Top 7 # Giải Pháp Giáo Dục Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Những Giải Pháp Về Giáo Dục

Phát biểu tại hội trường, đại biểu Nguyễn Lân Hiếu (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang) dẫn lại báo cáo của Chính phủ, trong đó có đánh giá chất lượng giáo dục đại học còn chưa cao, cơ cấu chưa hợp lý, biên chế giáo viên còn thừa thiếu cục bộ, sai phạm trong kỳ thi phổ thông quốc gia, vấn đề sách giáo khoa… gây ra bức xúc trong dư luận.

“Các thiếu sót này đa phần đã được nêu ra từ các báo cáo trước đây và đợt này cá biệt có một số vấn đề như trong 9 tháng vừa qua, một loạt vụ gian lận thi cử trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2018 và tình trạng bất ổn trong thị trường phát hành sách giáo khoa cho học sinh phổ thông. Chính phủ cũng đưa ra một số giải pháp trong thời gian tới, tuy nhiên theo tôi, những giải pháp này còn chưa có tính đột phá vì vẫn gần giống như các giải pháp đã nêu từ kỳ họp trước” – đại biểu Hiếu nói.

Đại biểu cho rằng cần phân tích chính xác nguyên nhân gây bất cập, thiếu sót vừa xảy ra để tìm ra mắt xích bị lỗi trong quá trình vận hành. Đơn cử như trong báo cáo thẩm tra của Quốc hội đánh giá quy trình chung kỳ thi trung học phổ thông năm 2018 đã được xây dựng chặt chẽ, quy chế thi được ban hành đầy đủ nhưng vẫn còn sơ hở trong bảo mật.

“Vậy ai là người chịu trách nhiệm trong sơ hở này? Hay là lỗi khách quan, lỗi do quy trình?” – Đại biểu đặt câu hỏi, đồng thời đề nghị phải chỉ rõ ra cá nhân nào trực tiếp chịu trách nhiệm thì mới đề ra được biện pháp khắc phục hiệu quả, cũng như lấy được lòng tin của nhân dân.

“Trong thực tế, khi tìm ra trách nhiệm chính của một sai phạm, xử lý nghiêm thì sai phạm ấy mới không bị tái phạm trong lĩnh vực ấy, trong địa phương ấy, cũng như trên phạm vi cả nước” – đại biểu Hiếu nói. Bên cạnh đó, các biện pháp tăng cường kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh được chúng ta nhắc lại rất nhiều lần nhưng hiệu quả chưa cao, chưa giải quyết được những thiếu sót hạn chế đã và đang tồn tại trong hệ thống giáo dục, cũng như y tế.

Đại biểu mong muốn trong thời gian tới, Chính phủ có sự quan tâm hơn nữa đến 2 lĩnh vực an sinh xã hội quan trọng là giáo dục, y tế. Như theo báo cáo của Chính phủ, chúng ta đã có sự thành công rất đáng được ghi nhận trong phát triển kinh tế. Khi người dân căn bản “có cơm ăn, áo mặc” thì người dân quan tâm nhất chính là bảo đảm sức khỏe của mình, người thân trong gia đình mình, có chăm lo việc học tập cho con em. Đại biểu mong Chính phủ tăng cường đầu tư và theo dõi, giám sát để nâng cao chất lượng hai lĩnh vực này, để nguồn ngoại tệ khổng lồ chảy ra nước ngoài phục vụ cho việc chữa bệnh và du học ngày càng giảm theo thời gian. Chính phủ nên thống kê con số này, lấy làm chỉ tiêu để định hướng cho việc phát triển bền vững.

Về vấn đề sách giáo khoa phổ thông, đại biểu Cao Đình Thưởng (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Thọ) đề nghị cả nước cùng dùng chung 1 bộ sách giáo khoa còn lại là sách tham khảo, sách nâng cao cho những đối tượng cần thiết. “Không nên một chương trình có nhiều bộ sách giáo khoa. Bởi nhiều là bao nhiêu, không khéo dễ bị lạm dụng. Điều này chỉ thích hợp với tương lai. Chúng ta cần hội nhập nhưng cũng cần giữ gìn bản sắc dân tộc bởi mỗi công dân Việt Nam là người Việt Nam”, đại biểu đề nghị.

