Top 6 # Giải Pháp Khắc Phục Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Nguyên Nhân, Giải Pháp Khắc Phục

Ly hôn là hiện tượng xã hội bất bình thường nhưng cần thiết để đảm bảo quyền tự do trong hôn nhân và nó như là biện pháp để củng cố hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Tuy nhiên việc ly hôn có thể làm ảnh hưởng tới cuộc sống của những người xung quanh, đặc biệt là ảnh hưởng đến tâm sinh lý của những đứa trẻ. 

Trong những năm gần đây tình trạng ly hôn ngày một gia tăng. Bài viết này tác giả đề cập đến tình trạng ly hôn tại địa phương và  xác định nguyên nhân, đề xuất giải pháp khắc phục.

Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng khi cả hai người đang còn sống, do cả hai bên vợ chồng thuận tình và được Tòa án công nhận bằng quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc chỉ do một bên yêu cầu, được Tòa án đưa ra xét xử và phán quyết bằng một bản án cho ly hôn. Ly hôn là hiện tượng xã hội bất bình thường nhưng cần thiết để đảm bảo quyền tự do trong hôn nhân và nó như là biện pháp để củng cố hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.

Tuy nhiên trong những năm gần đây tình trạng ly hôn ngày một gia tăng, năm sau cao hơn năm trước, trong đó phần lớn là giới trẻ. Họ thường ly hôn trong vòng 5 năm đầu chung sống. Theo số liệu thống kê, trên địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh năm 2016 thụ lý 330 vụ án ly hôn; năm 2017 con số này là 398 vụ, tăng 68 vụ = 20,6% so với cùng kỳ năm 2016.

Phân tích về độ tuổi trong các vụ ly hôn thì thấy: Trong số án “Ly hôn”  năm 2017, có hơn 40% các cặp vợ chồng ở dưới độ tuổi 30 (trong đó số các cặp vợ chồng từ 22 tuổi trở xuống chiếm khoảng 3%); khoảng 36% ở độ tuổi 30 – 40, phần lớn trong số đó (chiếm tới khoảng 90%) là có con nhỏ – đây là đối tượng dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất khi bố và mẹ ly hôn; các cặp vợ chồng ly hôn trong độ tuổi từ 40-50 chiếm khoảng 15%; còn lại là các cặp vợ chồng có độ tuổi khá lớn (trên 50 tuổi) chiếm khoảng 9%, họ đều có con đã thành niên, thậm chí là được lên chức ông, bà.

Có thể nói, ly hôn là sự lựa chọn của hai người cả vợ và chồng hoặc đơn phương từ một phía chồng hoặc vợ nhưng hệ lụy kèm với nó là cả một vấn đề, Việc ly hôn có thể làm ảnh hưởng tới cuộc sống của những người xung quanh; đặc biệt là ảnh hưởng đến tâm sinh lý của những đứa trẻ; để lại gánh nặng cho xã hội nếu như con cái của họ bị bỏ rơi, không được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục chu đáo; chúng sẽ thiếu đi sự chăm sóc, tình cảm của người cha hoặc người mẹ, thậm chí cả hai. Từ đó sẽ ảnh hưởng tới quá trình phát triển nhân cách của những đứa trẻ, làm chúng dễ sa ngã vào những tệ nạn xã hội… Đây cũng là một trong những lý do vì sao mà trong những năm gần đây tình trạng tội phạm tuổi vị thành niên có xu hướng gia tăng.

Vậy, nguyên nhân từ đâu mà tình trạng hôn nhân trong giới trẻ ngày càng gia tăng như vậy?

Qua nghiên cứu trực tiếp các hồ sơ án ly hôn thì thấy: Nguyên nhân phần lớn và sâu xa dẫn tới tình trạng ly hôn ngày càng gia tăng, đặc biệt với các cặp vợ chồng trẻ là do họ thiếu kỹ năng sống. Họ bước vào cuộc sống hôn nhân khi tuổi đời còn quá trẻ, chưa có sự chuẩn bị về tâm lý, kinh tế, sức khỏe và những hiểu biết cần thiết cho cuộc sống gia đình, quá đề cao cái tôi của bản thân, ít quan tâm đến chồng hoặc vợ, khiến phần lớn các cặp vợ chồng trẻ nảy sinh mâu thuẫn ngay từ những tháng đầu, năm đầu của cuộc hôn nhân. Trong khi đó nhận thức về cuộc sống gia đình, ý nghĩa của hôn nhân và tình yêu còn hời hợt đã khiến họ không đủ bản lĩnh và kỹ năng giải quyết, vượt qua các mâu thuẫn, dẫn đến ly hôn. Chiếm một phần trong số các cặp ly hôn là do họ kết hôn ngoài ý muốn khi những hiểu biết về kiến thức giới tính có phần hạn chế.

