Top 7 # Giải Pháp Khắc Phục Tình Trạng Già Hóa Dân Số Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Già Hóa Dân Số Và Một Số Giải Pháp Khắc Phục

Chủ đề: Già hóa dân số (GHDS)

I. Một số khái niệm

II. Tình hình giàhóa dân số trênthế giới

III. Tình hình giàhóa dân số ở ViệtNam

1. Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi

2. Cơ cấu xã hộiI. Một số kháiniệm

3. Tháp dân số

4.Già hóa dân số

5. Tác động của già hóa dân số

+ Độ tuổi theo khoảng cách đều nhau, thông thường trong dân số học,người ta nghiên cứu cơ cấu theo tuổi với khoảng cách đều 5 năm.

3. Tháp dân số* Là một loại biểu đồ biểu diễn thành phần nam, nữtheo các độ tuổi ở một thời điểm nhất định.

* Tháp được xây dựng theo các lớp tuổi cách nhau 1năm, 5 năm, 10 năm.* Tháp sẽ có dạng khác nhau tùy theo đặc trưng củamức độ sinh, chết và chuyển cư.* Do dân số các nước khác nhau nên tháp dân số cũngkhác nhau. Tuy nhiên người ta phân biệt được 3 kiểu(dạng) tháp dân số cơ bản đó là:

Hình 1. Các kiểu tháp dân số cơ bản (Nguồn kiemtailieu.com)

Kiểu mởrộng– Đây là tháp dân số trẻ.– Tháp có hình dạng đáy rộng, càng lêncao càng hẹp lại nhanh.– Đây là kiểu kết cấu dân số của các nướcchậm phát triển có dân số trẻ và tăng nhanh

Tỷ xuất sinh cao,tỷ lệ người già thấp, tuổi thọ trung bìnhkhông cao.

Kiểu thuhẹp– Đây là kiểu tháp dân số trưởng thành.– Thể hiện tỷ suất sinh thấp, tỷ lệ trẻ emthấp hơn kiểu mở rộng và đang giảm, tỷ lệchết thấp, tuổi thọ TB cao, số người trongđộ tuổi lao động nhiều.– Đây là kiểu tháp chuyển từ dân số trẻ sangdân số già.

4. Già hóa dân số– Theo quy ước của Liên Hợp Quốc, một quốc gia có tỷ lệ ngườitừ 60 tuổi trở lên chiếm từ 10% trở lên hoặc tỷ lệ người từ 65 tuổitrở lên chiếm từ 7% trở lên thì được gọi là quốc gia “già hóa dânsố”.” Già hóa dân số là một quá trình mà tỷ lệ người trưởng thành vàngười cao tuổi tăng lên trong cơ cấu dân số, trong khi tỷ lệ trẻ emvà vị thành niên giảm đi, quá trình này dẫn tới tăng tuổi trung vịcủa dân số ”.

5. Tác động của già hóa dân sốa. Thuận lợi

* Nâng cao tuổi thọ là một trong những thành tựu vĩđại nhất của loài người.* Người già có nhiều kinh nghiệm sản xuất, có công laoto lớn trong các cuộc kháng chiến của dân tộc..

* Hạn chế tệ nạn xã hội.* Người lớn tuổi được xem là trụ cột, là”chất kết dính”giữa các thế hệ trong gia đình…

Suy giảm tăng trưởngkinh tế quốc gia

Là gánh nặng của xãhội

.

Tạo áp lực lớn chochính phủ

II. Vấn đề già hóa dân sốtrên thế giới– Vào thập kỉ đầu của TK XXI, ở hầuhết các quốc gia diển ra sự thay đổinhân khẩu học dần dần từ dân sốtrẻ sang dân số già hơn.– Già hóa dân số đang diễn ra trêntất cả các khu vực và các quốc giavới các mức độ khác nhau.– Các nước phát triển quá trình giàhóa dân số diễn ra sớm do có nềnkinh tế phát triển sớm, khoa học kĩthuật tiên tiến, đời sống vật chất cao,…

– Già hóa dân số đang tăng nhanh ở các nước đang phát triểnkể cả các nước có nhóm dân số trẻ đông đảo.đang gia tăngnhanh nhất ở các nước đang phátó nhóm dân số trẻ đông đảo.nhóm dân số trẻ đông đảo.

