Top 6 # Giải Pháp Hữu Ích Hỗ Trợ Học Sinh Học Ngữ Văn Thông Qua Một Số Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Skkn Hỗ Trợ Học Sinh Học Ngữ Văn Thông Qua Một Số Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMĐỀ TÀI:“HỖ TRỢ HỌC SINH HỌC NGỮ VĂN THÔNG QUA MỘT SỐ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN”I. ĐẶT VẤN ĐỀNgày nay công nghệ thông tin (CNTT) chiếm vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của CNTT đã và đang làm thay đổi cuộc sống con người. Với máy vi tính, CNTT đã trở nên ngày càng phổ biến trong giáo dục. Công nghệ thông tin được ứng dụng để giải quyết hầu hết các nhiệm vụ quản lý, điều hành và giảng dạy trong nhà trường. Ứng dụng CNTT vào dạy-học nói chung và dạy học Ngữ Văn nói riêng là một xu thế tất yếu. Tuy nhiên thực sự là, hiệu quả dạy học với sự hỗ trợ của máy tính vẫn chưa được như những gì chúng ta mong muốn.1. Những điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học Ngữ Văn. Nghị quyết TW2 của Đảng, khóa VIII đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh “Xuất phát từ định hướng đó, hiện nay các trường phổ thông đều trang bị phòng máy, phòng trình chiếu đa năng, nối mạng Internet và Tin học được giảng dạy chính thức,

tạo cơ sở hạ tầng CNTT cho giáo viên sử dụng vào quá trình dạy học của mình. Những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau và với người sử dụng qua những mạng máy tính kể cả Internet … có thể được khai thác để tạo nên những điều kiện cực kì thuận lợi và nhiều khi không thể thiếu để học sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo, được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu. Một bộ phận lớn học sinh có điều kiện làm quen tiếp xúc với máy tính và Internet từ khá sớm. Các em thực sự say mê với những ứng dụng công nghệ thông tin. Như vậy, nếu biết ứng dụng CNTT hợp lý sẽ thúc đẩy sự hứng thú, yêu thích môn Ngữ Văn trong học sinh.Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học. Tất cả điều kiện đó tác động đến việc dạy và học môn Ngữ Văn. Người giáo viên Ngữ Văn ngày nay không thể tiếp tục giảng dạy chỉ bằng những phương pháp dạy học truyền thống trong khi yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đặt ra cho giáo viên những nhiệm vụ mới phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của xã hội. 2. Những khó khăn đặt ra cho việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học Ngữ Văn. Trước hết người giáo viên Ngữ Văn phải chấp nhận một thực tế là một bộ phận không nhỏ học sinh ngày càng có xu hướng không thích học Văn nói riêng và khoa học xã hội nói chung, năng lực tự học hạn chế, thiếu sáng tạo, ít say mê với môn Văn.Từ trước đến nay việc tổ chức hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức văn chương thường đi theo cách thức truyền thống khiến giờ học thiếu sinh động, học sinh nhàm chán. Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ giáo viên hoàn toàn trong các bài giảng của họ đặc biệt đối với một bộ môn cần nhiều cảm xúc như môn Ngữ Văn. Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là kết hợp như thế nào để hài hòa giữa phương pháp dạy học truyền thống với việc vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học Ngữ Văn. Những mạch kiến thức đòi hỏi giáo viên phải kết hợp với phấn trắng bảng đen và các phương pháp dạy học truyền thống mới rèn luyện được kĩ năng cho học sinh như đọc diễn cảm, cảm nhận về tác phẩm Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có chiều sâu; sử dụng không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường truyền. Công tác đào tạo, Công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chỉ mới dừng lại ở việc xoá mù tin học nên giáo viên chưa đủ kiến thức, mất nhiều thời gian và công sức để sử dụng công nghệ thông tin trong lớp học một cách có hiệu quảXuất phát từ những điều kiện thuận lợi và các khó khăn trên, chúng tôi mạnh dạn đặt vấn đề cần phải hỗ trợ học sinh học Ngữ Văn thông qua một số ứng dụng công nghệ thông tin phổ biến hiện nay với mong muốn tạo cho học sinh niềm hứng thú khi học tập bộ môn, bước đầu tạo cho học sinh làm quen với cách học tập trong đó đòi hỏi sự sáng tạo, biết cách tự học, chủ động tìm kiếm tư liệu học tập dưới sự tổ chức hướng

HẾT Điền đáp án vào phần ô trống bên dưới rồi copy phần trả lời này vào thư gửi bài cho thầymade cauhoi dapanCETK4 1CETK4 2CETK4 3CETK4 4CETK4 5CETK4 6CETK4 7CETK4 8CETK4 9CETK4 10

Các Giải Pháp Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Dạy Học

Chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ : “Đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là phương tiện để tiến tới một xã hội học tập”.

Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy theo lớp, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường công nghệ thông tin.

Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học; được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp và đặc biệt là sự chỉ đạo sâu sát của Sở GD&ĐT, trường phổ thông PT DTNT THPT huyện Điện Biên đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng, triển khai kế hoạch ứng dụng CNTT trong nhà trường và bước đầu thu được một số kết quả nhất định.

Thay mặt BGH nhà trường, tôi xin trình bày tham luận về ” Các giải pháp ứng dụng CNTT trong dạy học ở trường PT DTNT THPT huyện Điện Biên”.

I. Thực trạng

Là một trường chuyên biệt, bắt đầu từ năm học 2009-2010, khi được nâng cấp lên THPT nhà trường có 08 lớp với 250 học sinh. Trong đó gần 100% học sinh là con em các dân tộc thiểu số thuộc các vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn của huyện Điện Biên. Chính vì thế mà điều kiện được tiếp xúc với CNTT của đa số các em học sinh là rất hạn chế.