Nguyên nhân thứ hai là do kinh tế khó khăn, nghề nghiệp không ổn định, thu nhập bấp bênh, sinh con sớm khiến vợ chồng thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn, không tập trung đồng thuận để xây dựng kinh tế gia đình, nuôi dạy con cái. Hầu hết trong các Quyết định công nhận thuận tình ly hôn đều thể hiện các cặp vợ chồng đến xin ly hôn không có tài sản chung.

Ngoài ra, còn những nguyên nhân khác như: do tư tưởng lạc hậu, người vợ không sinh được con trai nên người chồng ngoại tình hoặc ly hôn để lấy vợ mới với mục đích có con “nối dõi tông đường”; vấn đề về bạo lực gia đình, tệ nạn xã hội; vợ chồng bất hòa, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do nhận thức về xã hội, pháp luật chưa đầy đủ, thậm chí nhiều trường hợp người chồng nghiện ngập ma túy, cờ bạc, rượu chè … dẫn đến người vợ không chịu được phải ly hôn. Nhiều vụ án được Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí đưa ra xét xử là do người chồng đang trong thời gian thụ lý án vì có hành vi vi phạm pháp luật. Có những vụ ly hôn, người vợ là nguyên đơn nhưng phải viết đơn đề nghị Tòa bảo vệ mình khi tham dự phiên tòa vì thường xuyên bị người chồng đe dọa, đánh đập do thường xuyên dùng ma tuý “đá” (một loại ma túy tổng hợp); vấn đề bạo lực gia đình xảy ra cũng xuất phát phần lớn từ người chồng dùng ma túy tổng hợp bị ảo giác, về đánh dọa vợ con.

Để hạn chế thấp nhất tình trạng ly hôn xảy ra đối với giới trẻ trên cả nước nói chung, tỉnh Quảng Ninh và TP Uông Bí nói riêng, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau:

Hai là: Nâng cao chất lượng giáo dục trong gia đình cũng như Nhà trường và xã hội đối với giới trẻ, trong đó đặc biệt chú trọng việc giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách để họ nâng cao nhận thức, hiểu biết về Luật Hôn nhân và Gia đình; Tập huấn các kỹ năng theo từng giới (nam, nữ riêng), cùng với đó giúp họ chuẩn bị tốt về mọi mặt trước khi bước vào cuộc sống vợ chồng, nhất là các kỹ năng sống, cách ứng xử, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, khả năng kìm chế cái tôi của bản thân để tránh được việc để xảy ra ly hôn ngay từ những năm đầu chung sống.

Ba là: Đẩy mạnh vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ để làm tốt công tác hòa giải ngay từ cơ sở, giải quyết những mâu thuẫn ngay khi mới phát sinh, từ đó hạn chế việc gửi đơn ra Tòa để xin ly hôn.

Bốn là: Cần đưa chỉ tiêu nâng cao việc hòa giải thành trong việc giải quyết án ly hôn của ngành Tòa án, để góp phần kìm chế tình trạng ly hôn gia tăng.

Năm là: Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật Hôn nhân và gia đình hiện hành thông qua hệ thống truyền thanh tại tổ dân, khu phố để nâng cao nhận thức về pháp luật cho người dân hướng tới mục tiêu xây dựng gia đình Việt Nam bền vững…

                                                                 Nguyễn Mai Thúy

                                                            VKSND TP Uông Bí, tỉnh QN

Các Giải Pháp Khắc Phục Lạm Phát

Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giạm tức thời “cơn sốt lạm phát ” trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài . Các biện pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát .

Thứ nhất :các biện pháp tình thế thường được chính phủ các nước áp dụng , trước hết là giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thông . Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ . Tỷ lệ lạm phát tăng cao ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dừng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện các nghiệp vụ triết khấu và tái triết khấu đối với các tổ chức tín dụng , dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ , không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước áp dụng các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế như: ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ , bán ngoại tệ vàvay , phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước , tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là tăng lãi suất tiền gửi tiét kiệm dân cư . các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong một thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lươngj khá lớn tiền nhàn rỗi trong dân cư do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá vầ dịch vụ trên thị trường . ở việt nam các biện pháp này đã dược áp dụng thành công vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 .

