Top 10 # Giải Pháp Giảm Chênh Lệch Giàu Nghèo Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Giải Pháp Giảm Bớt Chênh Lệch Giàu Nghèo

Tư bản trong thế kỷ XXI (Le capital au XXIème siècle) của Thomas Piketty là cuốn sách gây tiếng vang trong giới học giả, các nhà kinh tế, nhà chính trị Âu, Mỹ suốt 2 năm nay.

Trong tác phẩm dày hơn 1 ngàn trang này, nhà kinh tế Pháp Thomas Piketty (45 tuổi) nghiên cứu về những bất bình đẳng về kinh tế, thu nhập trong các nền chính trị – kinh tế khác nhau, từ đầu thế kỷ thứ I đến nay. Cuốn sách trình bày những nhận định sâu sắc về kinh tế xã hội dưới các chế độ chính trị khác nhau trong nhiều thời kỳ khác nhau, nhất là vào các thế kỷ XIX, XX và XXI.

Sách do Nhà xuất bản Seuil của Pháp phát hành giữa năm 2013, chỉ trong vòng 3 tháng đã bán được hơn 150.000 cuốn và hiện đang tiếp tục được tái bản. Đầu năm 2014, sách được dịch ra tiếng Anh, trong 3 tháng bán được 450.000 cuốn.

Năm 2014, Thomas Piketty được nhận giải thưởng Nhà kinh tế tài năng trẻ nhất nước Pháp, được giao sáng lập Trường Kinh tế của nước Pháp (École d’Économie de France). Tạp chí Foreign Policy (Chính sách đối ngoại) ở Hoa Kỳ năm 2015 nhận định ông là một trong số “100 trí thức có ảnh hưởng lớn nhất thế giới trong năm qua”.

Cuốn sách chỉ ra rằng trong những thế kỷ cổ sơ, sản xuất còn tự nhiên, giao thông còn hạn chế, mỗi cộng đồng có phương thức sản xuất riêng, phân chia của cải xã hội còn ít ỏi theo kiểu đồng loạt, cùng làm, cùng ăn, cùng hưởng theo xã hội cộng sản nguyên thủy.

Sang thế kỷ XIX, sự nghiệp công nghiệp hóa được đẩy mạnh với điện khí hóa, cơ giới hóa, giao lưu rộng khắp, buôn bán toàn cầu… giai cấp tư bản từ sơ khai trở thành tư bản lũng đoạn, chênh lệch thu nhập, giàu nghèo ngày càng mở rộng, bất công xã hội ngày càng lớn, người giàu ngày càng giàu thêm, kẻ nghèo ngày càng thêm nghèo khổ. Do đó mà sinh ra xung đột, dẫn đến chiến tranh, di tản, bất ổn xã hội.

Thomas Piketty cảnh báo rằng sang thế kỷ XXI, bi kịch lớn nhất, căn nguyên cơ bản của các xung đột trong nội bộ và trong quan hệ quốc tế chính là bất công xã hội, chênh lệch thu nhập ngày càng mở rộng. Vì vậy các chính phủ, các đảng chính trị cần xem việc chấn chỉnh phân phối hợp lý của cải xã hội là trách nhiệm hàng đầu, để phát triển đất nước trong an ninh xã hội.

Việc thu thuế, chống tham nhũng và chống lãng phí cũng như thu nhập bất minh, việc công khai và minh bạch tài chính quốc gia trở thành những vấn đề sinh tử của mọi nước, mọi chế độ.

Đáng chú ý nhất trong cuốn Tư bản trong thế kỷ XXI là những đoạn nói về chênh lệch thu nhập trong các nước tư bản phát triển ở châu Âu và Bắc Mỹ hiện nay. Tác giả đã lập nên hàng trăm biểu đồ, hàng trăm bảng thống kê, tính theo tỷ lệ số dân và tỷ lệ thu nhập, trong một xã hội thu nhập trung bình, tính theo đầu người là bao nhiêu.

Có nước chậm phát triển ở châu Phi, mức thu nhập này hằng năm chỉ chừng 600 đến 800 USD. Có nước phát triển trung bình đạt 1.500 đến 2.500 USD (như ở Việt Nam, năm 2015 là 2.000 USD). Có nước phát triển cao như Đức, Anh, Hoa Kỳ là 30.000 đến 45.000 USD.

Nhưng đây chỉ là thu nhập bình quân đầu người.

Dựa vào thống kê, nghiên cứu của Thomas Piketty cho biết nhóm 85 tỷ phú giàu nhất hành tinh hiện nắm giữ 50% giá trị tài sản toàn thế giới. Tất nhiên trong số đó những người giàu nhất có tài sản trị giá gấp hàng chục lần người giàu thứ 85.

Tình hình đó đặt ra cho mọi nhà nước, chính phủ, chính đảng, nhà hoạt động xã hội nghĩa vụ phải tìm biện pháp để giảm bớt sự chênh lệch, giảm bớt thu nhập của người rất giàu và tương đối giàu để bù đắp cho những người nghèo và quá nghèo.