Biểu đồ thể hiện số người từ 60 tuổi trở lên giai đoạn 1950- 2050

Hiện tại

Dự báo ( trước 2030)

Nhật Bản

25,8%

32,3 %

Đức

21,1%

27,9%

Ý

21%

25,5%

Pháp

18,3%

23,4%

Tây Ban Nha

17,6%

22%

Anh

17,5%

21,3%

Canada

17,3%

24,9%

Ukraine

15,9%

22%

Ba Lan

15%

23,1%

Mỹ

14,5%

20,3%

Nguồn: Theo số liệu từ Cục điều tra dân số của Mỹ (8/2014)

– Trên thế giới, cứ một giây, có hai người tổ chức sinhnhật tròn 60 tuổi – trung bình một năm có gần 58 triệungười tròn 60 tuổi.

– Tuổi thọ trung bình đã gia tăng đáng kể trên toàn thế giới.– Hiện nay, có tới 33 quốc gia đạt được tuổi thọ trung bình trên80 tuổi; trong khi đó 5 năm trước đây, chỉ có 19 quốc gia đạt consố này.Giai đoạn

Các nước phát triển

Các nước đang phát triển

2010- 2015

78 tuổi

68 tuổi

Dự kiến 2045- 2050

83 tuổi

74 tuổi

– Nhật Bản là quốc gia duy nhất có trên 30% dân số già, nhưngđến năm 2050, dự tính sẽ có 64 nước có trên 30% dân số giànhư Nhật Bản.

– Người cao tuổi trên thế giới ngày càng tăng về cả tỷ lệ và sốtuyệt đối.Thế giớiNăm

Các nước phát triển

Các nước đang pháttriển

Số lượng (triệungười)

Số lượng (triệungười)

8,2

85

11,7

110

6,4

606

10

232

19,4

374

7,7

1964

21,1

395

33,5

19,3

19,3

Số lượng (triệungười)

1950

205

Tình hình già hóa dân số thế giới ( Nguồn:kiemtailieu.com)

* Năm 1950, toàn thế giới có 205 triệu người từ 60 tuổi trở lên.Đến năm 2012, số người cao tuổi tăng lên đến gần 810 triệungười. Dự tính con số này sẽ đạt 1 tỷ người trong vòng gần10 năm nữa và đến năm 2050 sẽ tăng gấp đôi là 2 tỷ người.Năm

1950

1975

2000

2025

2050

Số dân(triệu)

2.500

3.900

6.080

8.011

9.150

205

350

606

1.193

1.964

Tỉ lệ ngườicao tuổi (%)

8,2

9,1

10

14,9

21,1

 Tình trạng “già hóa dân số” ởnhiều nước phát triển đang đặtra nhu cầu xem xét lại giới hạnđộ tuổi lao động tích cực củangười cao tuổi. Các nước đang phát triển cầnđáp ứng nhu cầu giáo dục, chămsóc sức khỏe cho thế hệ trẻ, sứckhỏe sinh sản vị thành niên. Các quốc gia cần có giải phápthiết thực đối với người già vềsức khỏe, vật chất và tinh thầntrước sự già hóa của dân số.

III. Vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam1. Hiện trạng GHDS ở Việt Nam– Nước ta là một nước có cơ cấu dân số trẻ (2005).Nhóm tuổi

1979

1989

1999

2005

0- 1

42,5

38,9

33,6

27,0

15- 59

50,4

53,2

58,3

64,0

7,1

7,9

8,1

9,0

Tổng (%)

100

100

100

100

Cơ cấu dân số Việt Nam theo nhóm tuổi giai đoạn 1979- 2005

– Tuy nhiên do quá trình giảm sinh tương đối nhanh trong nhữngnăm qua tỷ trọng dân số trẻ đã có xu hướng giảm mạnh và tỷtrọng dân số già đã tăng lên từ 7,1% năm 1979 lên 9% vào năm2005.– Năm 2009, Tổng cục Thống kêdự báo đến 2017 nước ta mớibước vào giai đoạn già hóa dânsố. – Nhưng chỉ 2 năm sau dự báonày đã trở nên lạc hậu.– Năm 2011, Việt Nam chính thứcbước vào giai đoạn già hóa dânsố. Tốc độ già hóa dân số củanước ta nhanh hàng đầu châu Ávà cũng thuộc diện nhanh nhấtthế giới.

