, thành phần kinh tế cỏ thể tiểu chủ, thành phần kinh tế tự nhiờn của đồng bào dõn tộc ở dẻo cao phớa bắc và tõy nguyờn… mà chỳng ta khụng thể cải biến nhanh được. Hơn nữa sau nhiều năm cải tạo và xõy dựng quan hệ sản xuất mới mới đó xuất hiện thờm một số thành phần kinh tế mới: thàh phần kinh tế Nhà nước,thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản nhà nước… cỏc thành phần kinh tế này tồn tại khỏch quan và cú quan hệ với nhau. Thứ ba: phỏt triển kinh tế nhiều thành phần là phự hợp với xu thế phỏt triển kinh tế khỏch quan của thời đại ngày nay, thời đại cỏc nước hướng về phỏt triển kinh tế thị trường cú sự quản lý vĩ mụ của Nhà nước. Quỏ trỡnh toàn cầu húa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trờn toàn thế giới, đõy là quỏ trỡnh phỏt triển tất yếu của lịch sử nhõn loại, nú tỏc động đến tất cả cỏc quốc gia trờn thế giới. Việc phỏt triển kinh tế thị trường sẽ giỳp Việt Nam cú những cơ hội to lớn để thỳc đẩy phỏt triển kinh tế trong quỏ trỡnh hội nhập với thế giới. Chỳng ta đang đàm phỏn để được gia nhập tổ chức WTO vỡ vậy nếu chỳng ta khụng phỏt triển thị trường thỡ chỳng ta sẽ khụng thể cạnh tranh được với cỏc nước trờn thế giới, dẫn tới việc lạc hậu, bị cuốn theo vũng xoỏy của toàn cầu húa. Thứ tư: phỏt triển kinh tế nhiều thành phần phự hợp với lũng mong muốn thiết tha của người dõn Việt Nam là được đem hết tài năng, sức lực để lao động làm giàu cho đất nước và cho cả bản thõn mỡnh, làm cho cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phỳc. Thứ năm: phỏt triển kinh tế nhiều thành phần cho phộp khai thỏc cú hiệu quả nhất cỏc tiềm năng hiện cú và đang cũn tiềm ẩn trong nước, cú thể tranh thủ tốt nhất sự giỳp đỡ từ bờn ngoài nhằm phỏt triển kinh tế hướng vào mục tiờu tăng trưởng nhanh và hiện đại húa. Chỉ cú phỏt triển nhiều thành phần kinh tế chỳng ta mới cú khả năng huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, tiềm năng về con người, mới cú thể ỏp dụng nhanh chúng cỏc thành tựu khoa học kỹ thuật để phỏt triển kinh tế và xõy dựng đất nước. Thứ sỏu: phỏt triển kinh tế nhiều thành phần mới cú khả năng giải quyết được vấn đề việc làm của chỳng ta. Nước ta cũn cú lực lượng lao động dồi dào (hơn 40 triệu lao động) cần cự thụng minh, song số người chưa cú việc làm hay thiếu việc làm cũn nhiều, vừa lóng phớ sức lao động, vừa gõy ra những khú khăn lớn về kinh tế xó hội ( thất nghiệp, tệ nạn…) Trong khi khả năng thu hỳt lao động của khu vực kinh tế nhà nước khụng nhiều thỡ việc khai thỏc, tận dụng tiềm năng của cỏc thành phần kinh tế khỏc là một trong những giải phỏp quan trọng để tạo thờm nhiều cụng ăn việc làm cho người lao động. Từ những lý do phõn tớch như trờn chỳng ta cú thể thấy việc Đảng và Nhà nước chủ trương phỏt triển kinh tế nhiều thành phần cú sự quản lý của Nhà nước là việc làm hết sức đỳng đắn phự hợp với thực tế, mong muốn của người dõn và lựa chọn đỳng con đường phỏt triển giữ vững định hướng xó hội chủ nghĩa. 3. VAI TRề CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN: Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khúa IX đó khẳng định: “Kinh tế tư nhõn là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dõn. Phỏt triển kinh tế tư nhõn là vấn đề chiến lược lõu dài trong phỏt triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xó hội chủ nghĩa…” Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của kinh tế tư nhõn đó được Đảng khẳng định và trờn thực tế khu vực kinh tế tư nhõn cũng đó và đang thể hiện được vai trũ của mỡnh trong nền kinh tế, và ngày càng cú những đúng gúp quan trọng trong nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhõn đang thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phỏt triển kinh tế xó hội ở nước ta. * Khu vực kinh tế tư nhõn đúng gúp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước GDP và thỳc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhõn nhỡn chung tăng ổn định trong những năm gần đõy. Nhịp độ tăng trưởng năm 1997 là 12,89%; năm 1998 là 12,74%; năm 1999: 7,5%; năm 2000: 12,55% và chiếm tỷ trọng tương đối ổn định trong GDP, tuy năm 2000 cú giảm chỳt ớt so với năm 1996 (từ28,45% năm 1996 cũn 26,87% năm 2000). Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhõn trong tổng GDP giảm đi chỳt ớt do sự tham gia và đúng gúp của khu vực cú vốn đầu tư nước ngũai. Bảng đúng gúp GDP của khu vực kinh tế tư nhõn: Chỉ tiờu Đơn vị Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Tổng GDP toàn quốc Tỷ đ 272.036 313.623 361.017 399.943 444.140 chúng tôi vưc tư nhõn – 77.481 87.475 98.625 106.029 119.337 % trong GDP toàn quốc % 28.48 27.89 27.32 26.51 26.87 2. hộ kinh doanh cỏ thể Tỷ đ 57.879 65.555 73.321 78.054 87.604 Tỷ trọng hộ trong GDP % 21.28 20.9 20.31 19.52 19.72 Tỷ trọng hộ trong khu Vực kinh tế tư nhõn – 74.7 74.94 74.34 73.62 73.41 3. Doanh nghiệp tư nhõn Tỷ đ 19.602 21.920 25.304 27.975 31.733 Tỷ trọng trong GDP % 7.21 6.99 7.01 6.99 7.14 Tỷ trọng trong khu vực Tư nhõn % 25.3 25.06 25.66 26.38 26.59 Nguồn:Bỏo cỏo tổng hợp tỡnh hỡnh và phương hướng,giải phỏp phỏt triển kinh tế tư nhõn. Ban kinh tế trung ương ngày 26-11-2001 Trong 4 năm (2000-2003) tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhõn trong cụng nghiệp đạt mức 20% năm. Trong nụng nghiệp kinh tế tư nhõn đó cú đúng gúp đỏng kể trong trồng trọt chăn nuụi và đặc biệt là trong cỏc ngành chế biến và xuất khẩu. Nhờ sự phỏt triển của kinh tế tư nhõn, cơ cấu kinh tế nụng nghiệp đó cú sự chuyển dịch quan trọng theo hướng sản xuất hàng húa, đẩy nhanh quỏ trỡnh CNH-HĐH khu vực nụng nghiệp nụng thụn. * Đúng gúp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngõn sỏch: Theo số liệu thống kờ của bộ thương mại, đến năm 2002 khu vực kinh tế tư nhõn trong nước đúng gúp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, kinh tế tư nhõn là nguồn lực chủ yếu phỏt triển cỏc mặt hàng mới, số lượng hàng húa tham gia xuất khẩu ngày càng tăng, mở rộng thị trường xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhõn đến nay đó tăng khỏ, 9 thỏng đầu năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đú cỏc cụng ty cổ phần đạt 361.759.900 USD, cụng ty trỏch nhiệm hữu hạn đạt 1.606.489.900 USD, cụng ty tư nhõn đạt 211.900.000 USD(số liệu của tổng cục hải quan) Cỏc doanh nghiệp tư nhõn đó tham gia tớch cực vào xuất nhập khẩu trực tiếp, đến năm 2000 số doanh nghiệp tư nhõn tham gia xuất khẩu trực tiếp tăng lờn 16.200 doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp đó vươn lờn chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về một số mặt hàng quan trọng( sản phẩm thủ cụng mỹ nghệ, thực phẩm chế biến…), đó cú một số doanh nghiệp cú kim ngạch xuất khẩu trờn 100 triệu USD / năm, ở một số địa phương kinh tế tư nhõn là khu vực đúng gúp chủ yếu về xuất khẩu ( Hà Giang: 60%,Bỡnh Thuận 45%, Quảng Ngói 34% ).Vỡ thế khu vực ngũai quốc doanhtrong nước từ chổ chỉ chiếm 11% giỏ trị xuất khẩu vào năm 1997 thỡ đến quý I-2002 dó tăng lờn khoảng 31% ( Thời bỏo kinh tế Việt Nam số 66 ngày 3-6-2002 ). Đúng gúp của khu vực kinh tế tư nhõn đó trở thành nguồn thu quan trọng cho ngõn sỏch Nhà nước và cú xu hướng ngày càng tăng, từ khoảng 6,4% năm 2001 lờn hơn 7% năm 2002.Nhiều địa phương mức đúng gúp của doanh nghiệp dõn doanh chiếm trờn 20% nguồn thu ngõn sỏch địa phương ( Bỡnh Định 33% Tiền Giang 24%…). Thu từ thuế cụng thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. * Kinh tế tư nhõn cú đúng gúp rất lớn trong việc thu hỳt cỏc nguồn vốn đầu tư xó hội phục vụ cho nhu cầu phỏt triển kinh tế xó hội. Trong 10 năm gần đõy vốn đầu tư cho khu vực tư nhõn tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xó hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhõn đạt 31.542 tỷ đồng chiếm 24.05% , năm 2000 đạt 55.894 tỷ đồng tăng 13.8% so với năm 1999,chiếm 24.31% tổng số vốn đầu tư toàn xó hội,và trong gần 4 năm thực hện luật doanh nghiệp số vốn cỏc doanh nghiệp đầu tư là hơn 145.000 tỷ đồng. Đặc biệt số vốn đăng kớ