Top 7 # Giải Pháp Của Đô Thị Hóa Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Hậu Quả Và Giải Pháp Của Vấn Đề Đô Thị Hóa?Nêu Nguyên Nhân, Hậu Quả Và Giải Pháp Của Vấn Đề Đô Thị Hóa

Để những vấn đề của đô thị hóa ở nước ta đi đúng hướng thì một trong những nhiệm vụ cơ bản ban đầu là hoạch định cho được từng bước đi cụ thể của cả quá trình đô thị hoá. Trước tiên khi đặt vấn đề suy nghĩ về đô thị hoá tại ViệtNam: Đô thị hoá – bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp lưu truyền qua hàng ngàn năm nay sẽ ra sao? Đô thị hoá – nông dân và người nghèo được gì tại những lãnh thổ chịu tác động của quá trình đó? Văn hoá và truyền thống dân tộc sẽ thích nghi như thế nào dưới tác động mãnh liệt và quá ồ ạt của quá trình đô thị hóa?

Ngoài ra, đô thị hoá ở nước ta đã và đang dẫn đến mất cân đối trong sự hài hoà cần thiết giữa môi trường nhân tạo và môi trường tự nhiên. Đồng thời, cũng làm mất đi sự cân đối và sự hài hoà cần thiết giữa các vùng dân cư, các vùng kinh tế. Vậy thì, đô thị hóa nhất thiết phải được tiến hành đồng bộ cả vùng bị đô thị hoá và các lãnh thổ chịu tác động của quá trình đó.

Mặt khác, đô thị hoá đang tạo điều kiện phát triển rất nhanh cho các ngành phi sản xuất, nhưng lại cản trở sự phát triển của các ngành sản xuất vật chất cho xã hội. Điều này, rất dễ nhận thấy ở các ngành nông, lâm, ngư nghiệp… tại các vùng nông thôn bị đô thị hóa, từ đó dẫn đến phân chia giàu nghèo một cách rõ rệt. Sự phân tầng xã hội về mặt kinh tế tất yếu sẽ sinh ra phân tầng xã hội về giáo dục, về văn hoá, về hệ tư tưởng, từ đó dẫn tới mâu thuẫn trong đời sống chính trị. Đó là tiền đề cho những bất an trong đời sống xã hội.

Trong quy hoạch, nhất thiết phải giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá đặc sắc của mỗi vùng miền, mỗi địa phương (vật thể cũng như phi vật thể), trong đó đặc biệt chú ý đến các di tích lịch sử, các làng cổ, các giá trị văn hoá phi vật thể để có thể trở thành những điểm du lịch hấp dẫn, cũng là khoảng đệm tạo sự thông thoáng cho đô thị.Đô thị hoá ở Việt Nam phải được đặt trong bối cảnh chung của cả thế giới. Ở đây, điều quan trọng là tiếp thu khoa học, kỹ thuật và công nghệ trong phát triển và quản lý đô thị như thế nào. Sự liên kết và học hỏi những kinh nghiệm tốt về đô thị hóa với thế giới là rất cần thiết. Tuy mỗi nước có hoàn cảnh và đặc thù riêng, nhưng chúng ta phải học hỏi và phải “đứng được bằng bản năng và bản sắc riêng của chính mình”.

Đô Thị Thông Minh: Giải Pháp Hiệu Quả Cho Quá Trình Đô Thị Hóa Tại Việt Nam

Việt Nam đang trong tiến trình phát triển thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Kinh tế – xã hội nước ta 6 tháng đầu năm 2017 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới chuyển biến tích cực với đà tăng trưởng khả quan từ kinh tế Mỹ và các nước phát triển. Theo đó, Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2017 ước tính tăng 5,73% so với cùng kỳ năm trước, trong đó quý I tăng 5,15%; quý II đã khởi sắc hơn quý I với tốc độ tăng 6,17% , trong đó nguồn thu từ các hoạt động kinh tế đô thị, đặc biệt các thành phố lớn, các đô thị gắn với phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch chiếm tỷ lệ khá cao trong cơ cấu GDP cả nước, khẳng định vai trò của hệ thống đô thị động lực chủ đạo của Việt Nam.