Đội ngũ giáo viên: Đa số là giáo viên trẻ mới ra trường hoặc từ nơi khác chuyển về; nhiều giáo viên trình độ Tin học, kỹ năng sử dụng máy tính và các phương tiện hỗ trợ còn hạn chế.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học, đặc biệt là phục vụ cho việc dạy tin học và ứng dụng CNTT của nhà trường còn nhiều hạn chế: Thiếu các phòng học chức năng; số máy tính phục vụ cho học tin học của học sinh còn ít ( chỉ có 01 phòng với 15 máy tính).

II. Quá trình tổ chức thực hiện

Thực hiện công văn số 1800/SGDĐT- CNTT&NCKH ngày 10 tháng 9 năm 2010 của Sở GD&ĐT tỉnh Điện Biên về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ trọng tâm về CNTT&NCKH năm học 2010-2011; Căn cứ vào đặc điểm năm học và tình hình thực tế của đơn vị, trường PT DTNT THPT huyện Điện Biên đã xây dựng kế hoạch dạy, học và ứng dụng CNTT giai đoạn 2011- 2015 với ý thức sâu sắc rằng CNTT là công cụ hỗ trợ đắc lực và hữu hiệu cho các hoạt động giáo dục. Trong đó xác định mục tiêu đích của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học là: Nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao, khắc phục tình trạng “thầy đọc, trò chép”, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình.

Để thực hiện được mục tiêu đó, trong hệ thống các giải pháp, nhà trường chú trọng một số giải pháp sau:

1. Công tác bồi dưỡng giáo viên

Xác định Con người là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công trong việc ứng dụng CNTT vào trong quản lý và giảng dạy. Do đó, nhà trường đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học, đặc biệt là các kỹ năng ứng dụng CNTT cho đội ngũ giáo viên. Để hiểu rõ trình độ và kỹ năng Tin học của đội ngũ, ngoài việc tìm hiểu hồ sơ giáo viên, nhà trường đã tiến hành khảo sát thực tế. Kết quả cho thấy 100% giáo viên có chứng chỉ Tin học từ A trở lên nhưng trong đó kỹ năng sử dụng máy tính của một số giáo viên còn hạn chế, nhiều giáo viên chưa biết soạn bài bằng powerpoint.

Xuất phát từ thực tế đó, nhà trường đã tiến hành bồi dưỡng bằng các giải pháp cụ thể:

1.1 Nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên

Đẩy mạnh tuyên truyền cho giáo viên thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy thông qua việc triển khai các văn bản chỉ đạo của Bộ, ngành về ứng dụng CNTT trong dạy học; thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ khối, hội thảo chuyên đề; thông qua dự giờ thăm lớp và qua việc triển khai các cuộc thi có ứng dụng CNTT do ngành tổ chức.

Phát động sâu rộng thành phong trào và đề ra yêu cầu cụ thể về số tiết ứng dụng CNTT đối với mỗi giáo viên để chính họ qua áp dụng thấy được hiệu quả và sự cần thiết của việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy, đặc biệt là đối với đổi mới phương pháp dạy học.

1.2 Nâng cao trình độ Tin học cho đội ngũ

Tạo điều kiện cho giáo viên học tập nâng cao trình độ Tin học ( 02 giáo viên Tin học của trường được tạo điều kiện về thời gian để tham gia học nâng cao trình độ từ Cao đẳng lên Đại học CNTT);

Bố trí sắp xếp để cán bộ giáo viên được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng CNTT do ngành tổ chức.

1.3 Bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT

Muốn ứng dụng CNTT vào giảng dạy hiệu quả thì ngoài những hiểu biết căn bản về nguyên lý hoạt động của máy tính và các phương tiện hỗ trợ, đòi hỏi giáo viên cần phải có kỹ năng thành thạo (thực tế cho thấy nhiều người có chứng chỉ hoặc bằng cấp cao về Tin học nhưng nếu ít sử dụng thì kỹ năng sẽ mai một, ngược lại chỉ với chứng chỉ A -Tin học văn phòng nhưng nếu bạn chịu khó học hỏi, thực hành thì việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy sẽ chẳng mấy khó khăn). Nhận thức được điều đó, nhà trường rất chú trọng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT cho giáo viên thông qua nhiều hoạt động, như:

– Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm Tin học với giảng viên là giáo viên CNTT và những giáo viên có kỹ năng tốt về Tin học của trường, theo hình thức trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, tập trung chủ yếu vào những kỹ năng mà giáo viên cần sử dụng trong quá trình soạn giảng hàng ngày như lấy thông tin, các bước soạn một bài trình chiếu, các phần mềm thông dụng, cách chuyển đổi các loại phông chữ, cách sử dụng một số phương tiện như máy chiếu, máy quay phim, chụp ảnh, cách thiết kế bài kiểm tra,…

– Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để trao đổi về kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong giảng dạy.

– Định hướng cho giáo viên luôn có ý thức sưu tầm tài liệu hướng dẫn ứng dụng CNTT hiệu quả, bộ phận chuyên môn nghiên cứu chọn lọc photo phát cho giáo viên ( bằng cách làm này nhà trường đã có nhiều tài liệu hay, dễ thực hành cho giáo viên sử dụng như: tài liệu hướng dẫn soạn giáo án powerpoint, hướng dẫn sử dụng máy chiếu, hướng dẫn thiết kế bài giảng điện tử e- Learning,…)

– Động viên giáo viên tích cực tự học, khiêm tốn học hỏi, sẵn sàng chia sẻ, luôn cầu thị tiến bộ, thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp; chuyên môn nhà trường phải là bộ phận kết nối, là trung tâm tạo ra một môi trường học hỏi chuyên môn tích cực.

– Tích cực tham gia các cuộc thi ứng dụng CNTT do ngành tổ chức. Bởi vì khi tham gia bất cứ cuộc thi nào yêu cầu sản phẩm cũng đòi hỏi người tham gia cuộc thi phải có sự đầu tư nhiều hơn về thời gian, công sức, chất xám và cả việc phải học hỏi ở những người giỏi hơn. Như vậy, vô hình chung cả việc rèn kỹ năng, tự học và học hỏi đồng nghiệp đều được đẩy mạnh.