Biểu đồ thể hiện tỉ lệ người già của nước ta ngày càng tăng giai đoạn2010- 2014.

Hàn Quốc: Báo Động Tình Trạng Già Hóa Dân Số

Người cao tuổi tại Seoul, Hàn Quốc. (Nguồn: AFP)

Cụ thể, gần một nửa dân số Hàn Quốc đến năm 2067 sẽ là nhóm người từ 65 tuổi trở lên và điều này đặt ra những thách thức lớn cho việc đảm bảo an sinh xã hội của nền kinh tế lớn thứ tư châu Á này.

Theo báo cáo trên, dân số của Hàn Quốc được dự báo sẽ giảm từ 51,7 triệu người trong năm 2019, còn 39 triệu người vào năm 2067. Cùng với đó, nhóm người trên 65 tuổi cũng tăng vọt từ tỷ lệ 14,9% hiện nay, lên mức 46,5%. Những quốc gia có tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên trên chiếm 21% tổng dân số được xếp loại nước dân số già.

Trong khi đó, trong 48 năm tới, dân số thế giới được dự báo sẽ tăng từ 7,71 tỷ người hiện nay lên 10,38 tỷ người. Tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên sẽ tăng từ 9,1% lên 18,6%. Với những con số dự báo nêu trên, Hàn Quốc sẽ trở thành quốc gia có tỷ lệ dân số già cao nhất trong tổng số 201 nước trên thế giới vào năm 2067, vượt Mỹ (25,1%), Trung Quốc (29,9%) và Nhật Bản (38,1%).

Cũng theo báo cáo này, nhóm dân số dưới 15 tuổi của Hàn Quốc sẽ giảm từ 12,4% hiện nay, còn 8,1% vào năm 2067 và số người trong độ tuổi lao động của Hàn Quốc (15-64) có thể giảm từ 72,7% còn 45,4% trong cùng thời gian trên. Điều này có thể làm gia tăng gánh nặng tài chính đối với thế hệ trẻ và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của Hàn Quốc trong vài chục năm tới.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do tỷ lệ sinh ở Hàn Quốc giảm và tuổi thọ tăng. Năm 2018, tỷ lệ sinh ở Hàn Quốc giảm xuống con số kỷ lục 0,98. Trước đó, năm 2017, Seoul ghi nhận tỷ lệ sinh giảm xuống mức 1,05 – mức thấp nhất trong Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD).

Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh ở Hàn Quốc giảm là do thế hệ trẻ Hàn Quốc đang “trốn tránh” hẹn hò, kết hôn và sinh con do họ không thể tìm được việc làm ổn định trong thời kỳ kinh tế suy giảm.

So với tuổi thọ trung bình của các nước trên thế giới, tuổi thọ trung bình của người Hàn Quốc cao hơn hẳn, ghi nhận ở mức 82,5 tuổi giai đoạn 2015-2020, trong khi thế giới là 72,3 tuổi.

Hãy coi người cao tuổi là tài sản thay vì gánh nặng xã hội

“Để tiến đến một xã hội già hóa thành công, chúng ta cần thay đổi nhận thức của toàn xã hội, coi người cao tuổi …

Người dân Hàn Quốc khốn đốn vì vay nợ hộ gia đình

Lee Sang-Kuk, một người lao động Hàn Quốc phải làm tới hai công việc cùng một lúc nhưng vẫn không thể kiếm đủ tiền để …

Giải Pháp Nào Ứng Phó Già Hóa Dân Số?

Nghiên cứu ở 4.000 người tại 12 tỉnh của Việt Nam cho thấy, 70% người cao tuổi có ít nhất 2 bệnh. Ảnh: DN

Khái quát bức tranh dân số Việt Nam thời gian qua, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số, Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế cho biết, từ năm 2007, Việt Nam bước vào thời kỳ dân số vàng, chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, đạt 73,5 tuổi năm 2018, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.