Theo TTXVN

Giải Pháp Âm Thanh Giáo Dục

Mô tả

Trong tất cả các cơ sở giáo dục bậc đại học, cao đẳng thì các trường thường sử dụng các thiết bị giáo dục cho các buổi lên lớp, thuyết trình, sự kiện chuyên ngành. Từ lớp học, giảng đường đến các hội trường. Để có một tiết học hiệu quả cũng như một bài giảng được tiếp thu một cách tối đa thì giải pháp âm thanh giáo dục, đặc biệt là ở các trường đại học, cao đẳng là rất quan trọng.

Trong lớp học và giảng đường, việc tiếp thu, tiếp nhận kiến thức hiệu quả được dựa trên lời nói, sự truyền đạt của giảng viên qua âm thanh và sự lắng nghe, tiếp nhận của các học viên. Nghiên cứu cho thấy rằng việc sử dụng các hệ thống âm thanh chuyên nghiệp trong các lớp học cung cấp một loạt các lợi ích, bao gồm cải thiện sự hiểu biết, giảm mệt mỏi, giảm căng thẳng cho giáo viên và hiệu suất học tập tốt hơn.

Phòng học có kích thước và hình dạng đa dạng, phẳng hoặc theo từng cấp chỗ ngồi, trần cao, mặt bàn, sàn cứng và số lượng sinh viên trong phòng là một trong nhiều yếu tố mà trong thiết kế giải pháp âm thanh giáo dục Sonus Việt Nam đặc biệt lưu ý, Nó quyết định thành công của giải pháp cũng như dự án âm thanh của chúng ta.

Đối với các lớp học tiêu chuẩn, sử dụng một hệ thống âm thanh phân phối với một mẫu loa âm trần cải thiện đáng kể thông tin liên lạc và hiểu. Loa treo tường có thể được thêm vào các lớp học lớn hơn và không gian nhà hát kiểu để cải thiện bảo hiểm, đặc biệt là ở các khu vực trần cao, nơi ở trần loa một mình có thể không đủ hoặc không thực tế. Đối với các giảng đường, phòng học với phản xạ âm thanh khó khăn hoặc tăng bậc thang chỗ ngồi, loa JBL CBT Series có thể cung cấp một khối lượng mịn và thậm chí cả các âm thanh cho tất cả mọi người trong phòng. Những giải pháp âm thanh phòng học này là cơ sở để nhà quản lý giáo dục điều chỉnh cũng như cung cấp một môi trường học tập thoải mái và hiệu quả.

Quý khách hàng quan tâm đến giải pháp âm thanh giáo dục của sonusvietnam.com.vn hãy gọi ngay vào hotline 04 6650 8420 hoặc trực tiếp đến văn phòng giao dịch của chúng tôi để được tư vấn cũng như báo giá tốt nhất cho dự án của bạn.

7 Giải Pháp Đổi Mới Giáo Dục

Để GD thực hiện được sứ mạng vẻ vang của mình, Đại hội XI của Đảng đã yêu cầu “đổi mới căn bản và toàn diện GD và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội”. Tuy văn kiện Đaị hội không sử dụng cụm từ “cải cách GD” nhưng “đổi mới căn bản và toàn diện” thực chất là cải cách.

1. Đổi mới triết lý GD

Theo chúng tôi Nguyễn Minh Thuyết vàPGS.TS Hoàng Hòa Bình, đầu tiên là phải đổi mới Triết lý Giáo dục

Theo chúng tôi, GD Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới phải là một nền GD thực học, khai phóng và dân chủ.