Để làm được điều đó, BGH đặc biệt là phó hiệu trưởng, các tổ trưởng chuyên môn phải luôn quan tâm sâu sát, đi đầu gương mẫu, cùng học hỏi- cùng làm với giáo viên thì mới hiểu được họ yếu ở điểm nào, gặp khó khăn ở khâu nào, cần giúp đỡ gì ( trong các buổi tập huấn về CNTT, tất cả các phó hiệu trưởng của nhà trường đều tham gia, còn trong các cuộc thi về ứng dụng CNTT có ít nhất 01 phó hiệu trưởng và các tổ trưởng tham gia). Nói đi đôi với làm luôn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất để thúc đẩy phong trào phát triển.

2. Công tác xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị

– Được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp cùng với sự tích cực tham mưu của nhà trường, đến nay tình trạng cơ sở vật chất về tin học và công nghệ thông tin của nhà trường đã được cải thiện đáng kể.

– Nhà trường luôn cố gắng bố trí sắp xếp khoa học để khai thác hiệu quả và sử dụng tối đa số trang thiết bị hiện có.

+ Bố trí thời khóa biểu lệch ca, lệch tiết để 8 lớp đều được học tin học.

+ Bố trí các phòng làm việc của BGH, phòng chờ của giáo viên, phòng thư viện đều có kết nối Internet để cán bộ, giáo viên được truy cập Internet thường xuyên;

+ Các máy chiếu đều được lắp đặt cố định trên lớp học, tiện cho giáo viên sử dụng;

+ Hoàn thành kết nối Internet tốc độ cao: ADSL, Dcom 3G;

+ Khuyến khích cán bộ giáo viên trong nhà trường kết nối Internet theo chương trình khuyến mại dành riêng cho ngành giáo dục;

– Song song với việc khai thác sử dụng, nhà trường luôn chú trọng khâu quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị như: giao trách nhiệm cụ thể cho các bộ phận, thường xuyên bảo dưỡng, quan tâm bồi dưỡng kiến thức cho người sử dụng với phương châm ” giữ tốt- dùng bền” nhằm khai thác tối đa, có hiệu quả trang thiết bị được cung cấp.

3. Các hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy học

– Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên tích hợp CNTT vào từng môn học thay vì chỉ được học trong môn Tin học. Mỗi giáo viên dạy trung bình ít nhất 1 tiết có ứng dụng CNTT/ tháng, hàng tháng cán bộ phụ trách thiết bị báo cáo tổng hợp số tiết dạy học có ứng dụng CNTT của mỗi giáo viên. Chuyên môn nhà trường chú trọng dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm và tổ chức sinh hoạt chuyên môn trao đổi về cách ứng dụng CNTT một cách chọn lọc, phù hợp với đối tượng, nhằm phát huy có hiệu quả tác dụng của phương tiện, tránh lạm dụng quá mức.

Các hình thức sử dụng hiệu quả được nhiều giáo viên sử dụng là: dạy trình chiếu với cách thiết kế các sile về hình thức gần giống với bảng truyền thống ( màu sắc, cách chia bảng, cách trình bày đầu bài, đề mục,…); sử dụng máy chiếu như là phương tiện hỗ trợ cung cấp kênh hình với nhiều hình ảnh sinh động, âm thanh, video mà không phải mang vác nhiều tranh ảnh, bảng phụ, máy móc thiết bị khác; CNTT với nhiều phần mềm tiện ích là công cụ hỗ trợ đắc lực cho GV trong công tác soạn bài, quản lý điểm, đánh giá xếp loại học sinh… được tiện lợi và nhanh chóng.

– Phát huy khả năng của chính đội ngũ, nhà trường tự chủ động xây dựng websile riêng tại địa chỉ dtnthdb.edu.vn

– Tham gia lập và sử dụng “nguồn học liệu mở” về đề thi, giáo án, tài liệu tham khảo trên websile của Bộ, Sở và các trường bạn, tài nguyên dùng chung trên websile của trường.

– Đẩy mạnh việc khai thác tài nguyên trên mạng Internet phục vụ công tác quản lý và giảng dạy của CBGV thông qua bồi dưỡng, tập huấn, cung cấp địa chỉ hoặc mở liên kết với trang web của trường.

– Tăng cường việc khai thác sử dụng hệ thống thư điện tử để tăng tiện ích, hiệu quả trong trao đổi cập nhật thông tin. Yêu cầu mỗi cán bộ giáo viên lập và đăng ký một địa chỉ mail cố định với nhà trường.

– Trường đã mở 02 lớp tập huấn sử dụng các phần mềm hỗ trợ soạn giảng và kỹ thuật thiết kế bài giảng e-Learning cho 18 cán bộ giáo viên, đồng thời thường xuyên giới thiệu các phần mềm hỗ trợ soạn giảng trong mục “tài nguyên” tại trang web của trường.

– Xây dựng và triển khai kế hoạch tham gia cuộc thi ” Thiết kế hồ sơ bài giảng điện tử e-Learning” do Sở tổ chức. Để việc tham gia có chất lượng, nhà trường lên kế hoạch cụ thể từ khâu chọn cử giáo viên, tổ chức tập huấn, trao đổi kinh nghiệm, động viên tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho giáo viên dự thi.

Trong cuộc thi lần thứ nhất nhà trường có 5 giáo viên với 06 sản phẩm dự thi cấp ngành, 4 giáo viên với 9 sản phẩm dự thi cấp Bộ. Hiện tại có 14 giáo viên đăng ký dự thi cấp trường, nhà trường đang chấm tuyển chọn những sản phẩm có chất lượng để dự thi cấp Sở lần thứ II năm học 2010-2011.

– Xây dựng và triển khai kế hoạch tham gia thi giờ dạy có ứng dụng CNTT lần thứ nhất do Sở tổ chức;

– Tổ chức nhiều hình thức dạy tin học cho học sinh như dạy chính khóa ở các lớp THPT, dạy học tự chọn ở tất cả các lớp THCS.