Thứ hai :thi hành chính sách tài chính thắt chặt như tạm hoãn những khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế , cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể được .

Thứ ba : tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khichs tự do mậu dịch , giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào.

Thứ tư : đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài .

Thứ năm : cải cách tiền tệ , đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp trên chưa đem lại hiệu quả mong muốn .

II. Những biện pháp chiến lược

Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân . Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài cho đất nước

Thứ nhất : thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát , duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân . Sản xuất trong nước càng phát triển thì càng tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ . Chú trọng thu hút ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng hoá , phát triển ngành du lịch …

Thứ hai : kiện toàn bộ máy hành chính , cắt giảm biên chế quản lý hành chính . Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước .

Thứ ba : tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý , chống thất thu , đặc biệt là thất thu về thuế , nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước .

III. Một số biện pháp chủ yếu để kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay

Tình hình kinh tế tài chính của nước ta trong những năm vừa qua đạt được sự ổn định và có chiều hướng tốt, nạn lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi từ 67.5% năm 1991 xuống còn 17,5% năm 1992, 5,2% (1993), 14.2% (1994), trong khi đó vẫn đảm bảo mức tăng trưởng kinh tế 8,6% (!992), 8,1% (1993), 8,7% (1994). Tỷ giá VNĐ so với đôla Mỹ từ cuối năm 1991 là 14,194 VNĐ đã lên giá dần và giữ ở mức trên dưới 10.800 VNĐ/USD từ tháng 11.1992 cho đến nay. Đồng thời cán cân thanh toán được cải thiện rõ rệt. Mặt khác xuất nhập khẩu có xu hướng tăng lên. Để khắc phục và kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay cần phải thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ như sau :

– Trước hết phải khống chế tỷ lệ bội chi ngân sách ở dưới mức 5% GDP. Bởi và bội chi ngân sách là một nhân tố quan trọng gâỵ ra sự mất cân đối giữa cung và cầu.

– Phải nâng cao sản lượng hàng hoá trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất công, nông nghiệp, cụ thể là tạo ra nhiều lương thực, thực phẩm, một số hàng hoá là tư liệu sản xuất và các loại hàng hoá là nhiên liệu, năng lượng. Mặt khác cần tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế và cải tiến công nghệ, cải tiến kỹ thuật đảm bảo từng bước giảm chi phí sản xuất.

– Về lĩnh vực ngân hàng với trách nhiệm là một ngành đóng vai trò quan trọng nhất trong việc kiềm chế lạm phát, cần tiến hành các bước sau : + Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trên cơ sở tích cực huy động vốn và cho vay hiệu quả các dự án + Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ của ngân hàng nhà nước cho mục tiêu ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá đồng Việt Nam. + Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc. + Tăng cường hiệu lực của công tác thanh tra đối với ngân hàng thương mại. + Xử lý tôt mối quan hệ với ngân sách nhà nước, phát triển thị trường vốn, đồng thời xúc tiến nhanh việc thiết lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam và sự hoà nhập của thị trường này vào cộng đồng kinh tế quốc tế, nhất là từ khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của khối ASEAN để thuhútnhanh chóng hơn nữa nguồn vốn nước ngoài góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Ngoài ra cần tổ chức quản lý nợ nước ngoài có kế hoạch và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vào Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau như vay vốn của IMF, WB, ADB,..

Tóm lạ, trong tình hình hiện nay cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện có hiệu quả về chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô của nhà nước (giải quyết tốt vấn đề thâm hụt ngân sách, chấn chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu, điều hành tốt giá cả và lưu thông hàng hoá,..) để đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế vừa kiềm chế lạm phát ở mức tốt nhất.

Giải Pháp Hành Động Khắc Phục Tình Trạng Thừa

Giải pháp hành động khắc phục tình trạng thừa – thiếu nhân viên

CÁC GIẢI PHÁP HÀNH ĐỘNG ĐỂ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THIẾU NHÂN LỰC

Có nhiều giải pháp để khắc phục tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực với những ưu nhược điểm gắn liền với từng giải pháp. Vấn đề là công ty quyết định giải pháp nào tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của công ty. Các giải pháp có thể là:

-Sử dụng các giải pháp hỗ trợ khác để khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực.