Trước hết, nói về . Về cơ cấu ngành nghề, thực học có nghĩa là ưu tiên phát triển nguồn nhân lực trong những ngành kinh tế – kỹ thuật có tính ứng dụng cao. Nước ta còn nghèo, lại là nước đi sau và muốn nhanh chóng bắt kịp các nước đi trước nên không thể phát triển dàn trải. Trong vòng 50 năm tới, cần tập trung đào tạo nhân lực cho những ngành trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, có khả năng tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đối với các ngành khoa học cơ bản, bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu nâng cao dân trí, chỉ cần đầu tư đào tạo số lượng ít những người thực sự có năng khiếu, sở trường để bồi dưỡng nhân tài.

Về nội dung dạy và học, thực học có nghĩa là từ bỏ những kiến thức thuần tuý sách vở, hàn lâm, tập trung vào việc hình thành những tri thức và kỹ năng thiết thực đối với sản xuất, kinh doanh và đời sống.

Về phương pháp dạy và học, thực học có nghĩa là tăng cường thời gian thực hành cho người học, gắn kết trường học với đơn vị sử dụng lao động để người học có điều kiện vừa học vừa làm. Ở CHLB Đức, việc đào tạo kỹ sư thực hành và công nhân thường có sự liên kết giữa nhà nước và doanh nghiệp theo tỷ lệ doanh nghiệp bỏ ra 70%, nhà nước 30% tổng chi phí đào tạo. Trong quá trình đào tạo, học sinh có 70% thời gian học tại doanh nghiệp, 30% tại trường. Thời gian học tại doanh nghiệp, học sinh được tiếp cận với toàn bộ thiết bị, công nghệ mới, thậm chí được doanh nghiệp trả lương khi đáp ứng được yêu cầu của cong việc. Đây là một kinh nghiệm quý nên được tham khảo.

Thứ hai, nói về Trên phương diện tổ chức hệ thống giáo dục, dân chủđồng nghĩa với xã hội hoá, nhưng xét về mặt thuật ngữ thì sử dụng thuật ngữ dân chủ hợp lí hơn.

Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng xã hội hóa (socialisation) là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học, được định nghĩa là quá trình con người liên tục tiếp thu văn hóa vào nhân cách của mình để sống trong xã hội như là một thành viên của xã hội ấy.

Xã hội hoá trước tiên được thực hiện trong gia đình, rồi được tiếp tục thực hiện trong nhà trường và các nhóm xã hội – nghề nghiệp. Giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường thường làm công việc xã hội hoá trước (anticipatory socialisation); trong nhiều trường hợp, nhất là khi đã vào đời hoặc sống trong những hoàn cảnh đặc biệt, người ta phải đào thải một số giá trị cũ, tiếp thu những giá trị mới để hoàn thiện bản thân, tức là được xã hội hoá lại (resocialisation).

Để tránh hiểu ngược với cách hiểu đã phổ biến từ lâu trong nhân loại học và xã hội học, chúng ta cần thay thuật ngữ xã hội hoá trong cụm từ xã hội hoá giáo dụcbằng thuật ngữ dân chủ (hoặc dân chủ hoá) và hiểu dân chủ có nghĩa là người dân tham gia phát triển giáo dục, quản lý giáo dục và được tạo mọi điều kiện để hưởng thụ thành quả giáo dục.

Trên phương diện quản lý GD, dân chủ thể hiện ở quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở GD, quyền chủ động của giáo viên và quyền của người học đóng góp vào quá trình thực hiện hoạt động GD. Còn trên phương diện nội dung và phương pháp dạy học, dân chủ thể hiện không chỉ ở tư tưởng dân chủ trong nội dung GD mà còn ở sự tôn trọng người học, tạo điều kiện để người học phát triển.

Thứ ba , nói về Khai phóng là cởi mở về tư tưởng, học thuật, tạo điều kiện cho việc tiếp nhận và sáng tạo cái mới. Có khai phóng mới tạo ra được những lớp người dám nghĩ, dám làm.