– Đoàn thanh niên còn sử dụng máy chiếu để tổ chức chiếu phim cho học sinh vào các tối thứ 7 hàng tuần.

III. Kết quả đạt được

Cái được đầu tiên phải kể đến đó chính là giáo viên đã có sự chuyển đổi về nhận thức, từ qui định (mang tính áp đặt) lúc ban đầu sang tâm thế thích thú với bài giảng ứng dụng CNTT. Từ yêu thích đến chủ động học hỏi cho nên kỹ năng soạn giảng các tiết có ứng dụng CNTT của giáo viên không ngừng được nâng lên, chất lượng bài dạy cũng tốt hơn, hấp dẫn với học sinh hơn.

– Hiện nay, 100% giáo viên nhà trường có chứng chỉ Tin học văn phòng từ trình độ A trở lên và đều soạn bài bằng máy vi tính; 17/23 giáo viên biết sử dụng kỹ thuật trình chiếu hỗ trợ giảng dạy, sử dụng các phần mềm dạy học bộ môn, các tư liệu điện tử,…

– Tổng số tiết ứng dụng CNTT trong HKI là 165 tiết/ 17 giáo viên;

– Thành lập được thư viện đề thi với tất cả các môn;

– Trường xây dựng trang web riêng tại địa chỉ chúng tôi 100% cán bộ giáo viên biết khai thác thông tin trên website của ngành.

– Trường đạt giải Nhất toàn đoàn trong cuộc thi thiết kế bài giảng điện tử e- Learning cấp tỉnh lần thứ Nhất với 01 giải Nhất, 01 giải Nhì và 01 giải Khuyến khích. Nhà trường tiếp tục chọn cử 03 CBGV tham gia gửi bài dự thi ở cấp Bộ, kết quả 02 CBGV đạt giải (trong tổng số 3 giải của toàn tỉnh), 01 GV được nhận quà tặng của Ban tổ chức, góp phần đưa đoàn Điện Biên xếp thứ 7 trong tổng số 27 tỉnh thành cả nước tham dự cuộc thi.

IV. Phương hướng thời gian tới

Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học và kỹ năng ứng dụng CNTT cho toàn thể giáo viên.

Tham mưu đầu tư mua sắm thêm máy tính để có 02 phòng học Tin học cho học sinh.

Hoàn thiện và nộp các sản phẩm tham gia cuộc thi thiết kế hồ sơ bài giảng điện tử e- Learning cấp tỉnh lần thứ II ( từ ngày 01/01 đến ngày 28/02/2011).

Tổ chức thi giảng dạy có ứng dụng CNTT cấp trường và chọn cử giáo viên dự thi cấp tỉnh lần thứ Nhất ( 08 tiết thuộc 08 môn văn hóa cơ bản);

Tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giảng dạy: sử dụng các phần mềm do Bộ GD & ĐT cung cấp, soạn giảng bài giảng điện tử, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên trên internet…

Phát huy hiệu quả của công tác thông tin liên lạc qua email, mạng internet.

Tổ chức hội thảo chuyên đề cấp trường về ứng dụng CNTT trong dạy học.

V. Kết luận

Vạn sự khởi đầu nan, ứng dụng CNTT vào giảng dạy ban đầu là một bài toán khó với giáo viên, nhưng qua một thời gian không dài, chủ trương này đã cho thấy hiệu quả tích cực khi CNTT mang lại cho cả thầy và trò không gian mới nhiều hứng thú trong lớp học. Với sự hỗ trợ của máy tính và một số phần mềm dạy học cùng các thiết bị đi kèm, giáo viên có thể tổ chức tiết học một cách sinh động, các bài giảng không chỉ mang hơi thở cuộc sống hiện đại gần gũi hơn với học sinh mà còn giúp cả người dạy và người học được tiếp xúc với các phương tiện hiện đại, làm giàu thêm vốn hiểu biết của mình.

Tuy nhiên, nhà trường cũng xác định rõ với giáo viên: ứng dụng CNTT không đồng nhất với đổi mới phương pháp dạy học, CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận lợi cho triển khai phương pháp tích cực chứ không phải là điều kiện đủ của phương pháp này. Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình dạy học. Để một giờ học có ứng dụng CNTT là một giờ học phát huy tính tích cực của học sinh thì điều kiện tiên quyết là việc khai thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu và tính đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên sử dụng.

Việc ứng dụng CNTT vào dạy học góp phần đổi mới phương pháp dạy học là một công việc khó khăn, lâu dài, đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển CNTT trong dạy học có hiệu quả cần có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất của các cấp, sự chỉ đạo đồng bộ của ngành- của mỗi nhà trường và đặc biệt là sự nỗ lực học hỏi, rút kinh nghiệm của bản thân mỗi giáo viên.

Nguồn tin: http://dtnthdb.edu.vn

Một Số Giải Pháp Hiệu Quả Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Trường Thcs

– Là một giáo viên tin học phụ trách mảng CNTT trong trường để có đội ngũ giáo viên thực sự có năng lực tin học, có uy tín thì người phụ trách mảng CNTT phải lên kế hoạch và xây dựng các kế hoạch quản lí và tổ chức các đợt tập huấn ngắn hạn hoặc dài hạn ngay tại trường cho cán bộ, giáo viên, nhân viên với nội dung thiết thực, sát thực tế giảng dạy như: Soạn bài giảng điện tử bằng phần mềm Powerpoint, khai thác thông tin trên mạng Internet, thư viện bài giảng trên các trang Web, sử dụng các phần mềm hỗ trợ dạy học cho từng bộ môn, sử dụng các phần mềm quản lý trường học. khuyến khích đội ngũ giáo viên tin học có kiến thức tin học cùng xây dưng và tham gia.

– Phải lưu trữ đầy đủ các văn bản chỉ đạo về hoạt động dạy và học và các qui chế chuyên môn của việc ứng dụng CNTT. Phân công rõ trách nhiệm trong việc triển khai các văn bản đến các tổ trưởng bộ môn, giáo viên trong tổ một cách đầy đủ, kịp thời.