– tuyển dụng ồ ạt hoặc chọn lọc.

-Điều chỉnh chính sách tiền lương mang tính kích thích cao.

-Cải thiện điều kiện lao động để nâng cao hiệu suất làm việc.

-Phát triển hệ thống đào tạo , đề bạt để kích thích nhân viên.

-Điều chỉnh các mục tiêu của tổ chức.

tuyển dụng thêm sẽ phức tạp vì vậy khi thiếu hụt nhân lực các nhà quản trị nghĩ ngay đến các giải pháp hỗ trợ khác. Các giải pháp hỗ trợ khác thường được sử dụng là:

1.Giải pháp giờ phụ trội ( hay còn gọi là tăng giờ, tăng ca)

Giải pháp này thường được áp dụng khi sản xuất hay dịch vụ vào mùa cao điểm hay khi công ty ký kết được các hợp đồng ngắn hạn.

Đặc điểm của giải pháp này là tiền lương trả cho giờ phụ trội thường cao hơn so với bình thường.

Hạn chế của giải pháp này:

-Khó có thể áp dụng trong một thời gian dài (vì sức khỏe và luật định không cho phép).

-Nếu thực hiện trong một gian dài sẽ không hiệu quả.

-Công nhân sẽ mệt mỏi và làm việc thiếu nhiệt tình khi quay về với chế độ làm việc bình thường.

-Lạm dụng quá mức có thể dẫn đến tranh chấp xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động.

2. Giải pháp hợp đồng gia công:

Hợp đồng gia công là ký kết hợp đồng với các công ty khác nhằm sản xuất sản phẩm cho mình. Giải pháp này sẽ có lợi cho đôi bên nếu được thực hiện trong một thời gian dài.

Hạn chế:

– Có thể làm cho công ty bị động.

– Làm tăng thêm sức mạnh cạnh tranh cho đối thủ

3. Giải pháp thuê tuyển nhân công tạm thời:

Giải pháp này thường được áp dụng khi sản xuất vào mùa vụ, trong các giai đoạn chuyển đổi mùa.

Hạn chế:

– Những nhân công tạm thời thường có chuyên môn kém.

– Có thể họ làm việc thiếu nhiệt tình.

4. Thuê lao động từ những công ty cho thuê:

Ưu điểm của giải pháp này:

-Các nhân công này thường có chuyên môn và tính kỷ luật cao hơn so với lao động tạm thời.

Hạn chế:

-Các lao động thuê thường không được hưởng những lợi ích mang tính phúc lợi của công ty mình phục vụ nên có tâm lý chán nản.

-Các công ty cho thuê đôi khi không thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm lợi ích cho nhân viên của mình (BHXH, BHYT)

CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THỪA NHÂN VIÊN :

Về cơ bản những giải pháp khắc phục tình trạng thừa nhân viên sẽ bao gồm:

-Điều chỉnh các mục tiêu của tổ chức

-Phân bố lại nhân sự (sử dụng nhân sự dư thừa vào các bộ phận khác bằng việc tái đào tạo).

-Giảm thời gian làm việc

-Cho nghỉ việc tạm thời

-Chính sách giảm biên chế

Chính sách giảm biên chế thường bao gồm các chính sách cụ thể sau:

&Middot;Khuyến khích về hưu sớm

&Middot;Trợ cấp cho thôi việc

&Middot;Cho các doanh nghiệp khác thuê lại nhân công

&Middot;Sa thải

Trong thực tế có quá nhiều yếu tố cả bên trong lẫn bên ngoài có thể ảnh hưởng đến nhu cầu nhân lực của tổ chức, nên việc hoạch định một cách chính xác nhu cầu nhân lực cho tổ chức là điều không dễ dàng. Điều quan trọng ở đây là các nhà quản trị nguồn nhân lực phải cảm nhận được sự thay đổi của môi trường kinh doanh ảnh hưởng như thế nào đến nguồn nhân lực của tổ chức. Cần tăng cường sự tham gia của những người quản lý ở các cấp vào tiến trình hoạch định nguồn nhân lực nhằm giúp họ ý thức được tầm quan trọng của việc nuôi dưỡng và phát triển nguồn NL cho tổ chức.

