Top 11 # Giải Pháp Giúp Học Sinh Tự Học Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Tự Học

gặp bạn bè. Nhưng ở các em biết tự học còn có thêm nhiều niềm vui nữa. Đó là: hiểu bài, biết thêm nhiều tri thức mới, tự tạo ra sản phẩm, cảm thấy mình lớn khôn hơn, Đöùng tröôùc tình hình hoïc sinh chưa biết tự học, Toâi mong muoán laøm sao tìm ñược nguyeân nhaân vaø ñeà ra höôùng khaéc phuïc vì ñaây laø vaán ñeà caáp thieát. Vaø sau 10 naêm giaûng daïy, toâi ñaõ vaän duïng nhieàu phöông phaùp vaøo giaùo duïc cho caùc em, giuùp caùc em thaáy ñöôïc vieäc töï hoïc taäp laø caàn thieát, thaày coâ chæ laø ngöôøi hoã trôï maø thoâi. Keát quaû laø nhöõng naêm hoïc ñoù, hoïc sinh lôùp toâi ñeàu naém baét ñöôïc baøi hoïc moät caùch töï giaùc. Töø ñoù, toâi ñöa ra quyeát ñònh choïn ñeà taøi: "MOÄT SOÁ BIEÄN PHAÙP GIUÙP HOÏC SINH TÖÏ HOÏC" ñeå nghieân cöùu. II. NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: A. Những vấn đề chung: a) Giáo viên tìm hiểu nguyên nhân học sinh yếu và nhu cầu của các em: Đây là vấn đề đầu tiên khi tiến hành các giải pháp thực hiện. Biết được nguyên nhân và nhu cầu của đối tượng thì mới có những biện pháp tác động đúng đắn. Tôi tìm hiểu nguyên nhân theo các cách sau: quan sát thực tế học sinh của 5 lớp 5, lấy danh sách học sinh yếu của các lớp khác, phát phiếu kiểm, bảng hỏi, rồi phỏng vấn trực tiếp các em học sinh yếu. Với sự bùng nổ thông tin như hiện nay, các em có thể tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin và được nhiều môi trường tác động đến - tốt có, xấu có, trái chiều cũng có. Bản thân các em học sinh ngày càng thể hiện cá tính mạnh mẽ Làm sao để các em tin tưởng mình? Làm thế nào phát huy tính tích cực của các em, phát huy vốn kiến thức sẵn có? Đó cũng là nghệ thuật. Dạy học sinh tự học, người giáo viên phải biết vai trò chủ đạo của mình là cần phải làm gì. b) Rèn luyện ý chí cho học sinh: Theo tôi, người giáo viên cần phải gần gũi, thương yêu học sinh và đôi lúc cũng nên để các em tự bơi, tự lội. Có thể các em sẽ bị vấp ngã trong những bước đi đầu tiên nhưng không sao. Vì lần vấp ngã này nằm trong tầm quan sát của chúng ta, các em sẽ tự đứng dậy được và ý chí thêm mạnh mẽ. Dạy cho học sinh biết con đường thành công phải trải qua gian nan, lắm khi thất bại chứ không phải dễ dàng đạt được - Đường đời còn dài - Thất bại là mẹ thành công. Việc này, giúp các em bỏ đi tính chủ quan và mơ tưởng của mình (không phải năm trước khá thì năm nay cũng được khá, mỗi năm phải có sự thay đổi cho phù hợp. Làm như vậy, chúng ta đang xây dựng lại tư tưởng mới, suy nghĩ mới cho học sinh. Giáo viên không chỉ dạy tri thức theo sách giáo khoa mà còn phải dạy cách học, dạy cách tiếp cận tri thức, dạy cách suy nghĩ, và dạy các kỹ năng. Ví dụ: Cần phải phối hợp nhuần nhuyễn giữa hướng dẫn cách giải ở một bài cụ thể rồi suy rộng ra cách giải ở dạng điển hình (các bài tương tự các em sẽ tự làm được). Theo cách dạy mới này, bóng dáng của người thầy xem qua thì thấy có vẻ mờ nhạt hơn, bởi vì người thầy không tác động nhiều, chỉ chiếm khoảng 30%. Nhưng nghĩ kỹ, nó lại là phần then chốt. Giáo viên đã tác động bàn tay vô hình của mình vào học sinh đến nỗi các em không biết được thầy đã dạy những gì mà mình vẫn lĩnh hội được tri thức. Tôi rất tâm đắc với lời đánh giá sau: Người thầy dạy giỏi là người thầy biết giải thích; Người thầy xuất sắc là người thầy biết minh họa; Người thầy xuất chúng là người thầy biết truyền cảm hứng. Một biện pháp đơn thuần không thể có được hiệu quả cao và cũng không phải chỉ phải có thực hiện ở một lớp mà chúng ta cần phải thực hiện đồng bộ trong toàn trường, toàn xã hội và bền bỉ tác động; cần phải kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục. B. Những biện pháp cụ thể 1. Xây dựng niềm tin và hứng thú học tập: Trong khi tiến hành một công việc, yếu tố tinh thần rất quan trọng, càng vào những lúc khó khăn, con người ta mới biết mình cần phải làm gì. Việc học tập của học sinh cũng vậy. Học quả là khó khăn và gian khổ. Nếu không tìm thấy được niềm vui, không thấy được ý nghĩ của việc học thì không thể nào học tốt được. Scheckov đã từng đưa ra tổng kết về con đường thành công trong việc học tập, nghiên cứu của mình bằng câu: "Nghệ thuật học là: Ý CHÍ - TRÌNH TỰ - THỜI GIAN" Thực tế cho thấy: Học sinh có ý chí sẽ luôn tìm cách vươn lên và trong quá trình học tập, các em sẽ tự đúc rút ra kinh nghiệm cho bản thân mình. Như vậy là đã có sự thành công. Đầu tiên, tôi tạo cho học sinh một sức ép, một tâm thế thôi thúc, chuẩn bị cho việc học tập. Tôi kiểm tra, khảo sát một cách kĩ lưỡng, đưa ra những điểm số chính xác về mức độ hoàn thành bài tập của học sinh để cho các em thấy được kết quả của mình (trên thực tế điểm số rất thấp, ngay cả đối với nhiều em khá giỏi ở năm học trước). Làm như vậy để các em thấy mình cần phải bỏ công suy nghĩ thì mới đạt kết quả cao và kết quả này cho các em biết thực chất mình đang đứng ở đâu, đạt được mức độ nào. Tình cảm của các em sẽ được hun đúc nên từ những tấm gương trong những câu chuyện kể. Những câu chuyện cảm động dễ đi vào lòng các em hơn là những mệnh lệnh. Tôi đã kể cho các em nghe về tấm gương hiếu học như: Bông sen trong giếng ngọc - Cuộc đời của Mạc Đỉnh Chi; Cậu bé viết thuê của A-mi-xi - Một cậu bé con nhà công nhân thức khuya để viết thay cha, truyện kể về ý chí, cách học tập, làm việc của Bác Hồ và nhiều vĩ nhân khác trên thế giới. Giảng cho học sinh hiểu ý nghĩa của việc học tập bằng những câu danh ngôn. Chẳng hạn: Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để làm người; Học để xây dựng quê hương đất nước Quan trọng hơn, tôi đã dựa vào thực tế trong làng xóm. Nếu không học, ta sẽ không có việc làm, không có cuộc sống ổn định. Và tôi cũng lấy chính những lời tâm sự của mẹ cha các em về cuộc đời mình: Không học buồn tủi lắm; Hối hận vì ngày xưa không tiếp tục đi học; Mình như vậy nên bây giờ cũng cố gắng tạo điều kiện cho con mình học hành đầy đủ Tôi động viên tinh thần cho học sinh cảm lớp bằng cách viết lên góc bảng trong khi học sinh làm bài những cụm từ như: Cố lên; Tự suy nghĩ mới thông minh; 1 điểm của mình = 10 điểm do người khác cho; Kết quả, học sinh cũng hiểu ra được mình cần phải tự cố gắng, nếu trông chờ các bạn thì điểm cao cũng không có ý nghĩa gì. Viết lên bảng như vậy, học sinh tập trung hơn và còn có một khoảng thời gian tuy không dài nhưng cũng đủ để tĩnh tâm suy xét, chuẩn bị cho hoạt động mới một cách nhẹ nhàng, không hối hả. Phải tùy hoàn cảnh cụ thể, tạo khung cảnh giáo dục tốt làm cho học sinh ngồi trong lớp học thấy vui tươi, thích thú không nặng nề, sợ sệt. Tôi luôn lưu ý xem tài sản lớp học, chăm sóc lớp như nhà của mình để cùng nhau trang trí, là học sinh lớp 5 tôi tự cho học sinh chọn những tranh vui tươi treo trên tường có tính cách giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Giờ ra chơi, tôi tổ chức vui chơi tập thể để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và sự gần guõi thân mật giữa học sinh với giáo viên. Trong chương trình giảng dạy tôi tổ chức những buổi vui học cuối tuần trong tiết sinh hoạt với hình thức đố vui, ôn tập, hái hoa để chuẩn bị cho các kỳ khảo sát và kiểm tra học kỳ. Trong những năm qua, bằng hình thức này tôi đã ôn tập cho các em thi đạt kết quả cao, và các em cũng vui thích tham gia tích cực cho phong trào của lớp sôi động trong các hoạt động ngoại khóa như thi kể chuyện, thời trang, vẽ tranh, hát . Vì vậy cứ đến ngày cuối tuần là các em rất buồn vì sắp phải xa không khí học tập, hứng thú ấy và mong gặp nhau trong những tuần học tới. 2. Lập nhật ký học tập: Học tập cũng phải mang tính khoa học, cần phải có trình tự, cần phải có sự đánh giá kết quả và đưa ra hướng học tập mới thích hợp. Ai là người đánh giá quá trình học của các em? - Đó là giáo viên, là bạn bè, là phụ huynh. Nhưng quan trọng hơn đó là chính bản thân các em. Bởi vì các em là chủ thể của hoạt động. Khi các em biết đánh giá chính bản thân mình thì không còn điều gì khó khăn trong học tập nữa, các em sẽ tự điều chỉnh mình. Đó là vấn đề mà các lực lượng giáo dục đang mong mỏi. Tôi cho học sinh viết "Nhật ký học tập". Việc làm này có nhiều em rất thích bởi vì các em đó có sự tự tin. Nhưng nhiều em ban đầu rất sợ viết vì trong đó có nêu cả những việc chưa làm được của chính mình rồi từ đó khắc phục. Sau một thời gian, các em biết cách ghi và có nhiều tiến bộ. Các em biết mình còn thiếu kiến thức nào rồi tìm cách học lại kiến thức đó. Khi đến trường, các em tự tin hơn, không phải thụ động như trước mà chủ động tiếp thu kiến thức và thực hành. Tôi động viên các em viết nhật ký hàng ngày. Cuối mỗi tuần, các em đưa cho cha mẹ xem rồi nộp lại cho tôi nhận xét. Những lời nhận xét ngắn gọn nhưng rõ ràng, đúng trọng tâm vấn đề có tác dụng rất lớn. Trong nhiều năm đi dạy, tôi thấy: ghi nhận xét và lời động viên ra giấy để các em đọc có tác dụng và hiệu quả hơn lời nói trực tiếp. Các em vui mừng trao cho nhau đọc những lời nhận xét; và cũng có nhiều em xấu hổ không dám để các bạn đọc. Cả hai đều có tác dụng tốt, tạo động lực cho các em phấn đấu. Nhật ký học tập Trang 1: Điều kiện học tập của em: Trang 2: Kế hoạch học tập (Dựa vào thời khóa biểu trong ngày để lên kế hoạch; ghi thời gian nghỉ ngơi, phụ giúp gia đình) 3. Hướng dẫn cách học tốt cho từng môn Mỗi môn học có những yêu cầu riêng và cần phải có cách học riêng thì mới có hiệu quả. Bất cứ một môn học nào, tôi cũng cố gắng tạo một hứng thú, một bất ngờ về nội dung mà nó cung cấp để cho các em thấy nội dung thật lý thú, chứ không phải là dạy xong nội dung này rồi sang nội dung khác. Việc củng cố nội dung ở từng bài tập cũng được tôi áp dụng trước khi chuyển sang bài tập khác. * Phân môn tập làm văn: Cả lớp cùng nhận xét bài văn để rút kinh nghiệm; hoặc có khi tôi viết một câu văn hay của một học sinh nào đó lên bảng rồi mỗi em viết thêm một câu khác sao cho mạch nội dung được liên tục. Làm được điều này, học sinh sẽ rất nhanh trí và phải tích cực động não, các em học được nhiều cái hay ở mỗi bạn. * Ở các môn Khoa học, Địa Lý, Lịch sử: Tôi thường ghi một câu lệnh lên bảng. Chẳng hạn: Tự nghiên cứu vấn đề này trong 5 phút; và tôi thường nêu những câu hỏi trước để cho học nghiên cứu. Làm như thế, tất cả học sinh đều phải tự mình làm việc. Dần dần, học sinh sẽ rèn được kĩ năng đọc - đọc là phải hiểu, phải nắm bắt được những yếu tố trọng tâm. * Ở môn Toán: Do học sinh quên nhiều kiến thức cũ nên tôi đã ôn lại cặn kẽ các kiến thức ấy. Ở những dạng toán có lời văn, tôi thường hay ghi đề bài lên bảng và hỏi học sinh: Chúng ta cần chú ý vào những từ ngữ nào? Tôi cũng ghi lên góc bảng cách suy nghĩ một bài toán: Bài toán hỏi gì? Bài toán cho biết điều gì, mối quan hệ? Muốn tìm được điều này thì ta tìm điều gì trước và bằng cách nào? Tôi hướng học sinh tập trung chú ý vào những từ ngữ then chốt, dựa trên những từ ngữ này mà giải bài tập chứ tôi không vội vàng giảng giải các bước. Và dần dần, học sinh cũng biết cách đọc đề, cũng biết suy luận. 4. Phối hợp cùng phụ huynh, tạo môi trường giáo dục tốt: Gia đình là nơi gần gũi với các em nhất, việc biết cách dạy con của cha mẹ đóng góp một phần quan trọng cho việc thành công. Đổi mới nội dung cuộc họp phụ huynh là điều cần thiết. Cha mẹ học sinh sẽ thực sự là một lực lượng giáo dục quan trọng và hiệu quả. Cho nên, trong những cuộc gặp mặt, những lần họp