– Có kế nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên như: Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho giáo viên, cán bộ công nhân viên trong nhà trường thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang tính tất yếu của việc ứng dụng CNTT trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy và quản lí thông qua việc triển khai các văn bản chỉ đạo của bộ, ngành về ứng dụng CNTT trong quản lí và dạy học. Đó là thông qua các đợt sinh hoạt, hội thảo chuyên đề, dự giờ thăm lớp và triển khai các cuộc thi có ứng dụng CNTT do bộ, ngành tổ chức.

– Ngoài ra người phụ trách CNTT phải có kế hoạch sưu tầm, ghi đĩa chứa các phần mềm hỗ trợ dạy học, quản lí cho cán bộ giáo viên… để góp phần nâng cao đáng kể trình độ về CNTT cho các giáo viên toàn trường để giáo viên tiện theo dõi học tập và thực hiện tại chỗ khá thuận lợi dễ quan sát.

– Người phụ trách CNTT phải lên kế hoạch cho cả năm học phù hợp với đặc thù của mỗi tổ, kế hoạch được cụ thể hóa ra từng tháng, từng tuần và có tính khả thi.

– Lên kế hoạch tổ chức các chuyên đề các môn đặc biệt phải ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình tổ chức chuyên đề.

– Có kế hoạch tập huấn và bồi dưỡng việc sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và trong quản lí.

– Tổ CNTT lập kế hoạch và dành thời gian họp tổ, nhóm bộ môn triển khai học tập chuyên đề ứng dụng CNTT trong giảng dạy, quản lí, sau đó có thao giảng minh họa. Kế hoạch học tập chuyên đề, thao giảng được thể hiện rõ ngay từ đầu học kỳ cảu năm học.

2. Tổ chức học tập chuyên đề dạy – học, hội giảng để nâng cao trình độ tin học cho đội ngũ.

– Tổ chức học tập chuyên đề đây là một hoạt động rất quan trọng, điều này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay: thực hiện đổi mới nội dung, chương trình, và phương pháp dạy – học, theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, để đổi mới được điều này thì việc đưa CNTT để kết hợp với các phương pháp đã đem lại hiệu quả cao trong dạy và học.

– Hướng dẫn sử dụng các thiết bị tin học và truy cập Internet một cách hiệu quả, vì đây là nguồn thông tin khổng lồ để cho đơn vị nghiên cứu, học tập và trao đôi thông tin như thông qua hộp thư điện tử để trao đổi thông tin, giáo án, nộp báo cáo…

– Để thuận lợi trong việc phát triển và sử dụng có hiệu quả trong phong trào ứng dụng CNTT, từ đầu các năm học tôi chia các giáo viên trong tổ thành các nhóm, cụ thể chia nhóm theo môn. Ví dụ: Nhóm Toán, Lý, Hoá, Sinh, Thể… Mỗi nhóm đều có 1 đồng chí làm trưởng nhóm. Tôi quản lí nhóm thông qua mối dây liên hệ với các trưởng nhóm. Mọi công việc của nhóm đều do đồng chí trưởng nhóm trực tiếp điều hành, tôi đã phân chia công việc cho các nhóm thực hiện và tôi tập trung bồi dưỡng cho các trưởng nhóm về ứng dụng CNTT sau đó các nhóm trưởng có trách nhiệm về truyền đạt lại cho các nhóm của mình.

– Tham mưu với Ban giám hiệu, theo dõi, đôn đốc động viên giáo viên thực hiện tốt công tác học tập tự bồi dưỡng, bồi dưỡng thường xuyên trong hè và trong cả năm học. Tạo điều kiện cho giáo viên học tập nâng cao trình độ tin học. Bố trí xắp sếp thời gian cho can bộ, giáo viên được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn do ngành tổ chức, sau đó về truyền đạt kinh nghiệm cho cán bộ, giáo viên và nhân viên trong trường cùng nắm bắt được các kiến thức mới trong công tác của mình.

– Để ứng dụng CNTT trong nhà trường đạt hiệu quả cao thì những người lãnh đạo phải đi đầu, phải gương mẫu, phải làm hiệu quả thì sẽ lôi kéo cả một tập thể tham gia và cùng nhau nghiên cứu và phát triển.

– Song song với việc tổ chức thao giảng tập trung, tôi luôn yêu cầu các tổ, nhóm bộ môn thực hiện tốt kế hoạch “Dự giờ theo chỉ đạo của tổ” đặc biệt phải có ứng dụng CNTT tìm kiếm phương pháp và giải pháp tốt nhất khắc phục những khuyết điểm mà sử dụng CNTT chưa đem lại hiệu quả. Hàng tuần các giáo viên lên lịch dự giờ của mình là 1 tiết/ 2tuần và ghi vào kế hoạch tuần để giáo viên trong tổ và tổ trưởng theo dõi có thể cùng tham gia dự giờ và có thể theo dõi được việc dự giờ thường xuyên với các giáo viên. nhằm tăng cường trao đổi, rút kinh nghiệm trong giảng dạy, đặc biệt là các bài khó dạy, các dạng bài quan trọng. Tổ CNTT tham mưu lên BGH chỉ đạo mỗi môn, khối lớp ít nhất 1 tuần phải thực hiện 1 tiết dự giờ theo chỉ đạo của tổ, nhóm bộ môn các tiết dạy có ứng dụng CNTT.

Nhờ vậy việc dự giờ của giáo viên thực sự có hiệu quả, làm tăng chất lượng giờ dạy không chỉ ở giáo viên đi dự giờ mà cả ở các giáo viên dạy các tiết có dự giờ với ứng dụng CNTT. Đồng thời ở các tiết dạy “khó” đã được giải quyết bằng sự nỗ lực của cả tổ, các tiết có ứng dụng CNTT ngày càng tăng.