P5media.Vn

Xây dựng đội nhóm dưới góc nhìn của quản trị nhân sự

Mô hình làm việc theo nhóm có thể thúc đẩy tinh thần hợp tác, sự phối hợp, hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên, từ đó tạo ra những giải pháp mới cho mọi vấn đề khó khăn. Những kỹ năng và sự hiểu biết của cả nhóm có ích lợi lớn đối với từng cá nhân. Tuy nhiên, lợi ích lớn nhất của mô hình đội nhóm là tận dụng mọi nguồn lực chung của nhóm. Kỹ năng của mỗi cá nhân và sự tự giám sát của nhóm sẽ tạo điều kiện cho việc hoàn thành mục tiêu một cách tốt nhất. Thậm chí, với những vấn đề có thể được xử lý bởi một cá nhân, thì việc giao cho đội nhóm giải quyết vẫn có những ích lợi riêng: thứ nhất là việc tham gia của nhóm sẽ tăng khả năng quyết định và thực hiện, thứ hai là có những vấn đề mà nhóm sẽ có khả năng phân tích rõ hơn chỉ một cá nhân riêng lẻ.

Vì những lợi ích như vậy, nên việc xây dựng và phát triển nhóm là một nhiệm vụ rất quan trọng. Thông thường, quá trình phát triển của một nhóm trải qua các giai đoạn: hình thành, xung đột, bình thường hoá và cuối cùng là thực hiện.

Giai đoạn thứ nhất là khi mọi người tập hợp thành một nhóm. Trong giai đoạn này, các thành viên tỏ ra giữ ý, khiêm nhường và có phần hơi lạnh nhạt. Mâu thuẫn hiếm khi bùng phát do chủ yếu mọi hoạt động còn mang tính chất cá nhân. Mỗi cá nhân sẽ đều có ý kiến riêng và nhìn chung đều dè dặt. Dường như không ai chứng tỏ được khả năng làm lãnh đạo của nhóm.

Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn làm đau đầu các cấp lãnh đạo. Đây là thời kỳ bắt đầu hình thành bè cánh, có sự xung đột giữa các tính cách trái ngược nhau, không ai chấp nhận ý kiến của người khác mà chưa có cuộc tranh cãi gay gắt trước đó. Đặc biệt là có rất ít sự giao tiếp giữa các thành viên, vì không ai sẵn sàng nghe người khác nói cũng như không chịu mở lòng với người khác. Cuộc chiến tranh ngầm này mang tính cực đoan với những lời châm chọc, công kích có ý nghĩa sâu xa.

Giai đoạn cuối cùng là thực hiện nhiệm vụ của nhóm. Đây là giai đoạn nhóm làm việc nhiệt tình, tích cực và hiệu quả nhất. Nhóm ổn định thành một hệ thống có tổ chức, nền tảng của việc trao đổi ý kiến một cách tự do và thẳng thắn. Đây cũng là giai đoạn nhóm đạt được những mục tiêu chủ yếu và là công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho tổ chức.

Những kỹ năng cần thiết của nhóm

Một nhóm cần bao gồm hai kỹ năng là kỹ năng quản lý và kỹ năng tương tác cá nhân. Để phát huy hiệu quả làm việc theo nhóm, bạn cần tập hợp được cả hai kỹ năng này. Một nhóm phải thực hiện hầu hết các nhiệm vụ như tổ chức các cuộc họp, quyết định ngân sách, lập các kế hoạch chiến lược, các mục tiêu và giám sát việc thực hiện. Sẽ là điều không tưởng khi hi vọng một cá nhân đảm nhận mọi trách nhiệm quản lý nhóm mà không có sự hỗ trợ nào từ các thành viên khác. Là một tập hợp các cá nhân khác nhau, nhóm còn cần phải học các cách ứng xử và các kỹ năng quản lý con người.

Để nhóm có thể phát triển tốt và phát huy tác dụng của nó, bạn có thể tham khảo một số gợi ý sau đây.

Trước hết, nhóm cần có tâm điểm. Hai tâm điểm chính là nhóm và nhiệm vụ được giao. Nếu cần quyết định một vấn đề, nhóm sẽ quyết định. Nếu có vướng mắc, nhóm sẽ giải quyết. Nếu một thành viên không đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ, nhóm sẽ yêu cầu thay thế. Khi mâu thuẫn cá nhân tăng lên, nhóm cần xem xét vấn đề từ khía cạnh ảnh hưởng của mâu thuẫn đó tới những nhiệm vụ được giao cho mỗi cá nhân. Nhưng nếu nhóm thiếu sự tổ chức và mục đích cụ thể, thì khi đó trách nhiệm lại thuộc về cấp lãnh đạo và chủ đầu tư.

