Top 9 # Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Bộ Môn Vật Lý Violet Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Bộ Môn Văn

Phòng Giáo dục & Đào tạo Di Linh Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamTrường THCS Nguyễn Du Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ………..o0o………..

CHUYÊNĐỀ : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG Môn : Văn – AnhA. Đặt vấn đề Môn Văn – Anh có một vị trí quan trọng đặc biệt trong chương trình của cấp học THCS . Ngoài việc cung cấp kiến thức như các môn học khác, môn Ngữ Văn còn góp phần to lớn trong việc bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cho các em học sinh: biết yêu thương, quý trọng gia đình, thầy cô, bạn bè, có lòng yêu nước, biết hướng tới những tư tưởng cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái ác, cái xấu, bước đầu các em có năng lực cảm thụ các tác phẩm có giá trị nhân văn cao cả; còn môn Anh văn là môn cần thiết cho xã hội ngày nay khi mà chúng ta hội nhập với thế giới. Tuy nhiên học Văn – Anh là cả một quá trình tích luỹ lâu dài, không thể học xổi, học dồn mà phải cập nhật từng ngày, từng vấn đề, từng tác phẩm….Đây cũng là vấn đề mà giáo viên dạy Văn- Anh , chúng tôi trăn trở. Qua kinh nghiệm trong quá trình dạy học, qua việc tìm hiểu thực tế dạy – học môn Văn- Anh ở trường ,chúng tôi mạnh dạn đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Văn- Anh như sau:

B. NỘI DUNG :I. Nguyên nhân.Nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng còn thấp thì có nhiều, song theo chúng tôi có một số nguyên nhân chủ yếu sau:1.Về phía học sinh. – Đa số học sinh còn lười học bài cũ và lười soạn bài nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học. Khi soạn bài ,các em còn lệ thuộc vào các tài liệu học tốt, các bài văn mẫu nên hạn chế năng lực chủ động, sáng tạo trong các hoạt động – Một số học sinh không biết sử dụng sách giáo khoa, thậm chí có em không bao giờ đọc sách, kể cả văn bản trong sách giáo khoa.-Chất lượng đầu vào lớp 7,8,9 thấp.– Khả năng tiếp thu , viết bài còn chậm.– Thụ động, thiếu linh hoạt và sáng tạo.– Tư duy hạn chế, học bài lâu thuộc.– Kĩ năng phân tích đề, hiểu đề còn hạn chế.– Nhận thức không đồng đều, nhiều em không có kĩ năng đặt câu, viết đoạn văn, vốn từ nghèo nàn, viết sai chính tả; kĩ năng nhận diện các phương thức biểu đạt, tóm tắt văn bản, bài Tập làm văn các dạng ở một bộ phận học sinh còn yếu.– Sống trong môi trường thiếu những hoạt động văn hóa như sinh hoạt câu lạc bộ, thư viện hiếm sách tham khảo. Trong khi đó, nhu cầu văn hóa ngày một nâng cao, trên địa bàn lại xuất hiện nhiều dịch vụ giải trí như : điện tử, game, bi-a ….. Đã làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn. Thiếu sự quan tâm, giám sát của gia đình, địa phương.-Bên cạnh đó, theo đặc thù bộ môn, theo xu thế của xã hội, môn Ngữ văn đang bị mất dần vị thế của nó. Học sinh ít mặn mà với bộ môn văn và chỉ coi môn văn là môn học bắt buộc để thi vào lớp 10.2.Đối với giáo viên : Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, quan tâm chăm lo đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau : – Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu, kém dẫn đến chất lượng chưa cao. – Việc sử dụng đồ dùng dạy học còn hạn chế, khai thác chưa triệt để, nên ảnh hưởng đến sự tiếp thu bài của học sinh.– Việc ứng dụng công nghệ thông tin : Ở một bộ phận không nhỏ giáo viên còn rất hạn chế: Ngại, lười, đi cóp, thậm chí sử dụng giáo án vi tính còn lúng túng, chưa thuần thục, thành thạo thì nói gì đến việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng.– Chuẩn bị một giờ dạy chưa có sự đầu tư, nghiên cứu, trăn trở về nội dung của bài, còn quan niệm lên lớp cho xong, hết giờ thì về, nên phương pháp dạy còn gò bó, khô cứng, ít sáng tạo. – Thời gian đầu tư cho chuyên môn còn ít do bị chi phối các hoạt động ở trường nhiều , như : hôi họp

“Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Và Học Môn Vật Lý Theo Mô Hình Cdio”

Hội thảo nhận được sự quan tâm của đông đảo các thầy cô trong tổ Vật Lý. Tại hội thảo các đại biểu đã được nghe 6 bài báo cáo tham luận được chọn ra từ các bài của các thầy cô trong tổ Vật lý, bao gồm:

– Tham luận 1:” Đổi mới phương pháp giảng dạy môn vật lý cho sinh viên hệ đại học hiện nay” – Ths. Nguyễn Quang Thành.