Để tiện việc chỉ đạo theo dõi hoạt động này tôi cùng nhân viên thiết bị đã chuẩn bị tốt CSVC và các thiết bị CNTT tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên có thể sử dụng các thiết bị CNTT đạt hiệu quả.

Đặc biệt là tạo các sân chơi có ứng dụng CNTT trong và ngoài nhà trường để cho đội ngũ cán bộ, giáo viên có nơi vui chơi, học tập, giải trí và rút kinh nghiệm như những cuộc thi tạo các bài giảng điện tử đa phương tiện, tích hợp nhiều phần mềm giữa các tổ nhóm, thiết kế đồ dùng dạy học có ứng dụng CNTT (tạo an bum ảnh, nhạc cho các môn lịch sử, sinh học, nhạch…) trong đó các giáo viên tin học luôn luôn sát cánh bên họ để họ đầu tư hơn về chuyên môn tin học cho bản thân và cho nhà trường.

Trong các kì thi do ngành và phòng tổ chức thì các tổ trưởng và người chịu trách nhiệm về CNTT phải là những người đi đầu và thật sự có hiệu quả, đem lại lợi ích lúc đó mới tạo sự tin tưởng cho cán bộ giáo viên trong nhà trường.

– Để việc ứng dụng CNTT trong nhà trường đạt hiệu quả đến từng bộ phận trong trường thì các thiết bị hỗ trợ về CNTT là không thể thiếu và phải có chất lượng như máy chiếu, máy vi tính, phòng CNTT…

– Tham mưu lên Ban giám hiệu sắp xếp và đầu tư trang thiết bị tin học ngày càng hiện đại.

– Việc sử dụng và bảo quản phải thường xuyên, hàng tuần các bộ phận trong nhà trường phải báo cáo tình trạng các thiết bị CNTT lên bộ phận CNTT để bảo trì và giải quyết những sự cố nếu có. Phải đảm bảo các thiết bị thông tin luôn luôn hoạt động tốt.

– Ý thức bảo quản trang thiết bị phải đưa lên hàng đầu, nếu ý thức bảo quản tốt thì trang thiết bị sẽ luôn ổn định được sử dụng về lâu về dài và tiết kiệm được ngân sách cho đơn vị, cho nhân dân.

– Tham mưu với Ban đại diện Cha, mẹ học sinh tạo điều kiện hỗ trợ cùng với nhà trường đầu tư cơ sơ vật chất thang thiết bị tin học để cho các em học sinh có điều kiện học tập thuận lợi hơn.

– Phải đảm bảo đường truyền Internet 24/24 để mọi người truy cập và khai thác thông tin.

Nếu trang thiết bị CNTT không tốt, không ổn định sẽ làm cho người dùng dễ chán nãn và không muốn tham gia đây là một việc rất quan trọng cần phải chú ý.

4. Ứng dụng công nghệ thông tin đến với học sinh.

Nhà trường thường xuyên tổ chức các sân chơi cho học sinh trong đó có ứng dụng CNTT, các em rất phấn khởi nhiệt tình tham gia và cùng với các thầy, cô nghiên cứu học hỏi, tìm tòi vận dụng để tìm ra những sáng tạo hấp dẫn hơn. Như trò chơi “Rung chuông vàng”, “Câu lạc bộ ngoại ngữ có ứng dụng CNTT”, “Câu lạc bộ tin học”, “Tìm ô đoán chữ”…

Hướng dẫn cho các em sử dụng Internet để truy cập và tìm kiếm các trang Web lành mạnh, các thông tin bổ ích trên mạng hỗ trợ cho việc học tập, vui chơi, giải trí của các em để các em giảm đi gánh nặng căng thẳng trong học tập.

Trong tuần những thời gian rãnh nhà trường mở phòng máy tính cho các em đến học tập, nghiên cứu vì thế trong các kì thi qua mạng do Bộ, Sở và phòng giáo dục tổ chức như giải toán qua mang (Violympic), Tiếng Anh qua mạng (IOE), giao thông thông minh… các em rất nhiệt tình tham gia, làm cho bộ mặt CNTT trong nhà trường ngày càng đi lên.

5. Tổ chức tốt việc kiểm tra đánh giá kết quả ứng dụng CNTT trong nhà trường.

– Tổ chức kiểm tra thường xuyên việc ứng dụng CNTT trong từng tiết giảng:

– Kiểm tra và đánh giá kiến thức học sinh là một công việc rất quan trọng của người thầy để đút rút kinh nghiệm giữa một tiết có ứng dụng CNTT và một tiết truyền thống, sau đó cùng góp ý với đồng nghiệp để tìm biện pháp đạt hiệu quả cao nhất. Như trong những tiết có ứng dụng CNTT thì tiết học sôi nổi, học sinh rất hào hứng trong học tạp, hình ảnh trực quan và sinh động làm cho học sinh có sự tập trung hơn.

– Tổ CNTT cần luôn giám sát các phòng ban trong trường để nắm bắt được những ưu, nhược điểm của các phần mềm ứng dụng, thiết bị như thư viên, thiết bị, kế toán… nhằm tìm ra những giải pháp để khắc phục.

– Mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường phải có trách nhiệm thường xuyên nghiên cứu, tìm kiếm thông tin bổ ích để đưa lên website.

– Phân công nhiệm vụ theo dõi và quản lí Website, kiến nghị hay đề suất những thông tin cần đưa lên của các thành viên trong nhà trường, kiểm tra đánh giá chất lượng thông tin trước khi đưa lên Web đã làm cho thông tin trên Website luôn luôn phong phú và hấp dẫn.

– Có xếp loại giáo viên đồng thời đề nghị khen thưởng các giáo viên có năng lực về CNTT cũng như các cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ sau mỗi năm học.