Thứ hai là cần có sự minh bạch rõ ràng về mục tiêu chính của dự án. Trong bất kỳ trường hợp nào, nhóm cũng phải giải thích rõ ràng và cụ thể nhằm đảm bảo mọi người đều hiểu rõ về điều đó.

Mặt khác, nhóm cũng cần có sự phản hồi trong mọi hoạt động của các cá nhân. Mọi sự phê bình phải mang tính công bằng và khách quan, tập trung vào nhiệm vụ mà họ thực hiện chứ không phải cá nhân họ. Những sai phạm cần được chỉ ra rõ ràng và kịp thời. Sẽ rất có ích nếu trưởng nhóm đưa ra sự phản hồi một cách thường xuyên, đặc biệt đối với lỗi lầm, dù là nhỏ nhất. Điều này sẽ làm giảm đi những tác động tiêu cực của sự sai lầm khi mọi việc đã trở nên quá muộn. Còn với các trường hợp làm việc tốt, trưởng nhóm nên khen ngợi và đánh giá cao. Điều đó sẽ khuyến khích mọi người làm việc tốt hơn.

Một điều cũng rất cần thiết khi làm việc trong nhóm là chủ động giao tiếp với mọi người. Giao tiếp là trách nhiệm của cả người nói lẫn người nghe. Người nói phải chủ động tìm cách diễn đạt ý kiến một cách ngắn gọn và dễ hiểu nhất, còn người nghe thì chủ động tìm cách hiểu ý của người nói và nếu có thắc mắc thì nên hỏi lại kỹ hơn. Tóm lại, cả hai cần đảm bảo ý kiến sẽ được diễn đạt một cách đầy đủ và chính xác.

Mô hình đội nhóm mang lại nhiều ích lợi, nhưng cũng là phong cách làm việc khó khăn đối với mọi người. Đội nhóm là một mối quan hệ, vì vậy bạn cần phải gìn giữ và củng cố nó. Một khi mọi người trong nhóm có trách nhiệm với mục tiêu chung, họ sẽ tạo thành một động lực lớn cho sự phát triển. Bên cạnh đó, thời gian và nguồn lực cần được phân bổ hợp lý trong nhóm, quy trình thực hiện của nhóm cần được thiết lập, giám sát và xem xét cụ thể.

Quantri.Vn

Giải Pháp Khắc Phục Tình Trạng Học Sinh Bỏ Học

(Congannghean.vn)-Tình trạng học sinh bỏ học không phải là vấn đề mới, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, mấy năm trở lại đây, tình trạng này không chỉ xảy ra ở miền núi mà ở các vùng thành thị, nông thôn cũng có xu hướng gia tăng.

Gần 1.900 học sinh bỏ học

Theo thống kê của Sở GD&ĐT, năm học 2015 – 2016, trên địa bàn toàn tỉnh có 1.852 học sinh bỏ học, tăng 221 em so với năm học trước. Trong đó nhiều nhất là bậc THCS với 1.096 em, đứng thứ hai là bậc THPT với 721 em và bậc tiểu học có 35 em. Đáng chú ý, nếu như những năm trước, học sinh bỏ học chủ yếu ở vùng biển, miền núi thì nay tình trạng này đang có xu hướng gia tăng ở vùng thành thị, nông thôn.

Trường THCS Xá Lượng, huyện Tương Dương tổ chức bán trú để giữ học sinh ở lại trường

TP Vinh hiện có nhiều trường có số lượng học sinh bỏ học đông như: Trường THPT VTC, Trường THPT Nguyễn Huệ 24 em. Huyện Quỳnh Lưu có Trường THPT Cù Chính Lan 16 em, Trường THPT Nguyễn Đức Mậu 16 em, Trường THPT Bắc Quỳnh Lưu 14 em. Ở huyện Diễn Châu, tổng số học sinh bỏ học ở 2 Trường THPT Ngô Trí Hòa và Nguyễn Du là 30 em.

Còn ở vùng miền núi chủ yếu tập trung ở các huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quỳ Châu… Tính đến thời điểm tháng 3/2016, huyện Tương Dương có 144 học sinh bỏ học trong năm học 2015 – 2016. Trong đó, nhiều nhất là Trường THPT Tương Dương 1 có 90 em, THPT Tương Dương 2 có 24 em, riêng các trường THCS có đến 30 em. Ở huyện Kỳ Sơn, chỉ riêng Trường THPT huyện đã có 50 học sinh bỏ học, hầu hết các em là người dân tộc Mông.