Đô thị hóa mạnh mẽ tại các đô thị lớn đang tạo hiệu ứng thúc đẩy đô thị hóa nhanh lan toả diện rộng trên phạm vi các tỉnh, các vùng và cả nước. Nhiều đô thị mới, khu đô thị mới được hình thành phát triển; nhiều đô thị cũ được cải tạo, nâng cấp hạ tầng cơ sở: đường xá, điện nước, cơ sở giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường…Các đô thị Việt Nam đang nỗ lực phát triển, nâng tầm cao với kiến trúc hiện đại.

Các đô thị lớn như ở Hà Nội, chúng tôi Đà Nẵng, Hải Phòng đã có nền tảng phát triển kinh tế vững chắc, số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp và dịch vụ thương mại cũng tăng mạnh hơn. Tại đây, các động lực phát triển mới đang chuyển dịch mạnh mẽ sang các lĩnh vực giáo dục, dịch vụ tài chính – ngân hàng, bất động sản, viễn thông và truyền thông… Các nơi có điều kiện tự nhiên đặc biệt như Hạ Long, Nha Trang, Đà Lạt, Sa Pa, Phú Quốc… hay các đô thị có di sản văn hóa – lịch sử tầm cỡ quốc gia và quốc tế như Huế, Hội An, Hạ Long, Côn Đảo,…thì du lịch đã trở thành động lực phát triển chính. Hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật các đô thị loại II trở lên đã được tăng cường, đô thị loại IV trở lên đã được nâng cấp, cải thiện điều kiện hạ tầng cơ sở (điện đường, trường trạm, môi trường nước, rác…) nhờ các khoản đầu tư trong và ngoài nước.

Đánh giá chung phát triển đô thị hóa Việt Nam trong giai đoạn vừa qua có nhiều chuyển biến về số lượng, với tốc độ đô thị hóa nhanh nhất Đông Nam Á (khoảng 3,4%/năm). Tính đến tháng 12/2015, cả nước có 787 đô thị, trong đó có 02 đô thị đặc biệt, 15 đô thị loại I, 25 đô thị loại II, 42 đô thị loại III, 75 đô thị loại IV và 628 đô thị loại V . Các chỉ tiêu về tỷ lệ đô thị hóa, hạ tầng kỹ thuật đô thị đều có chuyển biến tích cực. Hiện nay, dân số đô thị của Việt Nam đạt khoảng 35,7% và ước tính đến năm 2020 có khoảng 40% dân số Việt Nam sống trong các khu vực đô thị. Kết quả là không gian các đô thị được mở rộng một cách mạnh mẽ trên khắp cả nước.

Mặc dù hệ thống đô thị Việt Nam đang phát triển nhanh về số lượng nhưng chất lượng đô thị còn đạt thấp. Đặc biệt, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chưa đồng bộ; trình độ và năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu; Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng ở phần lớn đô thị Việt Nam đều chậm so với phát triển kinh tế xã hội.

Phát triển đô thị và đô thị hóa trên phạm vi toàn quốc hiện chưa thể hiện rõ bản sắc địa phương và đặc điểm khí hậu vùng, miền, tạo sự cách biệt giữa đô thị và nông thôn. Bộ mặt kiến trúc cảnh quan đô thị còn lộn xộn, thiếu thẩm mỹ. Tài nguyên đất bị khai thác triệt để để xây dựng đô thị, diện tích cây xanh và mặt nước bị thu hẹp, nhu cầu sản xuất, dịch vụ ngày càng tăng làm suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước.

Hệ thống hạ tầng đô thị bị quá tải gây nên các hiện tượng tắc nghẽn giao thông, úng ngập và vệ sinh môi trường đô thị hóa lan rộng làm các khu vực này lại nằm lọt vào giữa khu dân cư đông đúc. Việc mở rộng đô thị dẫn đến chiếm dụng đất nông nghiệp ảnh hưởng đến an toàn lương thực quốc gia. Năng lực thu gom xử lý rác thải rắn đặc biệt là các chất thải rắn nguy hại chưa được thực hiện đúng quy định. Đặc điểm thói quen sử dụng giao thông cá nhân gây lãng phí nghiêm trọng nguồn thiên nhiên, ô nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn.

Về kinh tế, tài chính đô thị còn hoạt động kém hiệu quả, công tác điều phối vốn đầu tư xây dựng còn bị dàn trải, việc huy động vốn từ các nguồn vốn vay, khối kinh tế tư nhân và từ cộng đồng chưa tạo động lực kích hoạt quá trình phát triển. Phát triển các khu kinh tế, đặc khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung cấp quốc gia, cấp tỉnh còn dàn trải, chưa có sự lựa chọn thích hợp cho thành công.