phụ huynh, tôi đều lồng ghép nội dung, cách giáo dục con em họ. Cụ thể là: ñònh höôùng cho phuï huynh veà caùch giaùo duïc tình caûm, cách quaûn lyù thôøi gian ôû nhaø cuûa con em mình; cách dạy tự học và lồng ghép các yêu cầu của thời đại, câu chuyện giáo dục ở một số nước tiên tiến Tôi cũng đề nghị phụ huynh nên tạo không gian tự học tại nhà cho học sinh. Đó là một nơi yên tĩnh, thoáng mát. Ngồi tĩnh tâm mới có thể tập trung suy nghĩ và rèn luyện được trí nhớ. 5. Giáo dục kĩ năng tư duy độc lập, tư duy nhóm. Học sinh có nhiều nguồn tri thức khác nhau lấy từ thực tế cuộc sống, từ gia đình, bạn bè, xã hội nên tôi đã chú ý tới việc học theo nhóm tại nhà. Đầu tiên, tôi hướng dẫn cách học theo nhóm, hướng dẫn cách hướng dẫn cho các bạn. Vì tôi hiểu: "Học thầy không tày học bạn", "Biết dạy người khác là học hai lần". Dạy học sinh rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng diễn giải. Tôi gọi học sinh lên lớp giảng giải về vấn trong đề bài học. Qua quan sát, tôi thấy các em có hứng thú hơn khi tôi trực tiếp giảng. Em học sinh đứng lên giảng sẽ rèn được tính tự tự tin còn các em ở dưới mong ước mình cũng giảng bài được như bạn, từ đó mà cố gắng phấn đấu. Các em học kém, yếu có tâm trạng sợ sệt, không tự tin làm bài. Sau khi kiểm tra chất lượng đầu năm nắm được tình hình học tập của từng em trong lớp mình, tôi phân cụ thể cho những em học giỏi hỗ trợ các em yếu kém cùng tiến bộ tạo thành một phong trào "Đôi bạn cùng tiến" Khi phân công làm việc này, tôi phải liên hệ gia đình các em để nhờ sự hỗ trợ, kiểm soát việc học tập của các em ở nhà, tôi lập phiếu theo dõi và đưa ra những hướng dẫn , biện pháp để các em học tập ở nhà dưới sự quản lý của nhóm trưởng. Hàng tháng đều phải đúc kết việc phong trào "Đôi bạn cùng tiến" baèng moät baøi kieåm tra daønh cho hoïc sinh yeáu. III. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN 1. Kết quả : Trong 10 năm đầu tôi đi dạy, có khi tôi dạy hai lớp trong một năm, học sinh lớp tôi đã biết tự học và sẵn sàng học ở các lớp sau. Đó là điều thành công lớn nhất và tôi cảm thấy thích điều này. Phụ huynh cũng hiểu được cách dáo dục con cái từ đó mà nhân rộng ra toàn xã hội. Đồng thời cũng tạo được sự tin tưởng ở phụ huynh. Vì bây giờ, trong ngành Giáo dục cũng có nhiều đáng phải bàn. 2. Bài học kinh nghiệm : Muốn việc giáo dục tự học được thành công, giáo viên cần phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với Đoàn thể, với địa phương, tạo những điều kiện, môi trường giáo dục tốt. Quan trọng hơn là phối hợp giáo viên toàn trường để có được phương pháp dạy đồng bộ. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp qua các phong trào. Tạo cho các em động cơ ham học, trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, biết lắng nghe ý kiến học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp . Nên tổ chức vui chơi tập thể trong các giờ ra chơi, giờ sinh hoạt lớp để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và giáo viên. Trong chương trình giảng dạy nên tổ chức những buổi vui học, học vui dưới hình thức ôn tập. 3. Hướng phát triển của đề tài: Tôi tin rằng đề tài của tôi hoàn toàn có thể áp dụng đặc biệt là về phía phụ huynh. Phụ huynh hoàn toàn có thể tham gia vào việc giáo dục con em mình theo các cách mà tôi đã nêu. Như vậy là ta đã có thêm một lực lượng tham gia vào giáo dục có hiệu quả. IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ: Phía nhà trường cần phải có những kế hoạch cho tất cả giáo viên thực hiện một cách đồng bộ. Vì cả trường thực hiện thì sẽ thành công hơn. Đối với ngành, sau này, khi thay sách, đổi mới chương trình cần đưa những nội dung giáo dục tình cảm là chính. Mặc dù đó là những câu chuyện quá cũ không hiện đại nhưng đối với học sinh đó vẫn là một điều mới mẻ. Hơn nữa, tiểu học là bậc nền tảng, chúng ta chỉ cần xây dựng vững chắc nền tảng là đã thành công, sự phát triển sẽ dành cho ở các bậc học, cấp học sau. Khi học sinh đã được hun đúc những tình cảm, ý chí thì tự các em sẽ tìm hiểu nền tri thức của nhân loại để phát triển mà không cần chúng ta phải khổ công hướng dẫn. Cùng với việc thay đổi nội dung sách giáo khoa. Chúng ta cần thay đổi thời gian dạy học. Vẫn chia thành 4 kì. Học xong mỗi kì, ta sẽ ôn tập 2 tuần rồi mới thi. Hiện nay, chúng ta đã tăng thời gian học lên rất nhiều bằng cách học ngày 2 buổi. Vậy ta chỉ tăng thêm 2 tuần thì có ý nghĩa gì hay không? Theo tôi là rất lớn. Học sinh đến trường trong 2 tuần này sẽ có một tâm thế khác. Vì nội dung học các em chưa biết trước - do giáo viên tự quyết định kế hoạch giảng dạy của mình: có thể là kể chuyện, tâm sự, thầy trò vui vây bên nhau, có thể là giáo dục kĩ năng sống, có thể là tự suy nghĩa về những gì mình học được, làm được, chưa làm được để đưa ra phương hướng cho kì học tiếp theo, cũng có thể là ôn tập, Các em không bị áp lực. Đây là khoảng thời gian các em hồi tĩnh - rất cần thiết - không ai có thể tiến lên mà không ngừng lại nghỉ ngơi. Hơn nữa, giáo viên chủ nhiệm là người hiểu học sinh của mình nhất, hiểu các em còn khuyết chỗ nào, mạnh chỗ nào và cần những gì, Từ đó đưa ra nội dung ôn tập phù hợp. Như vậy là học sinh sẽ có thời gian tự học. Phía xã hội và phía phụ huynh nên coi sự nghiệp giáo dục cũng là việc của mình. Trong các cuộc họp khu phố, thôn xóm nên cùng nhau bàn bạc, lồng ghép nội dung, cách thức giáo dục con em mình. Phước Dân, ngày 16 tháng 3 năm 2015 NGƯỜI VIẾT Phaïm Huy Chöông Nhận xét của Hội Đồng Sáng kiến cơ sở Trường Tiểu học Vĩnh Thuận Chủ tịch ------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ -------------------------------------------------------------------------------------------------