Tuy nhiên, Việt Nam đang ở giai đoạn già hóa dân số với tỷ trọng và số lượng người cao tuổi ngày càng tăng. Điều này đã đặt ra những thách thức lớn cho Việt Nam trong việc thích ứng với già hóa dân số, trong đó có bao gồm việc chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, với tốc độ già hóa như hiện nay, đến năm 2038, nhóm dân số từ 60 trở lên của nước ta sẽ khoảng 21 triệu người, chiếm 20% tổng dân số. Cũng từ năm 2038, số người trong độ tuổi lao động bắt đầu giảm. Các chuyên gia nhấn mạnh, xu hướng già hóa là tất yếu, chính vì vậy cần có những can thiệp chính sách kịp thời để duy trì cơ cấu dân số hợp lý.

Các chuyên gia thừa nhận, quá trình già hóa dân số, nhu cầu được chăm sóc của người cao tuổi ngày càng tăng, là một thách thức rất lớn với hệ thống an sinh xã hội, hệ thống y tế và cộng đồng khi hiện nay chúng ta chưa chuẩn bị đầy đủ điều kiện để ứng phó.

Thống kê của ngành Y tế cho thấy, phần lớn người cao tuổi có cuộc sống khó khăn, thu nhập thấp, không ổn định hoặc không có thu nhập, sống phụ thuộc vào con, cháu… Số người cao tuổi có lương hưu, bảo hiểm, trợ cấp xã hội thấp cả về độ bao phủ và mức hưởng.

Hiện nay, khoảng 70% số người cao tuổi nước ta sống ở nông thôn, làm nông nghiệp; hơn 70% số người cao tuổi không có tích lũy vật chất và chỉ có chưa đầy 30% số người cao tuổi sống bằng lương hưu hay trợ cấp xã hội.

TS. Nguyễn Ngọc Quỳnh, cán bộ chương trình, Quỹ Dân số Liêp hợp quốc (UNFPA) cho biết, nghiên cứu ở 4.000 người tại 12 tỉnh của Việt Nam cho thấy, 70% người cao tuổi có ít nhất 2 bệnh. Trung bình mỗi người cao tuổi có 2,7 bệnh; 14% người cao tuổi gặp khó khăn trong các hoạt động sống hàng ngày và cần hỗ trợ.

“Số người cao tuổi gặp ít nhất 1 loại khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày tăng từ 28% ở người 60- 69 tuổi lên hơn 50% ở người 80 tuổi. Đặc biệt, gần 50% người cao tuổi không có thẻ BHYT”, TS. Quỳnh nêu.

Nghiên cứu cũng chỉ rõ, nếu năm 2011 chỉ khoảng 1,5 triệu người cao tuổi có nhu cầu hỗ trợ trong các hoạt động sống hàng ngày thì tới năm 2019 số lượng đã lên tới 4 triệu người. Dự báo đến năm 2049, có khoảng 10 triệu người cao tuổi có nhu cầu hỗ trợ trong các hoạt động sống hàng ngày.

Đa dạng mô hình chăm sóc người cao tuổi

Để thích ứng với già hóa dân số, theo các chuyên gia dân số, Việt Nam cần phát triển và tăng cường quản lý dịch vụ chăm sóc xã hội, cũng như có cơ chế phối hợp công- tư trong cung ứng dịch vụ chăm sóc xã hội. Ðặc biệt, cần khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào cung cấp dịch vụ chăm sóc người cao tuổi cũng như gắn kết giữa chăm sóc y tế tại cộng đồng với dịch vụ chăm sóc xã hội.

TS. Nguyễn Ngọc Quỳnh, Việt Nam cần có chiến lược sức khỏe và thúc đẩy già hóa khỏe mạnh trong suốt vòng đời, nhấn mạnh vào chăm sóc sức khỏe ban đầu, chăm sóc phòng ngừa. Đồng thời phối hợp chăm sóc y tế và chăm sóc phi y tế (chăm sóc xã hội).

Bên cạnh đó, theo TS. Quỳnh, Việt Nam cũng cần xây dựng chính sách, kế hoạch về dịch vụ và phân bổ ngân sách theo các cấp và các ngành để đảm bảo người cao tuổi tiếp cận được dịch vụ phù hợp.