Người Việt Nam chúng ta thường tiếp thu nhanh và có nhiều sáng kiến nhưng năng lực tưởng tượng không cao, do đó ít có khả năng tạo ra những bước đột phá. Từ mô hình xã hội đến phát triển kinh tế, công nghệ, chúng ta thường nhập khẩu hoặc mô phỏng sáng kiến nước ngoài.

Nguyên nhân hẳn không phải là hạn chế về năng lực tư duy mà là ở sự kìm hãm tự do tư tưởng và sự thiếu thốn về cơ sở vật chất kéo dài hàng nghìn năm từ chế độ phong kiến phương Đông cho đến trước thời kỳ Đổi mới.

Hơn lúc nào hết, đổi mới căn bản và toàn diện GD là thời cơ thuận lợi để giải phóng tư duy con người khỏi tầm nhìn hạn hẹp, tạo ra những bước ngoặt về chất lượng nhân lực, góp phần thúc đầy phanh sự phát triển của đất nước và tiến bộ của nhân loại.

2. Đổi mới cơ cấu hệ thống GD quốc dân

Hệ thống GD phổ thông kéo dài 12 năm tỏ ra không phù hợp với hoàn cảnh của đa phần người học và điều kiện kinh tế của đất nước nói chung. Theo quan điểm của chúng tôi, nên thiết kế hệ thống này theo công thức 9 + 2, tức là đại bộ phận học sinh chỉ học 9 năm, sau đó vào trường nghề; số học sinh có đủ điều kiện sẽ học 2 năm dự bị ĐH và chỉ học các môn phục vụ chuyên ngành tương lai.

Hệ thống GD chuyên nghiệp và GDDH nước ta khá rắc rối. Bên cạnh các trường trung cấp chuyên nghiệp, trường CĐ, trường ĐH do Bộ GDĐT quản lý, còn có các trường nghề do Bộ LĐTBXH quản lý, bao gồm ba trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề và CĐ nghề.

Theo chúng tôi, nhân dịp đổi mớicăn bản và toàn diện GD, chúng ta cần giải quyết những rắc rối này – những rắc rối nảy sinh không phải từ khoa học mà từ sự phân công quản lý chồng chéo.

Cũng nhân dịp này, nên xem xét khả năng khôi phục chương trình đại học hai giai đoạn với cách thực hiện linh hoạt hơn và chuyển những trường đại học chưa đủ năng lực hoạt động độc lập thành trường đại học cộng đồng trong hệ thống liên kết đào tạo với các trường lớn và được những trường này bảo trợ.

Về hình thức GD thường xuyên, cũng cần có sự nhận thức lại. Để tiến tới một xã hội học tập, trong đó người lao động có thể học bất kỳ một học phần nào để nâng cao hiểu biết và kỹ năng, phục vụ cho công việc của mình, không nên quan niệm cứng nhắc GD thường xuyên phải tổ chức thành những lớp học riêng, học phải lấy bằng, mà cần quan niệm là tuỳ điều kiện thời gian của mình và khả năng tiếp nhận của cơ sở GD, người học có thể theo học cùng sinh viên chính quy hoặc học lớp riêng.

Nhưng để đảm bảo GD thường xuyên có mặt bằng ngang với mặt bằng đào tạo chính quy, những người có nguyện vọng học lấy bằng hay tín chỉ cần thi học phần, thi tốt nghiệp chung với sinh viên chính quy.

3. Đổi mới nội dung, phương pháp GD

Theo các nhà nghiên cứu, trong GD có hai cách xây dựng chương trình là xây dựng theo định hướng nội dung (content-based approach) và xây dựng theo định hướng năng lực (competency-based approach).

Xây dựng chương trình theo định hướng nội dung là định ra trong chương trình một hệ thống các đơn vị kiến thức cần trang bị cho người học. Đây là kiểu chương trình xác định đầu vào.

Cách tiếp cận này nặng về lí thuyết, kết quả là người học có thể được trang bị kiến thức có tính hệ thống nhưng yếu về kĩ năng thực hành, đặc biệt là kĩ năng sống.