Những Giải Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán

KÍNH CHÀO QUÝ LÃNH ĐẠO CÙNG TẤT CẢ QÚY THẦY CÔ VỀ THAM DỰ GIÁO VIỆN DẠY GIỎI VÒNG HUYỆN CẤP TIỂU HỌC

VÒNG 2: TRÌNH BÀY GIẢI PHÁP

NĂM HỌC: 2020 – 2021NHỮNG GIẢI PHÁP DẠY HỌC GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TỐT MÔN TOÁN

GIÁO VIÊN: HỒ THANH NGẠT

Với những học sinh chậm tiến môn toán thường làm toán rất chậm, tư duy không bằng các em khác, tôi thường giảng giải thêm, cho làm bài với lượng ít hơn những học sinh khác. Khi các em làm bài tôi thường quan sát, theo dõi để hướng dẫn thêm, giảng thêm những chỗ các em còn lúng túng, tính toán sai. Đối với những bài toán có lời văn, tôi thường cho các em đọc đề nhiều lần, gợi ý để các em phân tích được bài toán. Tôi thường dùng các loại sơ đồ, hình vẽ… để các em dễ hiểu bài toán hơn từ đó các em thực hiện được việc giải bài toán. Phát động phong trào “Đôi bạn cùng tiến”, tôi đã xếp chỗ ngồi cho 1 HS khá giỏi ngồi bên cạnh 1 HS chậm tiến và giao nhịêm vụ kèm cặp, giúp đỡ các bạn chậm tiến để cùng tiến bộ. Khi có những bài toán mà bạn chưa hiểu hoặc tính toán sai phải giảng cho bạn nghe, gợi ý để cho bạn tự làm. Phong trào học nhóm ở nhà, cứ 2-3 học sinh gần nhà nhau có thể đến nhà nhau để cùng học, em khá giỏi giúp đỡ bạn chậm tiến. Kết hợp với Tổng phụ trách đội, liên đội để giúp đỡ những HS chậm tiến, HS có hoàn cảnh khó khăn. Tạo điều kiện để các em có thời gian đi học đều và có đầy đủ đồ dùng học tập. Động viên khuyến khích các em khi có những tiến bộ, cố gắng. Mặc dù những tiến bộ nhỏ tôi vẫn động viên kịp thời để các em phấn khởi và hứng thú học tập. Dạy phụ đạo ngoài giờ là một việc làm không thể thiếu đối với những HS chậm tiến. Vào những ngày ít tiết tôi dành thời gian phụ đạo thêm 30 phút cho các em chậm tiến.

Hàng tháng, tôi kiểm tra để nắm tình hình đồng thời báo cho phụ huynh học sinh biết những biểu hiện tiến bộ hay không tiến bộ của con em mình cho phụ huynh biết. Tuyên dương những HS thực hiện tốt phong trào “Đôi bạn cùng tiến”, phong trào “Học nhóm ở nhà”. Cuối tháng động viên khuyến khích bằng những lời tuyên dương trước lớp hay là bằng một lời khen… Một yếu tố quan trọng không kém đó là lòng nhiệt tình, sự gần gũi, tình yêu thương của giáo viên dành cho học sinh. Tôi luôn tin tưởng vào HS, tin tưởng vào sản phẩm của mình, từ sự tự tin và lòng nhiệt tình đó của giáo viên đã làm cho HS thấy được trách nhiệm của mình, trách nhiệm với bản thân, với thầy cô từ đó vượt qua nhiều khó khăn thử thách vươn lên trong học tập. Tuy những giải pháp mà bản thân tôi vừa nêu không to lớn lắm. Nhưng nó chứa đựng nhiều tình cảm, sự yêu thương và lòng nhiệt huyết dành cho HS.

Một Số Giải Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Hơn Môn Mĩ Thuật Ở Cấp Học Tiểu Học

Như chúng ta đã biết “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đó là mục tiêu của Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra, nhằm để đáp ứng được mục đích yêu cầu của giáo dục nước nhà. Đưa nền giáo dục nước nhà xứng tầm với quốc tế, thì việc đầu tiên là phải tìm ra những biện pháp, giải pháp cụ thể về Chân – Thiện -Mĩ giúp học sinh có cái nhìn bao quát chung và học tốt hơn, hiểu hơn về cái đẹp Môn Mĩ thuật ở bậc học tiểu học .

Cùng với sự phát triển của giáo dục hiện nay, cộng thêm sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam. Thì việc đưa môn Mĩ thuật vào trong 9 môn học bắt buộc trong nhà trường là rất quan trọng và cần thiết. Nhằm giáo dục thẩm mĩ cho học sinh trong những năm đầu đi học, và từng bước giúp học sinh hòa nhập thế giới xung quanh, cũng như biết suy xét và mong muốn làm theo cái đẹp chính là giúp học sinh tự hoàn thiện mình, và có tính độc lập cho bản thân để có nền tảng cho những nhân tài của đất nước, cũng như trở thành những công dân có ích cho xã hội. Giúp xã hội ngày càng vươn cao và vươn xa hơn nữa trong giáo dục thì việc hòa nhập với Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước cùng góp phần làm nên một xã hội vững mạnh, văn minh và giàu đẹp hơn.