Tỷ lệ dân đô thị được cấp nước sạch còn thấp. Xử lý nước thải chưa được chú trọng tại hầu hết các đô thị, thiếu sự đồng bộ trong xây dựng và khai thác hệ thống hạ tầng kỹ thuật dọc các tuyến đường tại các đô thị. Hệ thống cây xanh, mặt nước (sông, hồ) trong nhiều đô thị bị suy giảm.

Đô thị thông minh – giải pháp cho các vấn đề trên

Theo nghĩa chung nhất, đô thị thông minh được định nghĩa là đô thị sử dụng các công nghệ thông tin và truyền thông, nhờ đó các cơ sở hạ tầng quan trọng nhất, cũng như các thành tố và dịch vụ công được sử dụng và cung cấp có hiệu quả và có tính tương tác cao hơn với người dân.

Theo nghĩa rộng hơn, một đô thị được coi là “thông minh” khi những khoản mục đầu tư vào nguồn nhân lực và vốn xã hội, cũng như là cơ sở hạ tầng truyền thông, sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững, đem lại cuộc sống chất lượng tốt hơn cho cư dân, cùng với việc kiểm soát các nguồn tài nguyên một cách hợp lý hơn thông qua chính phủ có sự tham gia của người dân.

Khi đó, đô thị thông minh sẽ cho phép phát triển tối đa các khía cạnh về kinh tế, xã hội, môi trường và phúc lợi đối với toàn bộ đối tượng tham gia vào đô thị như cư dân, các công ty thuộc khu vực tư nhân và khu vực hành chính công, cũng như thúc đẩy sự phát triển này theo hướng bền vững hơn. Bên cạnh đó, đô thị thông minh cũng sẽ tạo ra nhiều mô hình kinh doanh mới hơn, từ đó tạo ra nền tảng vững chắc và môi trường khuyến khích thúc đẩy sự sáng tạo của cư dân và các doanh nghiệp.

Nhìn một cách tổng thể, đô thị thông minh là một không gian đô thị với các cơ sở hạ tầng, mạng lưới thông minh chứa hàng triệu các bộ cảm biến và bộ dẫn động tương tác với con người thông qua hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông. Không gian như vậy kết hợp với việc sử dụng các công nghệ phân tích tiên tiến tại thời điểm thực sẽ cho phép các thành phần đang hoạt động trong đô thị (cư dân, doanh nghiệp, chính quyền) nhận thức và hiểu biết về các sự kiện đang diễn ra tại mọi thời điểm, từ đó đưa ra các quyết định cũng như các thông tin và dịch vụ phù hợp nhất cho cư dân của đô thị, hoặc từ đó nâng cấp và cải tiến các dịch vụ được cung cấp.

Đô thị thông minh chứa đầy đủ các thành tố của một đô thị thông thường, nhưng các thành tố chính vượt trội hơn các đô thị thông thường bao gồm:

Giao thông đô thị: giao thông trong đô thị thông minh được kiểm soát tại thời điểm thực, thông qua việc kiểm soát các phương tiện công cộng, kiểm soát các bãi đỗ xe, sử dụng các ứng dụng theo dõi quãng đường, khuyến khích sử dụng xe đạp, xe điện, Theo ENEA , kinh nghiệm triển khai giao thông thông minh tại các đô thị tại Nhật và Hoa Kỳ cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng phương tiện, mức độ an toàn, giảm thiểu ảnh hưởng đến môi trường của toàn hệ thống giao thông. Cụ thể hơn, thời gian di chuyển tổng thể của toàn hệ thống được giảm khoảng 15-20%; tiêu hao năng lượng giảm 12% và lượng khí thải ra môi trường giảm 10%. Bên cạnh đó, khả năng vận chuyển tăng 5-10% và giảm số lượng các vụ tai nạn lên tới 15%.

Quản lý năng lượng hiệu quả thông qua các hệ thống lưới điện thông minh, đồng hồ đo thông minh, kiểm soát các thông số môi trường như hàm lượng CO2, NOx v.v.. Một số đô thị trên thế giới đã triển khai các hệ thống quản lý năng lượng thông minh và có hiệu quả rất cao. Ví dụ như Washington DC đã điều chỉnh và thay thế khoảng 7800 thiết bị tiêu thụ năng lượng trong gia đình trong năm 2004. Cho đến năm 2013, tính cả chi phí cho việc vận hành và bảo trì các thiết bị này, thành phố đã tiết kiệm được 4,6 triệu Euro nhờ việc thay thế này.