Xây dựng chương trình theo định hướng năng lực là định ra trong chương trình những phẩm chất người học cần đạt được sau mỗi giai đoạn của chương trình để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Đây là kiểu chương trình xác định đầu ra.

Việc xác định đầu ra, tức là lập danh sách những năng lực cần bồi dưỡng cho người học không dễ dàng vì nó không phải là một hệ thống có sẵn như khái niệm khoa học trong trường hợp xây dựng chương trình theo định hướng nội dung. Nhưng hiệu quả của chương trình theo định hướng năng lực là rất lớn. Nó không chỉ đáp ứng đúng yêu cầu của xã hội đối với thế hệ trẻ và đảm bảo kết quả đào tạo bền vững mà còn tiết kiệm thời gian, tiết kiệm nguồn lực trong đào tạo, đồng thời giảm áp lực làm việc, áp lực học hành đối với người dạy và người học.

Nói cho công bằng, Chương trình GDPT sau năm 2000 ở nước ta vừa qua là một bước tiến trên con đường phát triển theo định hướng năng lực nhưng thực hiện chưa được đồng bộ và triệt để do những người biên soạn chương trình chưa thoát khỏi ảnh hưởng của cách nghĩ, cách làmn cũ. Đây là điều cần được quan tâm khắc phục trong thời gian tới.

Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triến những kĩ năng này, người học phải được hoạt động trong môi trường gần với môi trường thực dưới sự hướng dẫn của người dạy. Các kiến thức có thể được tiếp thu qua lời giảng, nhưng người học chỉ làm chủ được những kiến thức này khi chiếm lĩnh chứng bằng chính hoạt động có ý thức của mình.

Cũng như vậy, những tư tưởng, tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự rèn luyện trong thực tế. Việc đổi mới phương pháp dạy học đã được đặt ra trong thời gian qua nhưng triển khai chưa có hiệu quả; càng lên cấp học cao thì phương pháp dạy học càng chậm được đổi mới. Đây là điều phải kiên quyết khắc phục trong thời gian tới.

Ý tưởng dạy học thông qua hoạt động của HS được nhà văn Pháp Michel Montaigne (1533 – 1592) nêu ra từ thế kỉ XVI trong tác phẩm Les Essais. Theo ông, người thầy cần rèn luyện cho trò trí xét đoán. Muốn đạt mục tiêu này, cách thức tốt nhất, kiến hiệu nhất không phải là thầy giảng dạy một cách giáo điều, thao thao bất tuyệt. Trái lại, thầy cần buộc học trò hoạt động, vận dụng khả năng xét đoán của mình và rèn luyện khả năng ấy trong quá trình hoạt động.

Cũng giống như muốn dạy cưỡi ngựa, phải bắt trèo lên mình ngựa, cho ngựa chạy ; muốn học ném giáo mác, phải đưa giáo mác rồi bắt ném ; muốn học đánh đàn, phải có nhạc cụ trong tay. Thực hành, thực tập đó là phương pháp độc nhất để rèn luyện trí xét đoán. Montaigne cũng chủ trương dạy học theo phương châm thoải mái, vui mà nghiêm chỉnh và sử dụng các trò chơi, cuộc giải trí làm phương tiện giáo dục.

Gần hai thế kỉ sau, tư tưởng dạy học thông qua tổ chức hoạt động được nhà văn, nhà triết học Pháp Jean-Jaques Rousseau (1712 – 1778) phát triển một cách toàn diện và sâu sắc trong cuốn tiểu thuyết Emile (còn gọi là De l’education [Về giáo dục]).

Công lao lớn nhất của Rousseau là hoá giải được sai lầm của nền giáo dục quá khứ nhìn trẻ em – đối tượng giáo dục – như người lớn thu nhỏ. Theo ông, một nền giáo dục đúng đắn phải xuất phát từ trẻ em, theo dõi quá trình phát triển của trẻ em và bước tiến tự nhiên của trái tim con người (marche naturelle au coeur humain). Ông phân chia tuổi trẻ thành bốn giai đoạn và đề xuất phương pháp giáo dục phù hợp với mỗi giai đoạn đó.