Nhiều tỷ phú hàng đầu của Hoa Kỳ như Bill Gates, Mark Zuckerberg… đã tự nguyện san sẻ tài sản riêng cho các tổ chức từ thiện quốc tế, cấp học bổng rộng rãi, đóng góp hàng tỷ USD cho các cơ quan nghiên cứu chữa bệnh hiểm nghèo. Đánh dấu ngày sinh con gái đầu lòng, vợ chồng Zuckerberg đã tặng 95% tài sản hiện có (trên 4 tỷ USD) cho sự nghiệp nuôi dưỡng trẻ em và giáo dục tuổi trẻ trên thế giới.

Rất nhiều nhà tỷ phú nghĩ rằng để lại gia tài quá lớn cho con cháu mình không chắc đã là điều hay, có khi còn có hại, nuôi dưỡng tinh thần ỷ lại, lười biếng, không lao động mà giàu to, sinh ra lêu lổng, ăn chơi, mất tính tự lập và tự trọng.

Nhiều nhà tỷ phú, triệu phú trước khi chết đã để lại di chúc hiến tặng toàn bộ hay một phần lớn tài sản của mình cho xã hội, các hội từ thiện, các cơ quan nghiên cứu tìm tòi thuốc men chữa bệnh, cho các cháu nhỏ mồ côi, cho các giáo hội, hội Chữ thập đỏ…

Nhưng việc giải quyết tốt đẹp, bền vững hiện tượng bất công này trước hết thuộc về trách nhiệm của các chính phủ, nhà hoạt động chính trị, chính đảng cầm quyền, các cơ quan lập pháp và hành pháp… của mỗi nước.

Có hai kết luận rút ra từ cuốn Tư bản trong thế kỷ XXI là:

– Chỉ có kiện toàn chế độ dân chủ, xóa bỏ mọi chế độ độc tài mới làm cho của cải dồi dào, phân chia thu nhập tương đối hợp lý, giảm bớt bất công xã hội. Tất cả các nước giàu có nhất, phân chia của cải hợp lý nhất đều thuộc về các nước dân chủ thuần thục, xã hội ổn định, hòa hợp, không trừ một nước nào.

– Muốn giảm bớt bất công xã hội, chênh lệch giàu nghèo quá đáng cần có một chế độ công khai, trong sáng, minh bạch về tài chính, ngân sách, có kiểm toán chặt chẽ, bài trừ tham nhũng và lãng phí đến mức cao nhất, theo chế độ pháp trị thật nghiêm minh.

Mới đây, nhiều học giả và sinh viên Pháp tỏ ý mong muốn Thomas Piketty ra ứng cử tổng thống Pháp năm 2017, nhưng ông đã từ chối vì tự cho mình chỉ là nhà khoa học. Ông cũng không nhận huân chương Bắc đẩu bội tinh của Chính phủ Pháp và xác định rằng một tác phẩm khoa học nên để cho giới khoa học và công luận thẩm định chân giá trị là đủ.

Toàn Cầu Hóa Chênh Lệch Giàu Nghèo

Trên các phương tiện thông tin đại chúng, không chỉ ở Việt Nam mà hầu như trên toàn thế giới, người ta nói rất nhiều về sự nghèo đói và hiện tượng chênh lệch giàu nghèo. Tuy nhiên, ở đây có một điểm cần làm rõ, đó là phải phân biệt sự nghèo đối với khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, sự nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo với nhận thức về chúng. Cần phải khẳng định rằng toàn cầu hóa chỉ làm cho sự nghèo đói xuất hiện và được chú ý hơn, chứ không phải làm cho người ta nghèo đói hơn. Trước đây, khi tất cả mọi người đều nghèo đói, nhất là trong một thế giới ít thông tin, sự nghèo đói bị chìm đi. Thế nhưng, toàn cầu hóa, với luồng thông tin thông thoáng, đã khiến người ta cảm nhận rõ ràng hơn sự nghèo đói của mình trong mối tương phản với sự giàu có của những dân tộc khác. Cũng bởi thế mà một số người vội vã đổ lỗi cho toàn cầu hóa, quên mất rằng chính nó đã, đang và sẽ đem đến cho dân tộc mình rất nhiều cơ hội phát triển.

Toàn cầu hóa đã thổi vào các quốc gia một luồng sinh khí mới, hay ít ra, buộc các quốc gia, thêm một lần nữa, phải nhìn lại chính mình, phải xác định những mặt mạnh, mặt yếu của chính mình để tận dụng các cơ hội và đối mặt với những hiểm họa mà nó mang lại.

Hãy nhìn lại những diễn biến gần đây của thế giới để thấy rằng, sự luân chuyển mạnh mẽ dòng vốn giữa các quốc gia, quá trình chuyển giao công nghệ sôi động cùng với sự phổ biến các tiêu chuẩn về lao động và môi trường đã giúp và buộc các quốc gia, nhất là những nước thuộc thế giới thứ ba, cải thiện bức tranh kinh tế xã hội của mình như thế nào. Toàn cầu hóa có tác động quan trọng nhất là khai thác việc sử dụng một cách hiệu quả lợi thế so sánh của các quốc gia, và hơn thế nữa, nó giúp các quốc gia phát huy những lợi thế ấy. Dường như, lý thuyết về việc khai thác chi phí nhân công rẻ đã không còn tuyệt đối đúng và giữ nguyên màu sắc nguyên thủy của nó nữa. Trước đây, khi toàn cầu hóa còn ở mức thấp, các nước giàu chỉ khai thác lao động về mặt số lượng, hay nói khác đi, họ chỉ tận dụng những lao động cơ học, thay vì tạo điều kiện để tăng cường hàm lượng chất xám của nhưng lao động ấy. Ngày nay, toàn cầu hóa buộc các quốc gia phải tăng cường chất lượng lao động cũng như tiêu chuẩn hóa lao động của mình, phải đặt vấn đề về việc sử dụng lao động tù nhân lao động trẻ em… thay vì khai thác theo kiểu bóc lột như trước đây.