Là người giáo viên dạy Mĩ thuật, tôi luôn mong với kiến thức của mình có thể giúp học sinh nhìn nhận và thể hiện cái đẹp thông qua các bài vẽ làm sao cho đúng và giống với mẫu hơn. Cũng như giúp các em tìm hiểu thêm về những cảnh thiên nhiên mà học sinh thấy được từ thực tế, từ những cuộc đi tham quan những danh lam thắng cảnh muôn màu, muôn vẻ mà vốn có từ trên mọi miền đất nước Việt Nam cũng như những cảnh vật xung quanh nơi mà học sinh sinh sống và học tập. Bên cạnh đó tôi muốn giúp học sinh nhận biết được những điều thú vị từ những dáng đi của các con vật cũng như những nét vẽ tự tin và hồn nhiên, ngây thơ của học sinh. là giáo viên dạy môn Mĩ thuật tôi rất trăn trở là làm sao để giúp học sinh có trí tưởng tượng phong phú và có óc sáng tạo, độc lập trong học tập, giúp cho các em có được sự tự tin trong cái nhìn tổng thể về cái đẹp từ thế giới thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Giúp cho học sinh vẽ được đúng, đẹp theo mẫu, cũng như là học sinh hiểu được cách chọn nội dung trong tiết vẽ tranh đề tài sao cho phong phú và biết cách vẽ hình ảnh chính, phụ trong bức tranh để cho nổi rõ được về hình cũng như màu sắc trong tranh. Song cũng nhằm giúp cho học sinh tìm hiểu thêm về các hoạ sĩ lớn trong làng hội hoạ Việt Nam cũng như trên thế giới chẳng hạn như phân môn thưởng thức mĩ thuật và tạo đựơc những gam màu đẹp cũng như tìm ra được những hoạ tiết phong phú và đa dạng trong tiết vẽ trang trí. Là giáo viên nhiều năm giảng dạy, được học hỏi ở thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp với chút kinh nghiệm tích lũy được xuất phát từ thực tế cũng như những gì tôi đã làm, tôi luôn tâm niệm làm sao để giúp cho học sinh có hứng thú học tập, không bị chán nản trong tiết học mĩ thuật. đó là nguyện vọng của bản than tôi muốn góp một phần nhỏ bé vào nhà trường hoàn thành tốt mục tiêu vào sự nghiệp giáo dục, đổi mới Đất nước hiện nay. Với ý tưởng như thế tôi đã nghiên cứu và viết đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh học tốt hơn môn Mĩ thuật ở cấp học

1. Giải pháp thứ nhất: Giáo viên giúp học sinh đi từ vẽ đúng đến vẽ đẹp. Muốn học sinh vẽ đúng và vẽ đẹp thì người giáo viên cần phải nắm vững mục tiêu

Mục đích giúp học sinh vẽ đúng, vẽ đẹp ở trong mỗi bài vẽ, tạo sự hào hứng khi các em được học ở trong môn Mĩ thuật.

Muốn hình thành được một bài vẽ theo mẫu thì học sinh cần biết ®­îc c¸c b­íc vÏ nh­:

Ví dụ: Bài 9 vẽ theo mẫu : Vẽ cái Mũ của lớp 2. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh trình tự theo các bước sau:

Bước 1: Phác khung hình

Bước 2: Vẽ nét thẳng

Bước 3: Vẽ nét cong

Bước 4: Vẽ chi tiết cho giống mẫu và hoàn chỉnh

Bước 5: Vẽ màu

Tôi đưa ra ví dụ trên là nhằm chứng minh rằng với những phương pháp trên và áp dụng vào bài dạy sao cho phù hợp, hiệu quả hơn trong từng bài học.

– Qua thực tế điều tra cơ bản, tôi thấy học sinh rất thích học vẽ, và hăng say phát biểu, có sự hứng thú được thể hiện trong bài vẽ của mình. Bên cạnh đó còn có một số học sinh còn nhút nhát, chưa mạnh dạn phát biểu những suy nghĩ mà mình muốn nói, một số học sinh còn chán nản với việc học môn này, nên có ảnh hưởng rất lớn đến việc dạy của giáo viên cũng như việc học tập của các em. Vì vậy tôi đã tiến hành điều tra một số lớp nhìn chung các em chưa hoàn thành là khá cao, từ đó tôi đã tìm ra hướng khắc phục nhằm tạo ra không khí vui tươi thoái mái, nhẹ nhàng và có sức hấp dấn lôi cuốn trong sự hướng dẫn của giáo viên kèm theo những câu hỏi gợi mở tạo không khí vui tươi và hào hứng cho các em trong tiết học. Bên cạnh đó đồ dùng trực quan là cần thiết và quan trọng để giúp cho học sinh thích thú và làm bài có hiệu quả hơn.

Ví dụ như: Bài thưởng thức Mĩ thuật xem tranh thiếu nhi vui chơi của hoc sinh lớp 1, giáo viên tạo những câu hỏi hấp dẫn như: Trong tranh vẽ những hình ảnh gì? Màu sắc trong tranh có những màu gì? Em cảm nhận như thế nào về bức tranh? Học sinh trả lời được giáo viên kịp thời khen gợi và gợi ý cho những học sinh khác cũng có tinh thần như bạn đó.

Tôi cũng thường xuyên cho học sinh ra ngoài lớp để vẽ thực tế như bài vẽ tranh trường em ở lớp 2, Để học sinh có cái nhìn thực tế hơn khi vẽ cảnh trường mà mình hằng ngày học sao cho đúng và đẹp.

Giáo viên kịp thời động viên tinh thần học tập của các em trong tiết học, tạo cho học sinh có tính mạnh dạn hơn khi xung phong phát biểu, xây dựng bài. Tránh tình trạng, chê những học sinh bài làm chưa được tốt. Mà giáo viên cần trao đổi riêng với học sinh đó, và chỉ ra những điểm tốt ở trong bài của em để khích lệ động viên em làm bài sau cho tốt hơn.

Với môn học này yêu cầu giáo viên phải là người trực tiếp và giúp học sinh có cái nhìn tổng thể, từ hình vẽ cũng như cách sắp xếp bố cục sao cho vừa với phần giấy quy định

– Giúp học sinh có hứng thú trong khi vẽ, cũng như có tinh thần hăng say phát biểu ở những bài như thưởng thức mĩ thuật..

– Tạo được sự thoải mái trong khi vẽ, cũng như giúp học sinh có óc tư duy, sáng tạo,

cũng như óc tưởng tượng của học sinh, nhằm giúp học sinh có những bài vẽ có kết quả cao, cũng như sự tự tin trong các sản phẩm mà mình làm ra.

Vì thế trong mỗi bài dạy, tôi phải tìm ra những biện pháp sao cho học sinh có sức hấp dẫn, cũng như giúp học sinh thèm muốn được học vẽ trong mỗi giờ học vẽ.

Như các phân môn vẽ tranh đề tài, thưởng thức mĩ thuật tuỳ theo bài học giáo viên có thể chia nhóm ra để học sinh tích cực hơn, và muốn thể hiện trước nhóm một cách thật tốt để mỗi nhóm có sự tư duy sáng tạo một cách bất ngờ trong mỗi phân môn đó.