Đặc biệt những năm học gần đây đang đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nên tôi luôn luôn vận động các đồng chí trong tổ tham gia đăng ký các tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học để nâng cao chất lượng tiết dạy. Tôi nhận thấy hầu như nhiều giáo viên còn ngại, chưa tự tin trong việc soạn giảng, dạy học bằng các phương tiện công nghệ thông tin. Nên bản thân tôi là người luôn tổ chức các chuyên đề về ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy để các đồng chí giáo viên trong trường mạnh dạn hơn trong việc ứng dụng công nghệ thông tin. Bên cạnh đó luôn giúp đỡ, hướng dẫn các đồng chí để nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin.

Tin học hóa việc giảng dạy, cộng điểm, xếp loại, thống kê kết quả học tập của học sinh. Cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác các kết quả đó cho tổ, nhóm và chuyên môn.

Sử dụng phần mềm để thống kê kết quả kịp thời ngay khi giáo viên nhập điểm các bài kiểm tra từ 15 phút trở lên. Nội dung thống kê theo từng giáo viên, từng khối lớp và toàn trường. Tôi cung cấp các bản thống kê này cho tổ và nhóm bộ môn để phục vụ cho việc sinh hoạt tổ, nhóm.

Nhờ vậy tổ, nhóm bộ môn có được kết quả thống kê một cách chính xác, kịp thời để có số liệu cho việc sinh hoạt tổ, nhóm bộ môn nhanh nhất.

Ứng Dụng Công Nghệ Sinh Học

Chúng ta đều biết, nông nghiệp là một ngành đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, kể cả những nước đạt đến trình độ phát triển cao. Nó là một ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế, là khu vực sản xuất chủ yếu, đảm bảo việc làm và đời sống cho xã hội; là nơi cung cấp yếu tố đầu vào cho ngành công nghiệp và được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa.

Việt Nam là một nước mà nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao nhưng trước đây những chính sách bất hợp lý đã kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) nhà nước đã thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế trong đó nông nghiệp được chú trọng đầu tiên. Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đến nay nông nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng. Xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu, nghèo đói, thiếu lương thực, thực phẩm trở thành một nước xuất khẩu nhiều sản phẩm nông nghiệp, thu về nguồn ngoại tệ lớn cho ngân sách nhà nước. Có thể tự hào khẳng định ngành nông nghiệp Việt Nam đang làm tốt vai trò của mình trong việc xây dựng và phát triển nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, đảm bảo an ninh lương thực và dự trữ quốc gia.

Nhận thức được tầm quan trọng của ngành nông nghiệp trong công cuộc phát triển kinh tế, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã nỗ lực đưa ngành nông nghiệp vượt qua nhiều thách thức và đạt dược những kết quả tốt. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, nông nghiệp Việt Nam vẫn đang gặp không ít khó khăn như: Diện tích đất trồng trọt giảm do hệ quả của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Trong khi đó dân số nước ta dự kiến chạm mốc 100 triệu người vào năm 2020, nghĩa là trong chưa đầy thập kỷ nữa chúng ta phải đảm bảo đủ lương thực cho số dân tăng thêm này. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu lương thực thì vấn đề đặt ra là làm sao để tăng năng suất cây trồng trên quỹ đất vốn có, hoặc thậm chí là đang hạn hẹp dần này.

Từ năm 1996, công nghệ sinh học là một trong những giải pháp được 29 quốc gia lựa chọn để giải quyết vấn đề lương thực. Trên cơ sở vai trò to lớn của công nghệ sinh học đối với cuộc sống, Đảng ta coi phát triển công nghệ sinh học là nhiệm vụ hàng đầu. Ngày 4/3/2005, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 50-CT/TW về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Phát triển công nghệ sinh học hướng đến mục tiêu: Tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng và mang lại hiệu quả kinh tế cao phục vụ tốt cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các nông sản hàng hóa, tăng nhanh tỷ lệ nông – lâm – thủy sản chế biến xuất khẩu; tiến tới tự cung cấp được nguyên liệu để sản xuất thuốc chữa bệnh; tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học trong công tác bảo vệ và khắc phục ô nhiễm môi trường. Phát triển công nghệ sinh học đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; xây dựng nền công nghiệp sinh học thành một ngành kinh tế-kỹ thuật công nghệ cao, sản xuất được một số sản phẩm chủ lực và đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế quốc dân. Tạo ra phong trào ứng dụng công ngh sinh học rộng rãi trong nông nghiệp và nông thôn.

Nhân loại đang bước vào cuộc cách mạng công nghệ mới trong lịch sử- cách mạng công nghệ sinh học. Cuộc cách mạng này phát triển với tốc độ nhanh chóng, có thể tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo và có ảnh hưởng to lớn, sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội loài người.

Cụm từ CNSH được Karlerky đưa ra năm 1917, theo ông: Công nghệ sinh học là từ dùng để chỉ “tất cả những công việc trong đó các sản phẩm được sản xuất ra từ các nguyên liệu thô với sự giúp đỡ của các vật chất sống”. Như vậy, từ hàng vạn năm trước đây loài người đã biết sử dụng vi sinh vật trong sản xuất rượu, dấm, nước quả lên men, nước mắm, tương, sữa chua…để phục vụ nhu cầu hàng ngày của mình. Đó được xem là thành tựu của công nghệ sinh học truyền thống. Ngành công nghệ sinh học tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ vào những thập kỷ 40- 70 của thế kỷ trước và được đánh dấu bởi cấp độ công nghệ sinh học cận đại với việc sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm của công nghệ lên men, công nghệ vi sinh vật (bia, rượu, sản xuất axit amin, vắcxin, thuốc trừ sâu sinh học, phân bón sinh học…). Tuy nhiên, phải đến năm 1972, khi công nghệ AND tái tổ hợp ra đời và kết hợp với công nghệ sinh học truyền thống đã tạo bước phát triển rực rỡ của công nghệ sinh học – CNSH hiện đại. Nhờ có công nghệ AND tái tổ hợp, bản chất của CNSH đã có sự thay đổi vĩnh viễn. CNSH hiện đại sử dụng các kỹ thuật trao đổi, sửa chữa, tổ hợp hoặc cải tạo vật chất di truyền ở mức độ phân tử để tạo ra những loại sinh vật mới hoặc các sản phẩm khác mà vốn dĩ chúng không tạo ra được. CNSH hiện đại bao gồm các lĩnh vực: Công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh vật/công nghệ lên men, công nghệ enzym/protein và CNSH môi trường.