Quản lý cơ sở hạ tầng của đô thị thông qua việc quản lý các tòa nhà công, quản lý cơ sở hạ tầng của đô thị như công viên, cây xanh, đường phố, thông báo về tai nạn do cư dân phát hiện v.v.. Việc quản lý này có thể thực hiện thông qua hàng triệu bộ cảm biến và bộ kích động, kết hợp với các thiết bị điện thoại thông minh và hạ tầng công nghệ thông tin viễn thông có thể cho phép chính quyền cũng như cư dân tham gia vào việc quản lý cơ sở hạ tầng một cách hiệu quả hơn rất nhiều.

An ninh cho cộng đồng: An ninh của cộng đồng được đảm bảo nhờ việc quản lý hiệu quả các dịch vụ cứu hộ và khẩn cấp, cũng như các lực lượng an ninh. Dựa vào các cảm biến, các camera thông minh cho phép phát hiện tình huống hoặc tai nạn phát sinh tại thời điểm thực, nhờ đó các lực lượng ứng cứu sẽ nhận được thông tin ngay lập tức, và triển khai phương án để xử lý và giải quyết.

Ngoài ra, sức khỏe của cư dân trong đô thị cũng được quan tâm chăm sóc tốt hơn thông qua việc quản lý hiệu quả các dịch vụ khám chữa bệnh, thu gom và xử lý các nguồn thải, đảm bảo cung cấp đủ nước sạch cho người dân nhờ việc kiểm soát chặt chẽ các thông số môi trường thông qua các đầu dò.

Có thể nói, quá trình đô thị hóa tại nước ta hiện nay là xu hướng tất yếu và không thể tránh khỏi. Đi kèm với quá trình này là rất nhiều những vấn đề gây ảnh hưởng đến an sinh xã hội và cuộc sống của cư dân. Đô thị thông minh mặc dù là một khái niệm còn rất mới mẻ, nhưng với các ưu điểm của mình, Đô thị thông minh chính là giải pháp hiệu quả để xử lý các vấn đề của đô thị hóa, nhờ đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân, đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững của đô thị.

Nhóm tác giả: Nguyễn Tuấn Anh, Phạm Lê Cường, Trần Thu HàTrung tâm Chứng nhận Phù hợp – Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

Đô Thị Hóa Những Hạn Chế Cần Khắc Phục

Đô thị hoá và phát triển đô thị trên thế giới cũng như khu vực như là một động lực phát triển quan trọng trong lịch sử, hiện tại cũng như tương lai. Hệ thống đô thị của mỗi quốc gia rất khác nhau bởi các vấn đề về địa lý, kinh tế, xã hội, bản sắc, văn hoá… Hệ thống đô thị quốc gia luôn đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp CNH-HĐH cũng như phát triển của đất nước. Vai trò của hệ thống đô thị nước ta trải qua các thời kỳ, nhất là thời kỳ “Đổi mới” đã chứng minh quy luật đó.

Quá trình đô thị hóa mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong công cuộc phát triển của mỗi quốc gia. “Mối quan hệ tích cực đầy ý nghĩa giữa đô thị hóa và phát triển kinh tế được hình thành. Mối quan hệ này được thể hiện bởi các yếu tố như công nghiệp hóa, thương mại hóa, tăng năng suất, tạo nhiều việc làm và cải thiện sự tiếp cận đối với những yếu tố khác nhau về sản xuất, thị trường, những cơ sở hạ tầng và các tiện nghi khác. Như vậy, đô thị hóa dẫn đến tăng thu nhập, thay đổi cách sống, đem lại chất lượng cao về dịch vụ và cũng phù hợp với dân số ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, đô thị hóa cũng đưa lại một số hiệu quả tiêu cực về phát triển đô thị và môi trường nếu không có biện pháp quản lý và kiểm soát chặt chẽ”.

Đô thị hoá bền vững phải xuất phát từ quan điểm tổng hoà phát triển bền vững giữa kinh tế, xã hội, ổn định môi trường sinh thái và bảo đảm cho một tổ chức liên kết không gian chặt chẽ giữa đô thị – nông thôn. Vậy hệ thống các tiêu chí về Phát triển đô thị bền vững ở nước ta cần được tiếp tục nghiên cứu và thực hiện.