Có thể nói những tư tưởng xuất hiện rất sớm của Montaigne và Rousseau tuy còn chưa thật hoàn hảo nhưng đã đặt nền móng cho sự ra đời của phương pháp tổ chức hoạt động, một phương pháp dạy học được hoàn thiện nhờ cách tiếp cận hoạt động – nhân cách trong giáo dục học sau này.

Cùng với đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học, cũng cần sắp xếp hợp lí thời gian học trên lớp với thời gian dã ngoại, tăng tính linh hoạt của chương trình, trao quyền chủ động nhiều hơn cho nhà trường và giáo viên để đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng tri thức, rèn luyện kỹ năng cho người học.

4. Đổi mới công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo

Yếu tố quan trọng nhất, quyết định thành công của đối mới GD là giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, gọi chung là nhà giáo.

Để nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ này, trước hết, phải quan tâm tới việc đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo. Chương trình và phương pháp tổ chức đào tạo ở trường sư phạm phải thay đổi. Phải gắn kết chặt chẽ trường sư phạm với trường phổ thông, ít nhất cũng như mức độ gắn kết giữa trường Y với bệnh viện, để sinh viên có điều kiện vừa học vừa làm. Công tác bồi dưỡng thường xuyên đối với nhà giáo cũng cần được cải tiến để có hiệu quả rõ rệt hơn.

Bên cạnh đó, cần giải quyết thoả đáng vấn đề tăng thu nhập thực tế cho nhà giáo. Cần xây dựng cơ chế trả lương theo khối lượng và chất lượng công việc để những người có năng lực và toàn tâm toàn ý với nghề có thể sống được bằng nghề.

5. Đổi mới quản lý GD

Theo ý kiến chúng tôi, Bộ GDĐT cần sớm được giải phóng khỏi những việc làm thay cơ sở để tập trung hoạch định chiến lược phát triển giáo dục, ban hành các văn bản quản lý, tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm,…

Bộ GDĐT cũng cần được giao trách nhiệm quản lý việc sử dựng toàn bộ nguồn lực tài chính dành cho GD. Các cơ sở GD, kể cả trường phổ thông, cần được trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp với năng lực của mình.

Trong đợt khảo sát về GD ở Vương quốc Anh và Bắc Ai-len năm 1999, chúng tôi thấy ngay cả các trường tiểu học cũng có quyền tự chủ rất cao: giáo viên được quyền chọn tài liệu dạy học phù hợp với đặc điểm lớp mình và thường thì họ không dạy theo hẳn một bộ SGK nào; còn hiệu trưởng được quyền tuyển dụng và sa thải giáo viên; cơ quan quản lý cấp quận và thành phố chỉ đóng vai trò tư vấn và hướng dẫn chuyên môn. Nhưng hiệu trưởng và giáo viên phải chịu trách nhiệm về kết quả học tập của trường hoặc lớp mà họ phụ trách. Kết quả các kỳ thi do Cơ quan về Chương trình và Khảo thí thực hiện được công bố trên báo chí và đó là căn cứ để hội đồng GD địa phương quyết định “số phận” của những người phụ trách lớp, trường.

6. Đổi mới cơ chế tài chính GD

Điều đáng buồn là cho đến nay, chưa một tỉnh, thành phố nào trong cả nước áp dụng mức học phí mớivà chính sách hỗ trợ kinh phí cho hộ nghèo để có điều kiện đưa con tới trường

Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 35/2009/QH12 về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong GD từ năm học 2010 – 2011đến năm học 2014 – 2015. Nghị quyết gồm 6 nội dung chính, trong đó có nội dung đổi mới chính sách học phí, học bổng và hỗ trợ người học theo hướng học phí GD mầm non và phổ thông công lập phù hợp với điều kiện kinh tế của từng địa bàn dân cư, khả năng đóng góp thực tế của người dân, hướng tới miễn học phí vào thời điểm thích hợp, hỗ trợ kinh phí cho hộ nghèo có con đi học; đối với GDĐH và nghề nghiệp, học phí thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước với người học, có lộ trình thực hiện gắn liền với yêu cầu ba công khai và thực hiện kiểm định chất lượng đào tạo.