Nguyên nhân, giải pháp

Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Trọng Hoàn, Phó Chánh văn phòng Sở GD&ĐT Nghệ An cho biết: Thực tế hiện nay, một số trường chưa làm rõ được nguyên nhân vì sao học sinh bỏ học. Một số em có thể vì xác định con đường vào đại học rất khó cũng như cơ hội tìm kiếm việc làm sau này nên bỏ giữa chừng để đi học nghề, hoặc phụ giúp việc kinh doanh của gia đình.

Còn ở vùng miền núi, vào dịp Tết, nghỉ hè, các em thường theo bạn bè vào miền Nam làm thuê kiếm sống; một số em do học lực yếu, hoàn cảnh khó khăn phải nghỉ học. “Học sinh bỏ học do nhiều nguyên nhân, riêng ở Tương Dương, học sinh học yếu, ham chơi, không muốn học chiếm 26,4%, bỏ học đi làm chiếm 17,4%; do hoàn cảnh gia đình khó khăn chiếm 15,3%. Ngoài ra, còn xuất hiện nạn tảo hôn chiếm 11,8%”, bà Vy Thị Bích Thủy, Trưởng phòng GD&ĐT huyện Tương Dương cho biết.

Trong thời gian qua, học sinh ở các vùng ven biển thường nghỉ học giữa chừng để theo các ngư dân đi đánh bắt hải sản trên biển. Xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu nằm cách trung tâm huyện khoảng 10 km. Bà con nơi đây chủ yếu làm nghề đánh bắt hải sản trên biển. Được biết, năm học 2015 – 2016, trên địa bàn xã có đến 40 học sinh bỏ học, trong đó có 26 em là nữ bỏ đi giúp việc ở các tỉnh, thành khác, số còn lại là học sinh nam theo ngư dân đi đánh bắt hải sản…

Thực tế cho thấy, việc học sinh bỏ học có thể kéo theo nhiều hệ lụy cả trước mắt lẫn lâu dài, không chỉ đối với cá nhân, gia đình học sinh mà còn cả với nhà trường và xã hội. Khi bỏ học, nếu ở nhà sẽ rơi vào tâm trạng chán chường, dễ bị kích động, lôi kéo. Không ít trường hợp do không được học hành đến nơi đến chốn đã sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…

Năm học mới đã bắt đầu, để quản lý tốt số học sinh bỏ học tại địa phương và chống học sinh bỏ học, theo bà Vy Thị Bích Thủy thì cần chỉ đạo có hiệu quả việc đổi mới phương pháp dạy học, bám sát đối tượng học sinh, tăng cường các hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống cho học sinh, làm tốt công tác tổ chức bán trú cho học sinh tại các trường có học sinh bán trú.

Chỉ đạo các đơn vị trường học có giải pháp vận động phù hợp với từng nhóm để tìm ra nguyên nhân bỏ học; phối hợp với chính quyền các cấp, phụ huynh hỗ trợ đối với học sinh nghèo có nguy cơ bỏ học, tuyệt đối không để xảy ra trường hợp học sinh bỏ học vì hoàn cảnh khó khăn…

Ông Nguyễn Trọng Hoàn cho biết thêm: Vào năm học mới, ngành giáo dục và đào tạo Nghệ An có văn bản yêu cầu nhiều trường, cơ sở giáo dục thống kê và điều tra số lượng học sinh có nguy cơ bỏ học vì hoàn cảnh khó khăn, trực tiếp làm việc với chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội, động viên hỗ trợ một phần nào đó, tuyệt đối không để học sinh bỏ học.

Với những vùng miền biển, học sinh bỏ học đi làm ăn, đi biển, Sở giao cho các trường tổ chức tuyên truyền, vận động gia đình tiếp tục cho con em đi học ở một trình độ nhất định; với học sinh cá biệt, học yếu, các trường học vận động giáo viên dạy phụ đạo, tạo nhiều sân chơi, động viên các em…

Bên cạnh đó, phối hợp với Đồn biên phòng tiếp tục tuyên truyền thông qua các chuyên đề tại các buổi họp dân bản để giúp bà con hiểu được rằng, muốn thoát nghèo trước hết phải có kiến thức văn hóa, con cháu phải được học hành đầy đủ…