Với cách làm này, thì mỗi học sinh tự phân ra nhóm trưởng, cũng như tạo được một guồng máy làm việc của nhóm, có sự lôgic hơn trong cùng một nhóm, và tôi tin rằng cách làm việc nhóm có hiệu quả hơn vì ai cũng muốn thể hiện mình một cách tốt nhất.

Trong thực tế nếu muốn đạt được một tiết học lôi cuốn, hấp dẫn cũng như sự tìm tòi, khám phá thì người giáo viên cần phải biết cách giúp học sinh tìm ra cũng như vận dụng vào bài học một cách hiệu quả và truyền thụ cho học sinh hiểu thêm về mục đích, yêu cầu cũng như mục tiêu của đề bài thì mới có một sản phẩm tốt. Và giáo viên cần phải khích lệ và động viên kịp thời để cho bài vẽ của học sinh đạt hiệu quả một cách tốt nhất.

Giải pháp thứ ba: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, để giúp học sinh có những hình ảnh học tốt hơn môn Mĩ thuật.

Với Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước hiện nay, thì công nghệ thông tin không thể thiếu trong giáo dục, nhất là trong giảng dạy Mĩ thuật cũng như một số môn học khác. Với bản thân tôi qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy được việc ứng dụng, công nghệ thông tin vào môn Mĩ thuật rất hiệu quả như: giáo viên không phải hoạt động nhiều như khi dạy bằng bảng, mà giáo viên có thể dạy bằng giáo án điện tử để giúp học sinh có sự thích thú, say mê với tiết dạy có sử dụng công nghệ thông tin vì có rất nhiều hình ảnh phong phú, đa dạng và đẹp mắt tạo được sự chú ý cho học sinh nên bài vẽ của học sinh cũng như sự truyền thụ của giáo viên rất hiệu quả. Giúp cho giáo viên cũng như học sinh thấy thoải mái và có nhiều hình ảnh đẹp để học sinh thích thú hơn.

Dạy học là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người giáo viên. Muốn dạy học trở thành niềm vui, niềm đam mê thì người thầy cần phải có tâm huyết với nghề. Vì vậy, chúng ta phải luôn tìm tòi phát hiện những phương pháp mới, tích cực và có tính điển hình để giảng dạy nhằm trang bị cho mọi đối tượng học sinh. Cần tìm tòi và nghiên cứu thêm nhiều phương pháp để giúp học sinh học tốt hơn và vận dụng vào làm thực hành có hiệu quả thì giáo viên sẽ thành công trong sự nghiệp giảng dạy của mình.

Người giáo viên cần phải có sự phối hợp chặt chẽ và có sự phối hợp nhẹ nhàng trong mỗi bài học

Tạo không khí thoải mái và vui tươi trong giờ học

Luôn tạo cho học sinh thành lập nhóm để học sinh trong nhóm có cơ hội thể hiện khả năng của mình trong nhóm.

Có những đồ dùng trực quan hấp dẫn cũng như những vật mẫu thật đẹp mắt…

Nhằm hướng cho học sinh từ cái nhìn tổng thể và giúp học sinh hướng đến Chân – Thiện -Mĩ.

Hướng cho học sinh có tính tự lập, cũng như giúp các em dần dần hình thành về cái đẹp, và tạo cho học sinh có cách sống, cách nhìn thế giới xunh quanh một cách tích cực và người giáo viên phải là một tấm gương sáng để cho học sinh noi theo.

Cũng như trước kghi lên lớp cần phải tìm hiểu bài thật kĩ từng mục tiêu cũng như đồ dùng trực quan đẹp mắt và hấp dẫn.

Phải nghiên cứu và tìm ra những biện pháp, giải pháp cụ thể để truyền đạt cho học sinh một cách tối ưu nhất cũng như những kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm qua.

Phải biết khai thác và gợi mở cho học sinh trả lời những câu hỏi mà giáo viên đưa ra sao cho phù hợp với nội dung của từng bài học.

Giúp học sinh nắm được các bước vẽ cơ bản cũng như cách vẽ thể nào cho phù hợp với phần giấy qui định, màu sắc hài hòa và tạo được những hình chính, phụ cho sinh động trong mỗi bài vẽ.

Kịp thời động viên, khích lệ học sinh khi học sinh nhận xét sản phẩm của bạn cũng như khi học sinh trả lời đúng những câu hỏi mà giáo viên nêu ra.

Cũng cần tránh chỉ trích học sinh trong khi học sinh trả lời những câu hỏi mà giáo viên nêu ra. Giáo viên cần phải gọi một học sinh nhắc đúng và cho học sinh đó nhắc lại cho đúng.

Giáo viên cần phải biết phối hợp tích hợp môi trường biển đảo quê hương cũng như nói thêm cho học sinh hiểu về biển đối khí hậu.

Tôi còn hướng cho học sinh thực hiện đúng với khẩu hiệu ” Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cưc”.

Trong những bài học về giữ gìn vệ sinh sạch sẽ tôi còn nhắc nhở học sinh rằng hãy thân thiện với môi trường và tạo một không khí trường học ” Xanh – Sạch – Đẹp” hướng tới cho học sinh có sự tích cực trong việc giữ gìn vệ sinh hơn.

Giáo viên cũng phải là người tìm hiểu về sở thích cũng như niềm đam mê học vẽ của các em và nhằm nâng cao được tầm quan trọng của môn Mĩ thuật trong 9 môn học mà Bộ Giáo Dục đã đưa vào để giúp học sinh cũng như một số phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm quan tâm hơn về môn học này. Và không xem môn học này là môn phụ nữa.

Ngoài những kiến thức mà tôi giảng dạy, thì tôi cũng giúp học sinh hiểu thêm về kĩ năng sống cho học sinh để học sinh hình thành được một nhân cách tốt cho mình cũng như xã hội tốt hơn. Nhằm lồng ghép, tích hợp dạy học với môi trường biển đảo, biến đổi khí hậu…

Giáo viên cần phải nắm rõ được kĩ phương pháp dạy học một cách tốt nhất để giúp học sinh nắm rõ được các bước cũng như cách tìm tòi và sáng tạo theo cách học với phương pháp mới nhất để đạt hiệu quả tốt nhất.