Tuy nhiên, cho đến nay, chưa một tỉnh, thành phố nào trong cả nước áp dụng mức học phí mớivà chính sách hỗ trợ kinh phí cho hộ nghèo để có điều kiện đưa con tới trường. Theo chúng tôi, Bộ GDĐT cần khảo sát thực tế để đánh giá đúng nguyên nhân của tình trạng này, từ đó trình cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện các giải pháp nêu trong Đề án, tạo điều kiện phát triển sự nghiệp GD.

7. Đổi mới kinh tế – xã hội, tạo môi trường thuận lợi để thực hiện đổi mới GD

Nguyên nhân sâu xa nhất hạn chế chất lượng GD của nước ta là nền kinh tế và thị trường lao động chưa tạo được sức hấp dẫn và áp lực buộc GD phải thay đổi. Một nền kinh tế dựa trên lắp ráp, gia công, khai khoáng, nông nghiệp cổ truyền cùng dịch vụ nhà hàng, khách sạn, mua bán đất đai thì không cần các cử nhân và kỹ sư xuất sắc. Bên cạnh đó, nền kinh tế, nhất là khu vực kinh tế nhà nước, chưa vận hành theo đúng quy luật kinh tế thị trường, từ đó đẻ ra một thị trường lao động không công bằng và một nền GD ứng thí, đi học chỉ cốt lấy bằng nhằm đáp ứng “tiêu chuẩn ‘cán bộ”, chứ không cần thực học. Cho nên, muốn cải thiện chất lượng GD thì Nhà nước phải đẩy mạnh cải cách kinh tế và đổi mới chính sách tuyển dụng, sử dụng cán bộ; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, xây dựng nếp sống văn hoá lành mạnh, nhân ái, tạo môi trường xã hội tích cực để hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp cho tuổi trẻ học đường.

Đổi mới một lĩnh vực rộng lớn như GD không phải dễ dàng, nhưng đó là công việc nhất thiết phải làm để thực hiện ước nguyện đưa dân tộc ta ”bước tới đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong bức thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam mới.

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục

Trang chủ ” Khoa giáo – Giáo dục LLCT ” Tin tức hoạt động

Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng ban Thường trực

Theo đánh giá của Bộ Giáo dục và đào tạo, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 29 – NQ/TW, ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, ngành Giáo dục đào tạo đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Ngành đã tiếp tục có những giải pháp để hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương, các cơ sở giáo dục đào tạo thực hiện tốt hơn. Các địa phương đã rà soát, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục, sáp nhập các trường tiểu học, trung học cơ sở có quy mô nhỏ thành trường đa cấp có quy mô lớn hơn; Chất lượng đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục được nâng cao. Công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên chuẩn bị cho triển khai đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông được triển khai tích cực, bài bản, toàn diện và hệ thống. Công tác bồi dưỡng thường xuyên, chuẩn nghề nghiệp đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên; Chất lượng giáo dục mầm non có nhiều chuyển biến tích cực. Chất lượng giáo dục phổ thông được nâng cao. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá. Tổ chức tốt kỳ thi trung học phổ thông quốc gia. Công tác giáo dục hướng nghiệp và định huống phân luồng học sinh chất lượng hơn. Việc lựa chọn học nghề phổ thông của học sinh đã chuyển dần theo hướng phù hợp với nhu cầu phát triển kỹ năng, phục vụ nhu cầu lao động xã hội. Giáo dục đại học theo hướng phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao; Tăng cường các giải pháp giáo dục đạo đức lối sống và phòng chống bạo lực học đường trong học sinh, sinh viên; Chất lượng dạy học ngoại ngữ được nâng cao hơn, đặc biệt là tiếng Anh ở các cấp học. Hoàn thành xây dựng khung năng lực giáo viên ngoại ngữ, bộ tiêu chí đánh giá các đơn vị tổ chức bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ.; Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý được đẩy mạnh. Cơ sở dữ liệu của các cấp học đã được thống kê. Cải cách hành chính được thục hiện một cách quyết liệt. Cơ sở vật chất bảo đảm cho giáo dục được quan tâm hơn; Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh. Các hoạt động thúc đẩy, kết nối các nhà đầu tư, các cơ sở giáo dục, chia sẻ cơ hội đầu tư và hợp tác trong lĩnh vực giáo dục. Đến nay, cả nước có tổng số 455 dự án FDI thuộc lĩnh vực GDĐT trên tổng số 27.533 dự án đầu tư nước ngoài của 19 ngành kinh tế. Nhiều cơ sở giáo dục đã tích cực hội nhập quốc tế thông qua các chương trình liên kết đào tạo nước ngoài và các chương trình trao đổi sinh viên, giảng viên và hợp tác nghiên cứu.