1. Phân bố và quy hoạch đô thị phù hợp với các vùng địa lý và điều kiện sinh thái tự nhiên, bảo vệ môi trường;

2. Nền kinh tế đô thị phát triển ổn định và bền vững nhằm tạo nhiều việc làm đô thị ổn định, bền vững cho mọi thành phần kinh tế và mọi người dân đô thị;

3. Trình độ dân trí đô thị và nguồn lực phát triển đủ mạnh;

4. Trình độ quản lý phát triển đô thị đủ mạnh và bền vững;

5. Dịch vụ đô thị đáp ứng yêu cầu cuộc sống đô thị ngày càng cao;

6. Cơ sở hạ tầng xã hội đô thị đầy đủ, ổn định và phát triển bền vững;

7. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị đầy đủ, ổn định và phát triển bền vững;

8. Lồng ghép quy hoạch môi trường trong quy hoạch đô thị;

9. Huy động sự tham gia của cộng đồng người dân đô thị trong công tác qui hoạch, phát triển và quản lý đô thị;

10. Hợp tác, phối hợp điều hành Vùng hợp lý, hiệu quả, cùng có lợi và cùng phát triển.

Vậy, theo hệ thống tiêu chí Phát triển đô thị bền vững nêu trên, hệ thống đô thị nước ta cần sớm nhận ra và khắc phục một số điểm sau đây:

– Tốc độ đô thị hoá hiện nay đạt mức trung bình trong khu vực, khoảng xấp xỉ 35%, là khá nhanh nhưng chưa tương xứng với bản chất của quá trình đô thị hoá. Hai khu vực sản xuất phi nông nghiệp (Công nghiệp – Xây dựng và Thương mại, dịch vụ du lịch) mới đạt trung bình xấp xỉ trên dưới 50 – 55%; thậm chí có đô thị, nhất là các đô thị miền núi còn thấp hơn, trong khi yêu cầu phải đạt từ 65% trở lên, các đô thị loại III trở lên, nhất là các đô thị loại đặc biệt (Hà Nội mở rộng chỉ đạt 65%), loại I, còn phải đạt cao hơn.

– Xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng xã hội (nhà trẻ, nhà mẫu giáo, trường học, nhà văn hoá, trạm y tế…) không đáp ứng yêu cầu phục vụ của cộng đồng dân cư sống trong các khu đô thị mới. Nguyên nhân chủ yếu là các doanh nghiệp ít mặn mà trong việc đầu tư vào khu vực này vì ít mang lại lợi nhuận cho họ.

– Công tác lồng ghép các nội dung quy hoạch và bảo vệ môi trường trong quy hoạch vùng, quy hoạch chung đô thị còn rất yếu kém vì chưa có các văn bản pháp quy để thực hiện yêu cầu này.

– Công tác quản lý đô thị còn một khoảng cách khá xa so với yêu cầu phát triển của quá trình đô thị hoá và phát triển đô thị. Mặt khác, tính chuyên nghiệp trong công tác quản lý đô thị hầu như chưa được quan tâm đúng mức, nhất là việc đào tạo cán bộ quản lý đô thị chưa được thực hiện bài bản, hệ thống.

– Việc phối hợp quản lý, điều hành và quản lý hệ thống đô thị trong vùng đô thị hoá, vùng phát triển kinh tế xã hội còn yếu kém, nhất là việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên vào công cuộc phát triển đô thị như sông, bờ biển, hồ, rừng, núi… Do đó, gây ra không những lãng phí tài nguyên thiên nhiên, mất cân bằng các hệ sinh thái mà còn ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của công cuộc phát triển kinh tế đô thị và vùng.

GS.TS Lê Hồng KếViện Nghiên cứu Môi trường và Quy hoạch Phát triển Bền vững (IRESDP)Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam (VUPDA)Nguồn ảnh: InternerTheo Tạp Chí Kiến Trúc Việt Nam

Giải Pháp Xây Dựng Đô Thị Thông Minh

: Với vai trò là Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội các Doanh nghiệp Khu công nghiệp chúng tôi (HBA), ông có thể giới thiệu đôi nét về đơn vị chủ quản chương trình này?