Toàn cầu hóa cũng đã làm thay đổi tư duy của mọi người về hoạt động đầu tư của các nước giàu. Trước đây, người ta nhìn nhận nó đơn thuần như một quá trình khai thác tài nguyên, mà kẻ hưởng lợi duy nhất là những nước đi đầu tư. Ngày nay, hoạt động này được công nhận như một quá trình hợp tác “win-win”, đôi bên đều có lợi. Các nước đầu tư đã, đang và sẽ tái phân phối sự giàu có của mình, giúp các nước nghèo đói khai thác và chỉ cho họ cách thức để tạo ra sự giàu có cho riêng mình. Bên cạnh đó, các nước đầu tư cũng có thể mở rộng thị trường của mình qua việc làm cho một bộ phận dân cư ở các nước nhận đầu tư trở nên giàu có hơn, và do đó, có điều kiện tiêu dùng sản phẩm của mình. Cũng nhờ thế, quá trình này phần nào giúp các nước đang phát triển giải quyết vấn đề việc làm và gia tăng những điều kiện thuận lợi để thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo.

Tuy nhiên, chúng ta cũng nên ý thức về những ảnh hưởng tiêu cực mà toàn cầu hóa mang đến. Thứ nhất, toàn cầu hóa buộc các quốc gia phải đối mặt với những nguy cơ tụt hậu, nó cũng buộc các quốc gia phải chấp nhận thay đổi, mà đôi khi là những thay đổi đau đớn. Toàn cầu hóa sẽ chỉ ra những hạn chế về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sẽ khiến các doanh nghiệp phải tham gia vào một cuộc chơi với những luật chơi khắc nghiệt, để hoặc tận hưởng những cơ hội mà nó mang lại, hoặc chấp nhận bị phá sản. Vì thế, nó sẽ kéo theo hệ quả thất nghiệp như là nguyên nhân của sự lan tràn các tệ nạn xã hội.

Thứ hai, toàn cầu hóa chỉ ra một cách rõ ràng sự lạc hậu của năng lực một dân tộc, năng lực doanh nghiệp và năng lực cá nhân. Hơn bất kỳ lúc nào, người ta sẽ phải đánh giá một cách sâu sắc về “tính có thể mua bán được” của những giá trị lao động của mình. Thứ ba, toàn cầu hóa cũng sẽ yêu cầu các quốc gia phải giải bài toán đánh đổi tăng trưởng về kinh tế với tính ổn định của chính trị và xã hội. Bởi nó thổi vào các quốc gia những luồng tư duy mới rất có thể gây ra những xáo trộn tạm thời. Ô nhiễm môi trường cũng là vấn đề nan giải của các quốc gia và của cả thế giới trước nhịp điệu phát triển vũ bão của khoa học công nghệ. Nhưng trên hết, dân chủ hóa đóng vai trò then chốt, bởi lẽ chỉ có dân chủ hóa mới cho phép chúng ta huy động tiềm năng sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội, hợp lý hóa đời sống kinh tế chính trị, tăng sức cạnh tranh và cuối cùng là sự phát triển bền vững.

Cũng tương tự như vậy, chúng ta phải nhận thức lại vấn đề chênh lệch giàu nghèo. Xét về mặt xã hội học, sự chênh lệch giàu nghèo trở thành vấn đề xã hội thực sự và làm nảy sinh những vấn đề mang tính tâm lý tác động không tốt tới nhiều mặt của đời sống xã hội. Điều này thể hiện qua việc xuất hiện và tồn tại tâm lý hằn học với sự giàu có, đố kỵ với những nhà kinh doanh, ác cảm với những người thành đạt không theo quan niệm truyền thống cũ. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, người ta đổ lỗi cho kinh tế thị trường, cho toàn cầu hóa hoặc tự do thương mại, coi đó như là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, buôn lậu, và các hành vi trục lợi hoặc tạo ra ưu thế và lợi ích cho người giàu, hạn chế và làm thiệt hại đến quyền lợi của người nghèo và là nguyên nhân khiến khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng. Tâm lý tiêu cực này nảy sinh trên cơ sở nhận thức không đúng đắn về sự chênh lệch giàu nghèo. Nhận thức lại vấn đề sẽ giúp chúng ta hình thành tâm lý xã hội đúng đắn và chỉ có như vậy mới đưa ra được những biện pháp phù hợp để xoá đói giảm nghèo tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển vốn là hố sâu ngăn cách giữa nhiều quốc gia, nhiều cộng đồng đang cùng sống chung dưới một mái nhà thế giới.