Để công tác chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi đạt hiệu quả cao nhất, thích ứng với già hóa dân số, theo TS. Vũ Công Nguyên, Phó Viện trưởng Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển, nước ta cần tích cực xây dựng môi trường thân thiện với người cao tuổi để hỗ trợ đáp ứng những nhu cầu của người cao tuổi nhằm đạt mục tiêu sống khỏe mạnh, tham gia các hoạt động, an sinh xã hội.

Bên cạnh đó, theo TS. Nguyên, Việt Nam cần đa dạng hóa mô hình chăm sóc người cao tuổi hiệu quả, chuyên nghiệp và phát triển mạng lưới cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc, điều dưỡng người cao tuổi gắn với chăm sóc tại gia đình, cộng đồng. Trong đó, cần phát triển nhiều mô hình như nhà dưỡng lão phù hợp với truyền thống văn hóa của người Việt. Đẩy mạnh phát triển y tế cơ sở để không chỉ phòng bệnh chăm sóc sức khỏe ban đầu mà đặc biệt là chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, tập trung vào các bệnh mãn tính.

Còn ông Mai Xuân Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông Giáo dục, Tổng cục Dân số, Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế, Việt Nam cần phải chuẩn bị tiềm lực kinh tế, phát triển an sinh xã hội để mang lại cuộc sống hạnh phúc cho người cao tuổi. Đồng thời, phải có chiến lược dài hạn làm chậm thời gian chuyển đổi từ già hóa dân số sang dân số già.

Ngoài ra, theo ông Phương, hệ thống an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi cần được tiến hành toàn diện. Để làm được điều này, Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông Giáo dục nhấn mạnh, không chỉ ngành Dân số mà cần có sự vào cuộc cả hệ thống chính trị các bộ, ngành đoàn thể, địa phương nhằm thích ứng với một xã hội già hóa dân số, đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe nâng cao chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.

D.Ngân

Ứng Phó Với Thực Trạng Già Hóa Dân Số: Việt Nam Đang “Già” Rất Nhanh

LTS: Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số với những thách thức lớn. Số người cao tuổi (NCT) tăng nhanh đòi hỏi sự chăm sóc cả về thể chất lẫn tinh thần rất lớn. Việc chăm sóc và tạo điều kiện sống tốt nhất cho NCT là trách nhiệm của xã hội, cộng đồng, gia đình; đặc biệt trở nên cần thiết trong một xã hội bước vào thời kỳ dân số già. Hướng tới “Hội thảo Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về già hóa dân số” sẽ diễn ra tại Việt Nam trong 2 ngày 25-26/9/2013, Báo GĐ&XH sẽ có loạt bài đề cập đến thực trạng, những tác động của già hóa dân số tới cơ cấu dân số, đời sống xã hội cũng như các chính sách, sự quan tâm của cộng đồng với NCT để thích ứng với vấn đề này.

Dân số Việt Nam đang “già” đi rất nhanh với tốc độ chưa từng có trong lịch sử. Theo dự báo, khoảng 15 – 20 năm nữa, Việt Nam sẽ chuyển sang cơ cấu dân số già, trong khi Pháp mất tới 100 năm, Thụy Điển là 85 năm, Hoa Kỳ là 75 năm… Các chuyên gia về dân số khẳng định, nếu chúng ta không kịp thích ứng, không có mô hình chăm sóc NCT phù hợp, sẽ rất khó khăn cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Tốc độ chưa từng có

Mỗi người già có 2,6 loại bệnh tật

Theo số liệu của Bộ Y tế công bố năm 2012, tỷ lệ NCT có sức khỏe tốt chỉ chiếm khoảng 5%. 95% còn lại mắc các bệnh tăng huyết áp (gần 40%), viêm khớp (hơn 30%), bệnh phổi phế quản tắc nghẽn mãn tính, đái tháo đường, sa sút trí tuệ, giảm thị lực, thính lực…

Tính trung bình mỗi người già mang 2,6 bệnh tật. Hiện Việt Nam có khoảng gần 9 triệu NCT, chiếm 10% dân số cả nước.

Do mức sinh giảm đi đáng kể trong khi tuổi thọ trung bình ngày càng tăng, dân số Việt Nam có xu hướng già đi thấy rõ. Theo Tổng cục Thống kê, tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi của Việt Nam năm 1999 còn ở mức 33,1% thì năm 2012 chỉ còn 23,9% (giảm tới hơn 10%). Trong khi đó, năm 1999 số người trên 65 tuổi chỉ mới chiếm 5,8% dân số thì đến 1/4/2012 tỷ lệ này đã tăng lên mức 7,1%. Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, tỷ lệ NCT nước ta sẽ tăng lên 26% vào năm 2050.