Bên cạnh những kết quả trên, ngành Giáo dục đào tạo vẫn còn một số hạn chế. Một số địa phương chưa quan tâm đúng mức việc quy hoạch mạng lưới trường, lớp học, còn thiếu đất cho xây dựng trường học, đặc biệt là các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu chế xuất. Một số địa phương vẫn còn tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ. Nhiều địa phương còn thiếu giáo viên mầm non theo định biên và chưa có giải pháp khắc phục triệt để. Tình trạng học sinh, sinh viên vi phạm đạo đức lối sống đang được báo động. Công tác phân luồng, hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông chưa thật sự hiệu quả. Chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thực tiễn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho giáo dục còn nhiều bất cập. Công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra còn hạn chế nhất định. Còn để xảy ra sai phạm nghiêm trọng trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2018 tại một số địa phương như Sơn La, Hòa Bình, Hà Giang.

Để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong thời gian tới, ngành giáo dục và đào tạo cần tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 29 – NQ/TW, ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó cần tập trung đồng bộ một số giải pháp sau:

Thứ nhất: Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục. Tuyên truyền về giáo dục có tác dụng tạo chuyển biến nhận thức và sự đồng thuận cho nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục. Đó là tuyên truyền về Nghị quyết 29 – NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng như các chủ trương, chính sách mới về giáo dục đào tạo; đổi mới chương trình, sách giáo khoa; giáo dục mầm non, giáo dục nghề…

Thứ hai: Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp. Đội ngũ giáo viên có vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Để thực hiện được nhiệm vụ cao cả này cần khắc phục những rào cản, bất cập hiện nay (biên chế, tiền lương…) để giáo viên yên tâm công tác, thực sự say sưa, tâm huyết với nghề. Giáo viên cần đảm bảo chuẩn theo quy định và thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng cập nhật và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Các khóa bồi dưỡng tránh dàn trải mà cần ngắn hạn, chuyên sâu và bồi dưỡng theo, sát nhu cầu thực tế, tạo động lực để giáo viên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu đổi mới.

Thứ ba: Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ quản lý giáo dục các cấp. Quản lý là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự kỷ cương, nề nếp. Cán bộ quản lý cần tổ chức thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, quy định, cũng như các chương trình, kế hoạch của cấp trên cũng như có những mô hình hay, phương pháp mới phù hợp với xu thế và tình hình thực tế tại địa phương, đơn vị. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả bộ tiêu chuẩn cán bộ quản lý cũng như đánh giá, phân loại, sử dụng, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ quản lý theo tiêu chuẩn chức danh cụ thể.

Trình duyệt của bạn không hỗ trợ HTML5 video.

Trình duyệt của bạn không hỗ trợ HTML5 video. Trình duyệt của bạn không hỗ trợ HTML5 Audio.