Chúng ta cần nhận thức chênh lệch giàu nghèo là hiện tượng tất yếu của xã hội. Chúng ta không thể xoá bỏ được chênh lệch giàu nghèo bởi nó thể hiện kết quả của chênh lệch năng lực tự nhiên giữa các cá thể. Điều chúng ta có thể làm được là nâng cao mức sông của người nghèo thông qua việc nâng cao năng lực của chính họ. Chỉ có trên cơ sở đổi mới quan điểm như vậy chúng ta mới xây dựng được một tâm lý xã hội tích cực đối với vấn đề chênh lệch giàu nghèo. Đây cũng chính là tiền đề để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.

Có người đã trả lời rằng có thể. Câu chuyện này cho thấy tâm lý nóng vội muốn đốt cháy nhiều thứ để phát triển, nhưng cũng cho thấy cả sự phiến diện trong cách tư duy của chúng ta về một sự phát triển thực sự. Giàu có thịnh vượng không phải là một toà lâu đài đẹp được xây dựng chỉ sau một đêm như ước mơ của anh bạn trẻ nêu trên. Chúng ta không thể tư duy hời hợt như vậy bởi vấn đề phải được giải quyết trên quy mô quốc gia và quốc tế, trên cơ sở phối hợp các chính sách đã được phân tích và nghiên cứu thấu đáo

Một số người chủ trương rằng để giải quyết vấn đề nghèo đói tạo lập sự bình đẳng xã hội phải thực hiện nhiều hơn nữa các giải pháp ưu đãi người nghèo thông qua các biện pháp điều tiết thu nhập của nhà nước. Những giải pháp này còn có thể áp dụng trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam chưa bị ràng buộc quá khắt khe bởi những hiệp ước kinh tế song phương hoặc đa phương, tức là, khi nhà nước còn có không gian đủ tự do để sử dụng nhiều biện pháp hỗ trợ sản xuất thông qua các hình thức ưu đãi cho người nghèo. Nhưng các hình thức ưu đãi như vậy không thể là giải pháp dài hạn. Về thực chất, đó chỉ là sự bố thí trên quy mô xã hội và sẽ không bao giờ cho phép chúng ta giải quyết dược cơ bản vấn đề nghèo đói. Hơn thế nữa, trong tương lai, khi tiến trình hội nhập kinh tế đạt đến quy mô và trình độ cao, nhiều hình thức ưu đãi sẽ không còn có thể áp dụng, bởi sẽ bị coi là trợ cấp thương mại, điều cấm kỵ trong xu thế tự do hóa thương mại.

Rõ ràng, chúng ta phải đi con đường khác để tìm ra những giải pháp cơ bản có thể xoá đói giảm nghèo phù hợp với các chuẩn mực quốc tế cũng như xu hướng phát triển của thời đại.

Theo chúng tôi, trên phương diện vĩ mô, chúng ta có thể tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, nâng cao năng lực cho người lao động đê họ có thể cạnh tranh thắng lợi, hoặc chí ít, giúp người lao động không bị thua thiệt trong quá trình toàn cầu hóa. Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập thương mại, cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt hơn, trong khi năng lực tự nhiên của người lao động tại các nước nghèo lại nhanh chóng trở nên lạc hậu với yêu cầu của thị trường và rất dễ bị gạt ra bên lề của sự phát triển. Ngư lao động tại các nước nghèo như Việt Nam cần được nâng cao năng lực để tham gia vào quá trình hội nhập, đó mới là hạt nhân của chính sách xoá đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển. Để làm được như vậy, đổi mới giáo dục – đào tạo phải là bước đi đầu tiên và tất yếu trong chiến lược xoá đói giảm nghèo. Vấn đề không chỉ ở chỗ nhiều người nghèo không có điều kiện tiếp cận hệ thống giáo dục – đào tạo, mà còn ở chỗ hệ thống giáo dục – đào tạo hiện nay quá xa rời thực tế thị trường lao động, không đảm bảo trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng cần thiết. Vì thế, năng lực cạnh tranh cá nhân của họ vẫn rất yếu kém, khiến họ là những người đầu tiên thua thiệt trong cạnh tranh khi quá trình hội nhập ngày càng sâu sắc.

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu một cách linh hoạt và thích hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong quá trình hội nhập. Cần phải nói rằng chuyển dịch cơ cấu là quá trình tất yếu xảy ra trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, chuyển dịch đến đâu, chuyển dịch như thế nào, chuyển dịch chất lượng lao động theo hướng nào là chuẩn mực quốc tế cũng như xu hướng phát triển của thời đại.

Theo chúng tôi, trên phương diện vĩ mô, chúng ta có thể tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, nâng cao năng lực cho người lao động để họ có thể cạnh tranh thắng lợi, hoặc chí ít, giúp người lao động không bị thua thiệt trong quá trình toàn cầu hóa. Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập thương mại, cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt hơn, trong khi năng lực tự nhiên của người lao động tại các nước nghèo lại nhanh chóng trở nên lạc hậu với yêu cầu của thị trường và rất dễ bị gạt ra bên lề của sự phát triển. Ngư lao động tại các nước nghèo như Việt Nam cần được nâng cao năng lực để tham gia vào quá trình hội nhập, đó mới là hạt nhân của chính sách xoá đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển. Để làm được như vậy, đổi mới giáo dục – đào tạo phải là bước đi đầu tiên và tất yếu trong chiến lược xoá đói giảm nghèo. Vấn đề không chỉ ở chỗ nhiều người nghèo không có điều kiện tiếp cận hệ thống giáo dục – đào tạo, mà còn ở chỗ hệ thống giáo dục – đào tạo hiện nay quá xa rời thực tế thị trường lao động, không đảm bảo trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng cần thiết. Vì thế, năng lực cạnh tranh cá nhân của họ vẫn rất yếu kém, khiến họ là những người đầu tiên thua thiệt trong cạnh tranh khi quá trình hội nhập ngày càng sâu sắc.