Ông Trần Thiên Long: HBA được thành lập năm 2003 và là tổ chức xã hội tự nguyện của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các nhà quản lý kinh tế, các chuyên gia kỹ thuật thuộc KCX – KCN – KCNC chúng tôi HBA còn hỗ trợ thủ tục hành chính và tư vấn pháp luật, xúc tiến các hoạt động đầu tư, bảo vệ quyền lợi người lao động, luôn hướng đến quyền lợi các doanh nghiệp phát triển hiệu quả, bền vững và quyền lợi các công nhân viên trong các doanh nghiệp. Đến nay, phạm vi hoạt động của HBA đã mở rộng trên 18 KCX – KCN – KCNC tại chúng tôi với khoảng trên 1.500 doanh nghiệp, hơn 330.000 công nhân viên và người lao động. Chúng tôi thành lập chương trình Phúc lợi người lao động năm 2018 và xúc tiến chương trình Phát triển điện mặt trời mái nhà & năng lượng tái tạo năm 2019.

Xin ông nói rõ về giá trị cốt lõi của chương trình điện mặt trời mái nhà?

Ông Trần Thiên Long: Chương trình thành lập vào tháng 8/2019 mang sứ mệnh hỗ trợ một cách toàn diện và hiệu quả doanh nghiệp thuộc các KCX – KCN – KCNC tại chúng tôi ứng dụng điện mặt trời mái nhà. Ban chủ nhiệm gồm thành viên Ban chấp hành HBA, đại diện Ban quản lý KCX – KCN HEPZA, đại diện Ban quản lý KCNC SHTP, đại điện của Tổng công ty Điện lực chúng tôi EVNHCMC. Ban cố vấn gồm đại diện các cơ quan thẩm quyền và các chuyên gia trong lĩnh vực điện mặt trời mái nhà. Chương trình đặt mục tiêu phát triển được 1.000 MWp tổng công suất hệ thống điện mặt trời mái nhà trong giai đoạn từ 2020 – 2024. Bên cạnh đó, 1.000 doanh nghiệp thuộc các KCN – KCX – KCNC hưởng ứng tham gia, cùng trao đổi, tìm hiểu và lắp đặt hệ thống điện mặt trời áp mái; giảm 10% – 15% lượng điện tiêu thụ; góp phần tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên quốc gia và đảm bảo an ninh năng lượng cho chúng tôi góp phần giảm 23 triệu tấn lượng khí thải CO2 ra môi trường trên địa bàn chúng tôi đồng thời đảm bảo 100% doanh nghiệp tham gia sẽ được nâng cao hình ảnh thương hiệu và tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Phóng viên: Vậy chương trình hành động ra sao?

: Xin ông cho biết về chương trình thực hiện chuỗi hội thảo Phát triển điện mặt trời mái nhà và năng lượng tái tạo tại các KCX – KCN – KCNC?

Phóng viên: Xin ông cho biết nội dung chuỗi hội thảo chương trình phát triển điện mặt trời mái nhà và năng lượng tái tạo tại các KCX – KCN – KCNC TP.HCM?

Ông Trần Thiên Long: Nhằm mục tiêu đạt tổng công suất lên đến 1.000 MWp, chuỗi hội thảo chương trình phát triển điện mặt trời mái nhà và năng lượng tái tạo tại các KCX – KCN – KCNC chúng tôi giai đoạn 2020 – 2024 được đồng tổ chức bởi các đơn vị: Ban Quản lý các KCX – KCN chúng tôi (HEPZA); Ban Quản lý KCNC chúng tôi (SHTP); HBA và Tổng Công ty Điện lực chúng tôi (EVNHCMC). Với thời lượng chương trình từ 150 – 180 phút, hội thảo sẽ giới thiệu, trình bày tham luận cũng như giải đáp các thắc mắc của doanh nghiệp, đồng thời kết nối nhà đầu tư, các đối tác cung cấp thiết bị, đơn vị tổng thầu, các chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng nhằm cung cấp giải pháp về việc lắp đặt và triển khai sử dụng điện mặt trời mái nhà và năng lượng tái tạo.

: Ích lợi dành cho doanh nghiệp khi tham gia chương trình này là gì, thưa ông?

Ông Trần Thiên Long: Đồng hành hợp tác cùng chương trình, doanh nghiệp sẽ có được nhiều những lợi ích kinh tế, phi kinh tế cùng sự phát triển về thương hiệu gắn liền với sử dụng nguồn năng lượng xanh, sạch và thân thiện môi trường. Với Hiệp hội thì xem như đã hoàn thành sứ mệnh kêu gọi các doanh nghiệp giảm sử dụng điện góp phần tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên quốc gia, đảm bảo an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường cũng như hoàn thành vai trò hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN ứng dụng hệ thống điện mặt trời áp mái.