Bấm vào đây để tải về

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Giải Pháp Giúp Học Sinh Yếu Học Tốt Toán 11

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số: .. 1. Tên sáng kiến: Giải pháp giúp học sinh yếu học tốt toán 11. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Chất lượng chuyên môn giáo dục. 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: 3.1. Tình trạng giải pháp đã biết: Hiện tượng học sinh yếu kém bộ môn toán trong trường THPT ở bất cứ địa phương nào, năm học nào, khối học nào cũng có. Nguyên nhân thì rất nhiều, có em do khả năng hạn chế của bản thân, có em do sự lười học lâu ngày mà thành hỏng kiến thức, có em do không đủ kiến thức, kĩ năng làm toán từ cấp THCS, và còn nhiều nguyên nhân khác. Vậy làm thế nào để học sinh vừa lấy lại được kiến thức cơ bản ở lớp dưới, vừa hình thành những kĩ năng giải toán và cao hơn là đem lại sự tự tin cho các em trong học tập. Do đó, việc có phương pháp đúng đắn để giúp các em học sinh yếu học tốt toán 11 để nâng cao chất lượng học tập của bộ môn là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, nhiều giáo viên dạy toán thường gặp nhiều khó khăn khi dạy đối tượng học sinh yếu; Phương pháp giảng dạy hạn chế, kết quả giảng dạy chưa theo ý muốn, chưa đáp ứng yêu cầu chung của bộ môn và của trường. 3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: – Mục đích của giải pháp: Nhằm giúp cho giáo viên có phương pháp đúng để giúp học sinh yếu tiếp thu được và vận dụng tốt kiến thức để nâng cao chất lượng bộ môn. – Nội dung giải pháp: * Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm: Giáo viên có thể giúp học sinh yếu học tốt kiến thức của môn toán thông qua một số hoạt động rất bình thường, rất gần gũi với học sinh. * Sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ: Sáng kiến kinh nghiệm này đã hệ thống các phương pháp có thể áp dụng trong tiết dạy nhằm rèn luyện cho học sinh yếu tính tự tin và chủ động, tạo hứng thú học tập của các em, từ đó giúp các em tiếp thu và vận dụng tốt kiến thức đã học. * Cách thức thực hiện: + Trao đổi với đồng nghiệp. + Liên hệ thực tế trong nhà trường, áp dụng đúc rút kinh nghiệm qua quá trình giảng dạy. + Thông qua việc giảng dạy trực tiếp trên lớp. * Các bước thực hiện của giải pháp mới: 3.2.1. Phân loại học sinh, giúp đỡ , động viên kịp thời: Vào đầu năm học, khi nhận lớp giảng dạy tôi thường kiểm tra kiến thức chung của các em. Căn cứ vào kết quả này và kết quả năm học trước để phân loại học sinh yếu kém để trong quá trình giảng dạy sẽ chú ý giúp đỡ các em này nhiều hơn. Bên cạnh đó trong thời gian giảng dạy tôi luôn cố gắng quan sát cách thể hiện của từng học sinh trên lớp, từ đó bản thân sẽ tập trung được vào những học sinh thực sự yếu và không có năng lực. Thiết nghĩ làm giáo dục và đào tạo không chỉ dạy cho các em kiến thức môn học mà còn phải biết kết hợp giáo dục đạo đức, tìm hiểu tâm lý của các em. Giáo viên có thể trò chuyện, gần gũi, tìm hiểu hoàn cảnh của các em để có thể kịp thời giúp đỡ sẽ khích lệ tinh thần học tập của các em. Tâm lý của các em trong độ tuổi học sinh rất hiếu động nhưng do mặc cảm mình học yếu và không tiếp thu được kiến thức nêu thường rất thụ động. Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần có những câu hỏi nhỏ, những yêu cầu đơn giản mà các em có thể trả lời được để động viên, khích lệ tinh thần của các em. Ví dụ khi thấy các em làm bài được giáo viên có thể khen:” Hôm nay các em có tiến bộ,cần cố gắng thêm”, giáo viên có thể tìm những điểm tốt khác của các em để khen ngợi. Sự khen ngợi đó sẽ giúp các em tự tin hơn vào bản thân và có hứng thú hơn trong học tập. học có hiệu quả: Với các em học sinh yếu, ta không thể đòi hỏi các em phải nhớ thật nhiều kiến Ví dụ: Khi dạy phần tìm giao điểm của đường thẳng và mặt phẳng tôi thường nhắc lại cách tìm giao tuyến giữa hai mặt phẳng: Trong mặt phẳng () cho tứ giác có các cặp cạnh đối không song song và điểm . a. Xác định giao tuyến của và (SBD) b. Xác định giao tuyến của (SAB) và (SCD) c. Xác định giao tuyến của (SAD) và (SBC) Giải a. Xác định giao tuyến của (SAC) và (SBD) Ta có : S là điểm chung của (SAC) và (SBD) Trong (a), gọi O = AC Ç BD · O Î AC mà AC Ì (SAC) Þ O Î (SAC) · O Î BD mà BD Ì (SBD) Þ O Î (SBD) Þ O là điểm chung của (SAC) và (SBD) Vậy : SO là giao tuyến của (SAC) và (SBD) b. Xác định giao tuyến của (SAB) và (SCD) Ta có: S là điểm chung của (SAC) và (SBD) Trong (a) , AB không song song với CD Gọi I = AB Ç CD · I Î AB mà AB Ì (SAB) Þ I Î (SAB) · I Î CD mà CD Ì (SCD) Þ I Î (SCD) Þ I là điểm chung của (SAB) và (SCD) Vậy : SI là giao tuyến của (SAB) và (SCD) Các kiến thức trên rất đơn giản nhưng nhắc lại thường giúp các em có thể vận 3.2.3. Kiến thức truyền thụ cho học sinh yếu, giáo viên cần phân tích thành từng dạng, mỗi dạng cần có các bước thực hiện cụ thể, rõ ràng để học sinh dễ nhớ, dễ vận dụng: Một trong những hoạt động cơ bản của học sinh trong học tập môn toán ở trườngTHPT là hoạt động giải toán nhưng học sinh yếu toán thường gặp khó khăn trong hoạt động này. Lí do là các em bị mất kiến thức cơ bản từ các lớp dưới nên tiếp thu kiến thức rất chậm, khi vận dụng vào bài thì các em không biết bắt đầu từ đâu, sử dụng kiến thức nào đã học, sử dụng như thế nào và thực hiện theo con đường nào. Sách giáo khoa thường chỉ trình bày chung, hạn chế các bước thực hiện nên học sinh yếu kém không thể tự học theo sách được. Vì vậy khi dạy học sinh yếu kém, tôi nghiên cứu soạn kỉ lại từng bước thực hiện của từng dạng toán cơ bản trong chương trình, giúp các em tiếp cận được từng dạng toán và từng bước giải để các em có thể vận dụng dễ dàng hơn trong hoạt động giải toán. Ví dụ: Khi dạy dạng bài tập giải phương trình asinx + bcosx = c có thể thực hiện các bước sau: Bước 1: Tính Bước 2: Chia hai vế phương trình cho Bước 3: Đưa phương trình về dạng sinf(x)= hoặc cosf(x)= Bước 4: Giải phương trình sinf(x)= hoặc cosf(x)= tìm x Tất cả các dạng bài tập toán cơ bản trong chương trình tôi đều nghiên cứu phân chia từng bước thực hiện cho phù hợp để học sinh có thể dễ dàng thực hiện. Khi vận dụng vào giải toán tôi thường cho các em xác định dạng toán đang giải là toán gì, từng bước thực hiện như thế nào. Có thể nhắc lại các bước giải nhiều lần để quen với cách làm, từ đó giúp cho các em hiểu được với từng dạng bài tập mình sẽ thực hiện từng bước như thế nào và vận dụng được từng bước giải theo thứ tự và có hiệu quả. 3.2.4. Rèn luyện kĩ năng giải bài tập: Đối với môn toán để rèn luyện học sinh yếu kém thì giáo viên phải luyện tập thường xuyên giúp cho các em nắm vững phương pháp giải và biết cách trình bày từng dạng bài tập toán. Bằng cách mỗi dạng bài tập giáo viên đều có phương pháp và cách trình bày riêng hoàn chỉnh làm mẫu để hướng dẫn các em giúp các em có cơ sở và biết cách trình bày tương tự khi học. Sau khi thực hành bài tập mẫu giáo viên cần đưa ra một số bài tập tương tự để các em tự làm theo mẫu, sau đó thay đổi các yêu cầu để tập cho các em suy nghĩ và vận dụng phần đã có vào bài tập mới. Điều này giúp các em thấy bản thân mình có thể làm được một số yêu cầu của bài, củng cố cho các em lòng tự tin vào khả năng của mình từ đó các em tích cực suy nghĩ để giải quyết các yêu cầu mới còn lại trong bài. Khi thấy các em không giải quyết được một yêu cầu mới nào đó tôi kịp thời có câu hỏi gợi ý để dẫn dắt các em phát hiện đưa những yêu cầu mới về cái tương tự mà mình đã học, đã làm được. Những yêu cầu mới có thể thay đổi dần từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao cho phù hợp với từng nội dung kiến thức cần dạy cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy phần tìm giới hạn tôi thường nêu phương pháp giải và làm bài tập mẫu cho từng dạng toán như sau: 1. Dạng : a) L = với P(x), Q(x) là các đa thức và P(x0) = Q(x0) = 0 Phân tích cả tử và mẫu thành nhân tử và rút gọn. VD: b) L = với P(x0)= Q(x0) = 0 và P(x), Q(x) là các biểu thức chứa căn cùng bậc Sử dụng các hằng đẳng thức để nhân lượng liên hợp ở tử và mẫu. VD: c) L = với P(x0) = Q(x0) = 0 và P(x) là biểu thức chứa căn không đồng bậc Giả sử: P(x) = . Ta phân tích P(x) = . VD: = 2. Dạng : L = với P(x), Q(x) là các đa thức hoặc các biểu thức chứa căn. – Nếu P(x), Q(x) là các đa thức thì chia cả tử và mẫu cho luỹ thừa cao nhất của x. – Nếu P(x), Q(x) có chứa căn thì có thể chia cả tử và mẫu cho luỹ thừa cao nhất của x hoặc nhân lượng liên hợp. VD:a) b) 3. Dạng ¥ – ¥: Giới hạn này thường có chứa căn Ta thường sử dụng phương pháp nhân lượng liên hợp của tử và mẫu. VD: 4. Dạng 0.¥: Ta cũng thường sử dụng các phương pháp như các dạng ở trên. VD: Sau đó tôi đưa các bài tập tương tự để học sinh giải: Tìm các giới hạn sau: a) b) c) d) e) f) g) Tìm các giới hạn sau: a) b) c) d) e) f) g) h) 3.2.5. Cho các em tự nhận xét, đánh giá kết quả bài làm của mình, của bạn để khắc sâu kiến thức đã học: Thông thường khi giải bài tập, từng bài tôi đều cho học sinh lên bảng trình bày bài làm của mình. Sau khi trình bày xong cho học sinh tự nhận xét bài giải của mình từ cách trình bày, kiến thức sử dụng xem đã hoàn chỉnh hay chưa; cho học sinh khác nhận xét bài làm của bạn chỗ nào đúng, chỗ nào chưa đúng, cần bổ sung thế nào để bài làm được hoàn chỉnh. Nếu học sinh không phát hiện chỗ sai thì tôi có thể gợi ý để các em nêu cách sửa, sau đó tôi chốt lại thật kỉ để các em nhớ và vận dụng trong bài sau. Việc cho các em học sinh yếu tự kiểm tra, đánh giá kết quả bài làm của mình của bạn giúp các em tự phát hiện ra cái sai của mình để khắc phục, thấy cái sai của bạn để tránh né, điều này giúp các em khắc sâu kiến thức đã học và cảm thấy tự tin hơn, tích cực hơn tham gia hoạt động khi học và cảm thấy việc học toán không khó đối với bản thân mình, mình có thể học tốt hơ nhiều nếu có cố gắng. 3.2.6. Dùng những việc làm, những hình ảnh thực tế để lồng ghép vào bài học giúp các em có thể dễ nhớ kiến thức: Để xây dựng khái niệm chỉnh hợp tôi lấy ví dụ từ thực tế như: Một nhóm học tập có 5 bạn A, B, C, D, E. Hãy liệt kê ra vài cách phân công 3 bạn làm trực nhật: một bạn quét nhà, một bạn lau bảng và một bạn sắp xếp bàn ghế Khi dạy hình học không gian về hai mặt phẳng song song tôi nêu ví dụ như: hai mặt phẳng là tầng nhà và nền nhà song song nhau Qua các ví dụ, các hình ảnh thực tế sẽ giúp học sinh dễ dàng tiếp thu và khắc sâu kiến thức hơn. 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp: Sáng kiến kinh nghiệm này được nghiên cứu và áp dụng cho việc giảng dạy toán, đối tượng là học sinh yếu kém trong tất cả các trường THPT. Tuy nhiên, các giải pháp của sáng kiến có thể áp dụng cho việc giảng dạy các môn học khác. 3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp: Qua một thời gian thực hiện theo các kinh nghiệm trên chất lượng học sinh học tập bộ môn toán của chúng tôi giảng dạy có nâng lên rõ rệt. Phần đông các em học sinh yếu đều tiếp thu được kiến thức, vận dụng lí thuyết giải được các dạng toán cơ bản trong chương trình, không còn e ngại khi học toán mà phần nào ham thích học toán. Học sinh yếu không còn nhút nhác như trước mà mạnh dạn phát biểu, biết nêu lên những thắc mắc của mình khi chưa hiểu, từ đó chất lượng học tập của các em ngày càng được nâng lên, các em tỏ ra tự tin khi làm bài tập. Nhiều học sinh yếu kém toán đã có học lực trung bình, khá. 3.5. Tài liệu kèm theo: Không có. Bến Tre, ngày 18 tháng 03 năm 2015