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu một cách linh hoạt và thích hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong quá trình hội nhập. Cần phải nói rằng chuyển dịch cơ cấu là quá trình tất yếu xảy ra trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, chuyển dịch đến đâu, chuyển dịch như thế nào, chuyển dịch chất lượng lao động theo hướng nào là một vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn và nghiêm túc hơn.

Chẳng hạn, chúng ta luôn nói về việc phát triển các làng nghề mà quên mất rằng nghề ấy, hay làng nghề ấy cho ra những sản phẩm không còn những giá trị thị trường như trước nữa, và do đó, thị trường lao động ấy cũng không nên khuyến khích nữa. Chúng ta đã bàn nhiều về chuyển dịch lĩnh vực sản xuất, nhưng do những nghiên cứu nửa vời, chúng ta lại rơi vào tình trạng chuyển từ một lĩnh vực kém hiệu quả này sang một lĩnh vực kém hiệu quả khác. Kết quả là chúng ta đã nghèo lại còn nghèo hơn, vì việc đầu tư sai hướng đã gây lãng phí cả năng lực vật chất cũng như thời gian. Bởi vậy, vấn đề chuyển dịch cơ cấu không thể thực hiện bằng mọi giá mà cần được nghiên cứu một cách khoa học để tạo ra những thay đổi tích cực và phù hợp với nhu cầu của thị trường. Trong mọi trường hợp, chúng ta không được quy quá trình chuyển dịch cơ cấu đơn thuần về các đối tượng sản xuất, mà cần phải chuyển địch cơ cấu công nghệ, chuyển dịch cơ cấu quản lý và cả cơ cấu thị trường lao động. Nếu không, chuyển dịch cơ cấu có thể lại là sự thua thiệt của người nghèo và rốt cục, khoảng cách giàu nghèo không những không bị thu hẹp mà còn có nguy cơ mở rộng hơn.

Thứ ba, phát triển nông thôn như là hạt nhân của chiến lược xoá đói giảm nghèo. Với một quốc gia mà đa số người dân sống ở nông thôn như Việt Nam, khu vực nông thôn là lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong chiến lược xoá đói giảm nghèo. Theo những số liệu chính thức, hiện còn quá nhiều người nông dân Việt Nam có mức sống dưới đô la/ ngày. Vì thế, nông thôn là địa bàn chính, phát triển nông thôn là một giải pháp cốt lõi, để xoá đói giảm nghèo. Nếu được đào tạo kỹ năng để chủ động tham gia vào quá trình hội nhập, người lao động nông thôn sẽ không phải ra thành thị chỉ để làm các nghề nặng nhọc. Họ có thể xây dựng cuộc sống mới và hưởng thụ thành quả ngay trên mảnh đất quê hương bởi cuộc sống ở đây cũng cần phát triển để không bị tụt hậu so với nhịp phát triển chung trong một thế giới đang toàn cầu hóa mạnh mẽ.

Cuối cùng xây dựng đô thị giàu có và thịnh vượng, tạo động lực thúc đẩy cả nền kinh tê. Xoá đói giảm nghèo phải được đặt trong bối cảnh phát triển kinh tế chung của một quốc gia. Các nước đang phát triển muốn cho nền kinh tế cất cánh, muốn đất nước phồn vinh, muốn xoá đói giảm nghèo phải có động lực đủ mạnh. Trên phương diện thị trường, khu vực đô thị giàu có với sức mua lớn sẽ kích thích sản xuất ở nông thôn, tạo lối ra cho sản phẩm và dịch vụ từ khu vực nông thôn, và do đó, có thể đẩy nhanh quá trình giảm nghèo cho nông dân hiện chiếm đại bộ phận cư dân cả nước. Chính vì thế, nếu chúng ta thành công trong việc giải bài toán tăng cường sức mua đô thị, bộ mặt của nông thôn sẽ được cải thiện hơn rất nhiều. Tuy nhiên, để tăng cường sức mua đô thị, chúng ta cũng nên có những thay đổi về chính sách thuế thu nhập. Hiện nay, chính sách thuế thu nhập của chúng ta ít nhiều mang tính chất “cào bằng”, bỏ qua sự khác nhau giữa các khu vực địa lý, tức là bỏ qua những yếu tố địa kinh tế, mà quên mất rằng tiền cũng như nước, nó sẽ chảy từ nơi có cột nước cao đến nơi có cột nước thấp. Do đó, nếu chúng ta làm cho mức nước ở các đô thị thấp, thì sức nén đẩy tới những vùng xa xôi khác cũng sẽ thấp. Thành công của một số nước trong việc phát triển đô thị chỉ ra rằng, việc phát triển các đô thị lớn thành các trung tâm kinh tế giàu có và thịnh vượng sẽ đóng vai trò các đầu tầu tạo động lực thúc đẩy cả nền kinh tế cất cánh.