Nói tới ứng dụng CNSH trong nông nghiệp là việc sử dụng các kỹ thuật như: Kỹ thuật cấy mô, kỹ thuật sinh học phân tử và kỹ thuật di truyền.

Phương pháp cấy mô đã được áp dụng từ lâu bởi những nhà trồng hoa và các nhà chọn giống. Tuy nhiên, ngày nay với tiến bộ kỹ thuật trong nuôi cấy mô người ta có thể sản xuất giống trong phòng thí nghiệm để đưa ra sản xuất nhanh chóng hơn nhiều lần phương pháp truyền thống. Trong 1 năm, với 1 cây hồng gốc người ta có thể sản xuất ra 130.000 cây hồng, trong khi với phương pháp dâm cành chỉ có thể cho tối đa 50 cây. Như vậy, công nghệ này giúp năng suất lao động của người nông dân tăng lên 2.500 lần.

Với kỹ thuật sinh học phân tử, nó giúp chúng ta phát hiện những độc hại trong quá trình sản xuất, trong thức ăn hay trong hệ sinh thái (đất, các nôi vi sinh…). Kỹ thuật này còn giúp cho việc chọn lọc ở giai đoạn rất sớm từ phôi hay mầm non của những cá thể mang những đặc tính có lợi như giới tính, sức chống chịu bệnh, sức kháng bệnh trong những điều kiện đặc biệt. Ứng dụng nổi bật của sinh học phân tử được biết tới trong lĩnh vực chuẩn đoán bệnh dịch cây trồng, vật nuôi và trong chọn tạo giống.

Tuy nhiên, đến nay, cách mạng chính về CNSH là kỹ thuật di truyền hay còn gọi là kỹ thuật tái tổ hợp gen. Giờ đây, trong nông nghiệp, người ta đã chuyển thành công nhiều gen lạ vào cây trồng, tạo ra các cây trồng mới chưa từng có, có khả năng kháng sâu hại, kháng thuốc diệt cỏ, kháng bệnh hại, ức chế sự chín nhanh của quả và nhiều loại gen khác, cây trồng biến đổi gen nhờ công nghệ sinh học trở thành loại cây trồng được đưa vào ứng dụng nhanh nhất trong lịch sử. Giai đoạn 2011-2020 sẽ được tập trung vào các đặc tính chống chịu với điều kiện môi trường bất lợi, nâng cao năng suất, tăng cường hàm lượng các thành phần chức năng, biến đổi hàm lượng lignin, phát triển các trang trại phân tử. Theo dự đoán, những năm 20 của thế kỷ 21 sẽ là kỷ nguyên vàng của cây trồng biến đổi gen.

Bằng giải pháp ứng dụng công nghệ sinh học để giải quyết vấn đề lương thực, từ năm 1996 – 2010, diện tích cây trồng công nghệ sinh học đã góp phần tích cực vào quá trình tăng cường an ninh lương thực, phát triển bền vững và khắc phục biến đổi khí hậu thông qua việc nâng giá trị sản lượng cây trồng lên 78,4 tỉ USD, đóng góp vào việc cải thiện môi trường bằng cách giúp tiết kiệm 443 triệu kg thuốc trừ sâu, giảm tới 19 tỉ kg khí CO 2 chỉ riêng trong năm 2010, tương ứng với lượng khí thải của gần 9 triệu xe ô tô vận hành trên đường, bảo tồn đa dạng sinh học bằng cách góp phần bảo tồn 91 triệu hecta rừng và giúp xoá đói giảm nghèo cho 15 triệu nông dân sản xuất quy mô nhỏ – những người thuộc thành phần nghèo nhất trên thế giới.

Đối với nước ta, CNSH đang được chú trọng và có bước phát triển khá nhanh, có bước tiến khả quan trong những năm tới. Chúng ta đã thực hiện hợp tác quốc tế và ứng dụng nhiều thành tựu của CNSH trong sản xuất nông nghiệp. Đó là, hàng loạt những giống lúa mới ngắn ngày có năng suất cao được tạo ra bằng CNSH đã được đưa vào sản xuất. Kỹ thuật cấy mô của các chuyên gia sinh học nước ta cũng đạt kết quả tốt trong việc nhân giống khoai tây, giống hoa và một số cây trồng khác. Một số giống lúa của Việt Nam được tạo ra bằng CNSH như DR1, DR2 có những đặc tính tốt: Khả năng chịu rét, đẻ nhánh khỏe và tập trung, thấp cây, ngắn ngày, năng suất đạt 8-9 tấn/ha. Biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM) đang được triển khai rộng khắp trong những năm gần đây thực sự là một tiến bộ kỹ thuật đưa lại hiệu quả lớn, giảm dư lượng thuốc BVTV, giảm ô nhiễm môi trường, là biện pháp tích cực hướng đến một nền nông nghiệp sạch.

Trong chăn nuôi, phương pháp truyền giống nhân tạo là kết quả của CNSH. Từ việc thực hiện lai kinh tế đến nay đã đã chuyển sang hướng lai cải tạo giống, thực hiện nạc hóa đàn heo và sinh hóa đàn bò. Bằng phương pháp thụ tinh bằng viên tinh đông khô, chúng ta đã có được hàng loạt gia súc thích hợp với khí hậu và điều kiện chăn nuôi ở nước ta.

Một số vaccin chế tạo trong nước đã đạt trình độ quốc tế giúp chúng ta chủ động trong việc phòng dịch cho gia súc.

Từ những thành tựu nổi bật của nền nông nghiệp thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng nhờ ứng dụng CNSH giúp chúng ta có niềm tin ở triển vọng khả quan của ngành CNSH nước ta. CNSH là giải pháp cho một nền nông nghiệp tiên tiến./.

Huyền Trang