Có lẽ ít quốc gia nào có một cơ cấu dân số đa dạng như ở Việt Nam. Chúng ta vừa chuyển từ cơ cấu dân số trẻ (với hơn 30% dân số là trẻ em) sang cơ cấu “dân số vàng” (số người trong độ tuổi lao động cao gấp 2 lần số người trong độ tuổi phụ thuộc) thì cũng gần như đồng thời bước vào giai đoạn già hóa dân số.

Theo các nhà nhân khẩu học, “già hóa dân số” hay còn gọi là giai đoạn “dân số đang già” là khi dân số 65 tuổi trở lên chiếm trên 7% tổng dân số; hoặc khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm trên 10% tổng dân số.

Trong vòng 30 năm qua, qua 4 kỳ Tổng điều tra dân số (1979, 1989, 1999, 2009), số lượng và tỷ lệ NCT nước ta chỉ tăng trung bình 0,06% mỗi năm. Nhưng chỉ trong vòng 1 năm, từ 1/4/2009 – 1/4/2010, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đã tăng từ 8,67% lên 9,4%, tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 6,4% lên 6,8%. Con số này cho thấy, chỉ trong một năm, tỷ lệ NCT đã tăng hơn gấp 10 lần so với cả giai đoạn trước đây.

Dự báo của Tổng cục Thống kê cho thấy, nước ta sẽ bước vào giai đoạn “già hoá dân số” vào năm 2017. Tuy nhiên, theo TS Dương Quốc Trọng – Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ, với tốc độ gia tăng tương tự như năm 2010 thì đến 1/4/2011, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đã là 10,1%, người từ 65 tuổi trở lên đã là 7,2% và như vậy thì “dù theo tiêu chí nào, chúng ta cũng đã bước vào giai đoạn “già hoá dân số” ngay từ năm 2011, sớm hơn 6 năm so với dự báo”, TS Dương Quốc Trọng cho biết.

Trong khi Pháp mất 100 năm, Thụy Điển 85 năm, Hoa Kỳ 75 năm, Nhật Bản là 26 năm… để chuyển từ cơ cấu dân số già hóa sang dân số già thì theo dự báo, chỉ khoảng 17 – 18 năm tới, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn dân số già, sớm hơn 2 – 3 năm so với dự báo.

Thu nhập chậm, bệnh tật kép

Tuổi thọ là ước mong lớn của con người, do đó già hóa dân số là thành quả của sự phát triển kinh tế – xã hội, khẳng định tính ưu việt của chế độ, của sự phát triển kinh tế – xã hội, mà trực tiếp là công tác chăm sóc sức khỏe người dân, công tác DS-KHHGĐ. Tuy nhiên, theo chúng tôi Giang Thanh Long – Phó Viện trưởng Viện Chính sách công và Quản lý, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, già hóa cũng đang đặt ra thách thức lớn.

Theo phân tích của TS Giang Thanh Long, cơ cấu sắp xếp cuộc sống hộ gia đình NCT hiện nay đã thay đổi rất nhiều. Nếu trước đây, có tới 80% NCT sống với con cái (chỗ dựa quan trọng cho NCT), thì nay do sự thay đổi về đời sống kinh tế – xã hội, tỷ lệ này chỉ còn khoảng 60%. Vẫn còn tới 70% NCT (chủ yếu sống ở nông thôn) không có tích lũy, không có lương và trợ cấp. Điều đó cũng phản ánh một thực trạng là tốc độ thay đổi thu nhập chậm hơn tốc độ già hóa.