Qua tất cả những gì đã trình bày ở trên, chúng tôi muốn khẳng định rằng xoá đói giảm nghèo không phải là vấn đề của riêng người nghèo mà là của toàn xã hội. Tuy nhiên, giải pháp cho vấn đề không nằm ở chỗ tiếp tục khoét sâu khía cạnh tâm lý của việc phân biệt giàu nghèo, chia rẽ các lực lượng trong xã hội và đổ lỗi cho những lực lượng này hoặc lực lượng khác, mà ở chỗ nhận thức một cách khách quan và khoa học các quy luật và hiện tượng nhằm xây dựng những chiến lược phát triển phù hợp. Một chính sách thực tế và sáng suốt hơn để xoá đói giảm nghèo, trong bối cảnh hiện nay khi toàn cầu hóa đang ngày càng trở thành xu thế áp đảo trong mọi lĩnh vực đời sống phát triển phải là tăng cường hợp tác giữa các lực lượng, giữa các quốc gia, không kể giàu nghèo, đồng thời nâng cao mức sống tối thiểu cho người dân thông qua việc cải thiện năng lực phát triển của chính họ.

Mọi chương trình xoá đói giảm nghèo chỉ có thể thành công khi chính người nghèo trở thành chủ thể trong cuộc chiến chống đói nghèo.

Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững

1. Giải trình tính cấp thiết của nội dung ý tưởng cần đề xuất:

Trong thời gian qua, công tác giảm nghèo của tỉnh Bắc Giang đã đạt được kết quả khá tích cực, đến năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn 7,5%; trung bình, mỗi năm giảm được hơn 2%; ở các xã đặc biệt khó khăn, hộ nghèo giảm gần 5%/năm.

Tuy nhiên theo chuẩn nghèo mới tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 và kết quả điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo tỉnh Bắc Giang năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh đã tăng lên gần 14% (60.745 hộ nghèo), tình trạng tái nghèo còn cao, giảm nghèo chưa bền vững. Nếu so sánh tỷ lệ hộ nghèo ở thời điểm năm 2010 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010) là 10%, thì cho thấy tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Bắc Giang có xu hướng tăng.

Việc nâng chuẩn nghèo cho từng giai đoạn để dần tiệm cận với chuẩn quốc tế là rất cần thiết, nhằm đánh giá đúng mức sống của người dân để có những quyết sách phù hợp, nhưng nếu không có những giải pháp mang tính đột phá, thì chắc chắn số hộ nghèo ngày càng tăng hơn so với giai đoạn trước, do chuẩn nghèo ngày càng nâng cao hơn, mặt bằng mức sống của hộ nghèo là quá thấp, tự mình không đủ khả năng vươn lên thoát nghèo.

Tuy đã có sự hỗ trợ của Nhà nước, tỉnh và huyện nhưng mới chỉ dừng ở mức giúp hộ nghèo đỡ khó khăn hơn. Nguyên nhân chính là thiếu cú huých, tạo điều kiện để hộ nghèo có đủ thực lực, tự bảo đảm cuộc sống, vươn lên thoát nghèo.

2. Nội dung cụ thể của ý tưởng: 2.1. Phân công mỗi tổ chức hội cơ sở của các đoàn thể (Cựu chiến binh, Công đoàn, Thanh viên và Phụ nữ) giúp đỡ một hộ nghèo; đồng thời huy động sự hỗ trợ của cơ quan, tổ chức, đơn vị tạo điều kiện cho tổ chức hội cơ sở tham gia hoạt động giúp đỡ hộ nghèo.

– Toàn tỉnh hiện nay có khoảng 3.000 tổ chức hội cơ sở của 4 đoàn thể trên; thực hiện phân công mỗi tổ chức hội cơ sở giúp đỡ 01 hộ nghèo trong thời hạn 01 năm. Như vậy, mỗi một năm, toàn tỉnh sẽ có 3.000 hộ nghèo được giúp đỡ.

– Cơ quan, tổ chức, đơn vị có tổ chức hội cơ sở cần tạo mọi điều kiện để tổ chức hội cơ sở của mình tham gia giúp đỡ hộ nghèo; hỗ trợ về xe đi lại, cơ sở vật chất cho hoạt động giúp đỡ hộ nghèo của tổ chức hội cơ sở.

– Mục tiêu đặt ra là trong thời hạn 1 năm, phải giúp đỡ được hộ nghèo có đủ khả năng, điều kiện và thực lực để tự vươn lên thoát nghèo.

2.2. Thực hiện hỗ trợ về trí lực, nhân lực và vật lực nhằm tạo “cú huých” giúp hộ nghèo thoát nghèo bền vững.

– Về trí lực: huy động trí tuệ tập thể của toàn thể đoàn viên, hội viên của tổ chức hội cơ sở, cơ bản đều là những người có trình độ và kinh nghiệm sẽ cùng nghiên cứu, bàn với gia đình hộ nghèo để đưa ra phương án thúc đẩy phát triển kinh tế của hộ nghèo. Tùy theo năng lực của từng thành viên tổ chức hội cơ sở có thể dạy nghề, truyền đạt, cung cấp thông tin các kiến thức về trồng trọt, chăn nuôi…

– Về nhân lực: thực hiện mỗi tháng toàn thể đoàn viên, hội viên của tổ chức hội cơ sở dành 1 ngày nghỉ cuối tuần để lao động giúp đỡ hộ nghèo, thông qua các hoạt động giúp đỡ sản xuất như: trồng trọt, chăn nuôi…

3. Phương pháp triển khai thực hiện ý tưởng:

– Lựa chọn 01 địa bàn để triển khai, tập trung vào nơi khó khăn nhất như 13 xã nghèo của huyện Lục Ngạn, hiện có 6.644 hộ nghèo hoặc huyện Sơn Động, hiện có 9.665 hộ nghèo; trước mắt triển khai trong năm 2017.