Sự biến đổi này tạo ra thách thức lớn, đòi hỏi phải xây dựng chính sách chăm sóc NCT dựa trên cộng đồng và các nhân tố khác thay thế gia đình. Ông cũng chỉ ra các thách thức khác mà NCT Việt Nam gặp phải đó là có tỷ lệ khỏe mạnh còn thấp. Điều đáng nói là tuổi thọ bình quân của người Việt Nam đã tăng cao nhưng số năm sống khỏe mạnh lại khá thấp, mỗi người dân có tới 12 năm ốm đau. Đặc biệt, trung bình mỗi người cao tuổi có trên 2,6 bệnh. Bệnh tật ở NCT nước ta hiện nay với xu hướng bệnh tật kép, xu hướng bệnh tật chuyển từ lây nhiễm sang không lây nhiễm và mãn tính, dẫn tới chi phí chăm sóc cao. NCT mắc các nhóm bệnh không lây nhiễm chủ yếu như: Bệnh tim mạch, ung thư, đái tháo đường, động kinh và trầm cảm ngày càng tăng. Bên cạnh đó, họ cũng phải đối mặt với nguy cơ tàn phế do cơ chế “hao mòn” của quá trình lão hóa và tác động của các căn bệnh mãn tính.

Tình trạng bệnh tật đã ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm lý, các hoạt động sinh hoạt hàng ngày và sự hòa nhập cộng đồng của NCT. Đa số NCT nước ta chưa có thói quen khám bệnh định kỳ vì vậy khi phát hiện bệnh thường ở giai đoạn muộn khiến việc chữa trị rất khó khăn. Hệ thống y tế – lão khoa chưa đầy đủ, trang thiết bị còn thiếu thốn, đội ngũ cán bộ y tế chưa đáp ứng nhu cầu để giải quyết các bệnh đặc trưng của NCT. Theo kết quả Điều tra Quốc gia về NCT Việt Nam, chỉ có 4,8% NCT có sức khỏe tốt và rất tốt, 65,4% là yếu và rất yếu. Trong đó, có 26,1% NCT không có bất cứ loại bảo hiểm y tế nào, trên 51% NCT không đủ tiền chi trả cho việc điều trị, dẫn đến không điều trị.

Về vấn đề chăm sóc NCT, hiện nước ta đã xây dựng hệ thống chăm sóc NCT với một số nhà dưỡng lão của nhà nước và khuyến khích tư nhân tham gia. Tuy nhiên, theo báo cáo gần đây của Ủy ban Quốc gia NCT, các nhà dưỡng lão này gặp hạn chế về kinh phí nên cơ sở vật chất và kinh phí cho những người tham gia chăm sóc NCT còn thấp. Ở khu vực tư nhân cũng gặp nhiều khó khăn khi thực hiện. Hệ thống nhà dưỡng lão tư nhân hiện nay vẫn mang tính tự phát, chưa đẩy mạnh được tính xã hội hóa của vấn đề này.

Bình Định: “Già hóa” đến sớm 8 năm

Trong ba thập kỷ qua, dân số Bình Định đã có những biến động mạnh mẽ về quy mô và cơ cấu tuổi. Tính từ cột mốc năm 1979, tỷ lệ NCT của Bình Định là 7,6% dân số, với 83.151 người. 20 năm sau, tỷ lệ này đã tăng lên 10,8%, với 160.875 NCT. Như vậy, Bình Định đã bước vào giai đoạn “già hóa” dân số từ năm 2009. Theo ông Nguyễn Văn Quang – Chi cục trưởng Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh, tỷ lệ NCT tăng nhanh chóng trong thời gian này là do 3 yếu tố quan trọng: Tỷ suất sinh giảm, tỷ suất chết giảm và tuổi thọ tăng lên. Riêng Bình Định còn có nhiều người trong độ tuổi lao động ra ngoài tỉnh.

Theo cơ sở dữ liệu quản lý tại Chi cục DS-KHHGĐ, tính đến 30/4/2012, số NCT trong tỉnh đã đạt 186.515 người, chiếm 12,5% dân số. Thống kê theo đơn vị cấp xã, 20 địa phương ở 6 huyện, thị xã (An Nhơn, Hoài Nhơn, Hoài Ân, Tây Sơn, Phù Cát và Phù Mỹ) có số NCT chiếm trên 15% dân số. “Tốc độ gia tăng tỷ lệ NCT tại Bình Định giai đoạn 2009 – 2012 bình quân tăng hơn 0,5%/năm. Với tốc độ gia tăng như vậy thì dân số Bình Định dự báo sẽ bước vào giai đoạn “già” vào năm 2025, sớm hơn cả nước khoảng 8 năm.

Hà Anh