– Sở Lao động, Thương Binh và Xã hội phối hợp với các đoàn thể và các huyện thực hiện phân công phù hợp tổ chức hội cơ sở giúp đỡ 01 hộ nghèo cụ thể, theo hướng tổ chức hội cơ sở ở địa bàn huyện nào thì giúp đỡ hộ nghèo ở địa bàn huyện đó. Riêng các tổ chức hội cơ sở ở các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn và các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh thì phân công xuống giúp đỡ địa bàn đã lựa chọn Lục Ngạn hoặc Sơn Động.

– Các tổ chức đoàn thể cấp tỉnh có kế hoạch triển khai thực hiện; thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra hoạt động giúp đỡ hộ nghèo của các tổ chức hội cơ sở thuộc hội mình; định kỳ có báo cáo kết quả với UBND tỉnh.

– Mỗi năm, dành một phần ngân sách của tỉnh và các nguồn xã hội hóa để hỗ trợ cây, con giống cho các hộ nghèo đã lựa chọn phân công các tổ chức hội giúp đỡ.

– Cuối năm 2017, tổ chức đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm trước khi nhân rộng. Có chế độ khen thưởng xứng đáng đối với các tổ chức hội cơ sở hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giúp đỡ hộ nghèo thoát nghèo.

4. Tính khả thi, khả năng áp dụng và nhân rộng của ý tưởng

Trong điều kiện của tỉnh hiện nay, ý tưởng không khó để thực hiện; có tính khả thi và khả năng áp dụng ở các tỉnh, thành khác. Nếu thực hiện quyết liệt và tập trung từ 3-5 năm vào một địa bàn cụ thể, thì khả năng xóa nghèo bền vững tại địa bàn đó là rất khả thi.

5. Dự kiến hiệu quả của ý tưởng khi triển khai

– Về khoa học: Làm rõ cơ sở khoa học của việc giảm nghèo chưa bền vững; do đầu tư hỗ trợ chưa hiệu quả, mới dừng ở mức giảm bớt khó khăn, chưa phải là tạo thực lực để hộ nghèo có đủ khả năng vươn lên thoát nghèo. Đồng thời, đề xuất được giải pháp giảm nghèo bền vững và khi triển khai thực hiện ý tưởng trên cũng góp phần đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể đi vào thực chất, hiệu quả.

– Về hiệu quả kinh tế: Việc đầu tư nguồn lực của tỉnh cho công tác giảm nghèo hằng năm là rất lớn, nhưng chưa hiệu quả, tỷ lệ hộ nghèo và tái nghèo còn cao. Nếu tập trung thực hiện nhiệm vụ trên, huy động được nguồn lực và xã hội hóa là chủ yếu để giảm nghèo, mỗi năm giảm bền vững thêm từ 2 – 3 nghìn hộ nghèo; nếu so sánh với cách làm cũ thì phải đầu tư từ ngân sách hàng trăm tỷ đồng mỗi năm; đồng thời, kinh tế hộ phát triển, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.

– Về hiệu quả xã hội: Huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành và các đoàn thể trong công tác giảm nghèo, tạo hiệu ứng tốt trong xã hội, góp phần thực hiện vượt chỉ tiêu giảm hộ nghèo mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đã đặt ra; đồng thời, tăng cường sự gắn bó giữa các cơ quan nhà nước, đoàn thể với nhân dân, tăng niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.

Người đề xuất ý tưởng

Giải Pháp Nào Để Giảm Nghèo Bền Vững

Bài 3: Giải pháp nào để giảm nghèo bền vững?

Cần nhận diện chính xác, công bằng tình trạng nghèo

Có rất nhiều câu hỏi đặt ra trong công tác giảm nghèo thời gian qua. Trong khi cơ chế chính sách, con người, nguồn lực như nhau, nhưng có nơi tốc độ giảm nghèo nhanh, có nơi rất chậm, thậm chí số người nghèo phát sinh rất lớn. Có hay không tình trạng trục lợi chính sách?. Liệu chính sách có đến đúng đối tượng, đúng mục đích đặt ra hay không? Vì sao số huyện thoát nghèo lại ít hơn số huyện bổ sung vào danh sách huyện nghèo? Những câu hỏi này cần phải tìm được lời giải chính xác.

Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến cho rằng, cần tích hợp, thu gọn đầu mối quản lý chính sách dân tộc, tập trung vào những vấn đề căn cốt nhất như: hạ tầng, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, tạo sinh kế, đất đai, vốn, sinh kế. Nên tính đến địa bàn đặc thù, dân tộc đặc thù cho từng vùng miền cụ thể. Thời gian tới, việc phân định vùng dân tộc thiểu số, miền núi phải tính toán hợp lý, khoa học, đảm bảo khách quan, công bằng hơn để làm cơ sở triển khai chính sách dân tộc, đảm bảo đúng đối tượng, hiệu quả.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân yêu cầu: các cấp chính quyền cần nhận diện chính xác, công bằng tình trạng nghèo của địa phương mình để tìm ra giải pháp phù hợp. Thời gian tới, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức của toàn xã hội và các cấp chính quyền, không thể trông chờ, ỷ lại vào nguồn ngân sách của nhà nước; làm rõ nguyên nhân của tình trạng nhiều hộ không muốn thoát nghèo; cần nhân rộng các mô hình thoát nghèo hiệu quả…

Nhân rộng các mô hình giảm nghèo theo chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội là rất quan trọng. Đơn cử như mô hình “3 công chức giúp một hộ thoát nghèo” ở huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam là cách làm đầy sáng tạo, hiệu quả. Cái hay là các hộ tự nguyện đăng ký thoát nghèo. Từ đầu năm 2015, huyện Nam Trà My triển khai cuộc vận động “3 công chức, lao động giúp một hộ thoát nghèo”. Trong năm 2015, có gần 400 hộ ở 10 xã đăng ký thoát nghèo và có 150 hộ cận nghèo đăng ký thoát nghèo vượt trên chuẩn cận nghèo. Với sự hỗ trợ của chính quyền huyện và sự hướng dẫn có trách nhiệm của các công chức, viên chức, trong năm 2015, toàn huyện đã có 435 hộ thoát nghèo… Năm 2018, huyện Nam Trà My đặt ra chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 7-8% trên toàn huyện và đã có 244 hộ đăng ký thoát nghèo trong đợt I.

Can thiệp có mục tiêu

Cùng với những giải pháp trên, Việt Nam cần tranh thủ sự hỗ trợ có hiệu quả của cộng đồng quốc tế. Những khuyến nghị của cộng đồng quốc tế là bài học quý cho Việt Nam trong công tác giảm nghèo.

Xóa nghèo cùng cực và thúc đẩy sự thịnh vượng chung là hai mục tiêu của Ngân hàng Thế giới nhằm hỗ trợ các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo Báo cáo cập nhật về đói nghèo và thịnh vượng chung ở Việt Nam năm 2018 được công bố bởi Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Thế giới khuyến nghị: Việt Nam cần nâng cao năng suất lao động và đầu tư vào cơ sở hạ tầng để duy trì việc làm và tăng lương mà không giảm khả năng cạnh tranh; thực hiện cải cách giáo dục nhằm đảm bảo sự công bằng trong các cơ hội và phát triển kỹ năng của lực lượng lao động; đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp thông qua thay đổi mô hình sử dụng đất nông nghiệp; tăng cường quyền sử dụng đất và nâng cao kỹ năng cho nông dân nghèo…

Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đã chỉ ra: Chương trình giảm nghèo đang thay đổi chứ không đứng yên. Khi thoát nghèo, khát vọng của người dân thay đổi, chuyển trọng tâm từ chỗ chỉ đơn thuần là ăn no mặc ấm, đến mục tiêu kiếm đủ tiền để đảm bảo về kinh tế và sống cuộc sống của tầng lớp trung lưu. Điều này lại đòi hỏi thu nhập trong tương lai thậm chí phải tăng với tốc độ cao hơn. Chương trình nghị sự không chỉ là tạo công ăn việc làm, mà tạo việc làm và cơ hội kinh tế tốt hơn. Cần hỗ trợ người nghèo phát triển kinh tế tư nhân, sáng tạo và công nghệ, có thể giúp đánh thức tiềm năng. Ngay cả khi đa số mối quan tâm của người dân chuyển sang nâng cao chất lượng cuộc sống, nên phải lưu tâm hỗ trợ người nghèo những gì thật cần thiết và thực hiện các can thiệp có mục tiêu, đem lại hy vọng và tạo cơ hội để người nghèo cũng có thể hưởng lợi từ những tiến bộ chung trong xã hội.

Đồng thời, thực hiện những đầu tư cơ sở hạ tầng để kết nối người nghèo với các cơ hội kinh tế tốt hơn. Tiếp tục tái cơ cấu nông nghiệp để người nghèo ở nông thôn, đặc biệt là ở miền núi, có thể trồng trọt hoặc tham gia các hoạt động nông nghiệp mang lại giá trị cao nhất ở đó. Cần tạo cơ hội để trẻ em từ mọi thành phần có cơ hội được học tập vui chơi và vươn lên phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học tốt và xây dựng các kỹ năng để sinh viên ra trường có công việc tốt trong tương lai…

Công cuộc giảm nghèo còn dài và không ít những gian nan. Khi cả hệ thống chính trị chung tay cùng với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, Việt Nam cần nhận diện chính xác tình trạng nghèo để có bước đi hiệu quả…

Các cấp chính quyền cần nhận diện chính xác, công bằng tình trạng nghèo của địa phương mình để tìm ra giải pháp phù hợp. Thời gian tới, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức của toàn xã hội và các cấp chính quyền, không thể trông chờ, ỷ lại vào nguồn ngân sách của nhà nước; làm rõ nguyên nhân tình trạng nhiều hộ không muốn thoát nghèo; cần nhân rộng các mô hình thoát nghèo hiệu quả…” (Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân)

THANH HUYỀN