– Tham luận 2:” Cải tiến dạy học vật lý bằng phương pháp dạy học kết hợp” – Ths. Trịnh Thị Thu Hương

– Tham luận 3: “Xác định mục tiêu chính của việc dạy thí nghiệm vật lý, đưa ra giải pháp đạt được chuẩn đầu ra của môn học” – Ths. Trịnh Thị Thu Hương

– Tham luận 4:”Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn vật lý 1 theo mô hình CDIO” – Ths. Dương Vũ Trường

– Tham luận 5:”Các giải pháp nâng cao chất lượng họat động nhóm trong dạy học vật lý 1 theo tiếp cận CDIO” – Ths. Ngô Minh Đức

-Tham luận 6: “Giải pháp nâng cao chất lượng họat động làm bài tập trong dạy học vật lý theo mô hình CDIO” -Ts. Lưu Thị Nhạn

Các bài tham luận đều được đánh giá cao, một số giải pháp có thể áp dụng ngay vào việc tổ chức dạy học vật lý năm học tới khi toàn trường áp dụng mô hình CDIO, ví dụ như báo cáo tham luận của thầy Ngô Minh Đức về cách tổ chức và đánh giá họat động nhóm. Hay báo cáo tham luận của cô Trịnh Thị Thu Hương về việc xác định mục tiêu chính của việc dạy thí nghiệm vật lý từ đó có thể tổ chức đánh giá sinh viên một cách hiệu quả nhất.

Ngoài những đóng góp tích cực cho các bài tham luận báo cáo trong hội thảo, hội thảo còn là buổi trao đổi kinh nghiệm giảng dạy cho các thành viên trong tổ.

Với các kết quả thu được, hội thảo cũng đã tạo động lực cho các giảng viên trong tổ tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu tìm ra những giải pháp phù hợp, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn vật lý tại Trường Đại học Công nghiệp Hà nội, đưa họat động nghiên cứu khoa học trở thành họat động thường xuyên và ngày càng chất lượng.

Các Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Bộ Môn Toán

CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC SINH YẾU, KÉM MÔN TOÁNI. Bối cảnh chất lượng bộ môn toán đầu năm học 2008-2009 của nhà trường và những nguyên nhân. Qua khảo sát chất lượng đầu năm học ở bộ môn toán các khối lớp từ 6 đến 9 có kết quả cụ thể như sau:

Với con số đã nêu kết hợp với thực tế nắm bắt phần nào phản ánh chất lượng bộ môn toán vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà trường và phụ huynh. Sở dĩ chất lượng đầu vào có tỉ lệ thấp như vậy là do nhiều nguyên nhân. Có thể nêu ra đây một số nguyên nhân để cùng tham khảo. 1. Đặc điểm rõ nét nhất của ngôi trường THCS Chu Văn An là ngôi trường đặt ở vị trí không trung tâm, đường sá đi lại không thuận lợi, cơ sở vật chất còn thiếu thốn lại ở cạnh 2 ngôi trường lớp có điều kiện thuận lợi hơn về nhiều mặt. Bên cạnh đó dự án trường sắp chuyển đi nơi khác phần nào gây tâm lý hoang mang nên sức thu hút học sinh ngày càng giảm sút. Đặc biệt số học sinh giỏi ở trường Lê Văn Tám chuyển đi nơi khác ngày càng nhiều gây ảnh hưởng không ít đến chất lượng mũi ngọn cũng như tạo hạt nhân cho phong trào thi đua học tốt của nhà trường. 2. Trên địa bàn Phường An Sơn có một số khu dân cư do đặc điểm nghề nghiệp nên việc quan tâm đến việc học tập của con em cũng chưa cao, môi trường sinh hoạt cũng phần nào ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Trường thu hút con em thuộc địa bàn (khu Bến Sạn, làng giết mổ An Thổ, nay lại thêm các tụ điểm vui chơi Karaoke, bi da, café, các quán nhậu mọc lên rất nhiều trên địa bàn phường). 3. Chất lượng đầu vào lớp 6 còn thấp. Trình trạng ngồi nhầm lớp vẫn còn làm ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức của các em. 4. Một số học sinh có hoàn cảnh đặc biệt về hạnh phúc gia đình, về hoàn cảnh kinh tế. Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em mình. 5. Một bộ phận học sinh chưa xác định được động cơ, thái độ học tập, chưa thực sự có tinh thần vượt khó, vươn lên mà còn chây lười, thụ động trong học tập. 6. Do đặc điểm của môn toán là bộ môn suy luận loogic, nó đòi hỏi học sinh không những phải nắm vững kiếm thức về định nghĩa, định lý, hệ quả, tính chất, quy tắc,… một cách cơ bản có hệ thống mà còn phải biết suy luận, phân tích, tổng hợp, lập luận. Nói chung, là bộ môn hơi khó học nên tỉ lệ học sinh yếu kém tương đối cao so với các môn khác. 7. Một số em vì nhiều lí do khác nhau đã hỏng kiến thức cũ, nay lại phải tiếp thu kiến thức mới nên rất vất vả, đâm ra chán nãn, chây lười, quậy phá dẫn đến chất lượng yếu kém.8. Về phần giáo viên: Một bộ phận giáo viên vẫn chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục nên việc dạy học ở một số tiết chưa thực sự có chất lượng.II. Những giải pháp mà nhóm đã thực hiện nhằm từng bước nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn toán. Qua thực tế tình hình chất lượng, nhóm đã suy nghĩ, đánh giá và bàn bạc biện pháp để từng bước nâng cao chất lượng yếu kém bộ môn toán, cụ thể như sau: 1. Ngay từ đầu năm học các giáo viên bộ môn điều tra, nắm chắc đối tượng học sinh yếu kém môn toán của lớp mình đang giảng dạy là bao nhiêu? Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để phân loại đặc điểm từng đối tượng: Yếu do hoàn cảnh gia đình? Yếu do hỏng kiến thức cũ? Yếu do lười học? Yếu do trí tuệ hạn chế? Yếu vì ảnh hưởng môi trường bạn bè? Để có thái độ và biện pháp thích hợp. 2. Trên cơ sở điểu tra phân loại ban đầu mà giáo viên có cách nhìn nhận và thái độ ứng xử cho phù hợp: Nhẹ nhàng, bảo ban, động viên, khích lệ đối với các em có hoàn cảnh đặc biệt hoặc mất căn bản, đồng thời nghiêm nghị, cứng rắn đối với các em chây lười, quậy phá với mục đích chung là để các em phấn khởi, tin tưởng và nổ lực trong học tập. 3. Trong giảng dạy nói chung và trong từng bài học cụ thể, phải có sự chú ý giúp đỡ đối tượng yếu, kém thông qua câu hỏi gợi mở, bài tập (công việc này phải thực hiện ngay trong thiết kế bài giảng, và ngay cả kiểm tra bài cũ cũng có những câu hỏi dành cho học sinh yếu kém để động viên, diều dắt các em. 4. Thường xuyên động viên, hướng dẫn các em cần phải nắm vững lý thuyết, vì kiến thức toán học là môn suy luận loogic nếu không nắm vững hệ thống lý thuyết thì không thể hiểu được khi nghe giảng chứ chưa nói gì việc giải bài toán. Để làm được việc này thì giáo viên cần giúp đỡ học sinh cách học dễ ghi nhớ, dễ thuộc, lâu quên. Có thể là như: Công thức thì luôn ghi nhiều nơi ở nhà để lúc nào cũng đập vào mắt buộc phải nhớ hoặc ghi vào sổ tay bỏ túi thỉnh thoảng mở ra xem dù bất cứ ở đâu. Học định lý thì phải vẽ hình, từ hình vẽ tưởng tượng đó để suy luận xây dựng thành lời, thỉnh thoảng giáo viên còn cung cấp thơ vui để các em dễ nhớ, dễ vận dụng. 5. Giáo viên cần cung cấp cho học sinh quy trình các bước giải một bài toán. B1: Tìm hiểu về bài toán: Đọc thật kỹ đề toán. Cú ý các chi tiết nổi bậc, khắc sâu từng ý cơ bản là lưu ý mối quan hệ của chúng. B2: Tìm lời giải: Xét xem bài toán thuộc dạng nào? Phương pháp chứng minh ra sao? B3: Thực hiện lời giảng: Trình bày bài viết lập luận của mình B4: Kiểm tra lại bài giải và thử tìm xem phương pháp khác để giải bài toán trên hoặc phát triển một bài toán mới từ bài toán đã cho. Đặc biệt khi giảng dạy hình học ta cần hướng dẫn các em phương pháp chứng minh bằng con đường phân tích đi lên một cách có hệ thống. Trước tiên bằng câu hỏi tổng quát dành cho học sinh giỏi, sau đó triển khai phương pháp bằng một loạt câu hỏi dẫn dắt để học sinh yếu kém tham gia xây dựng theo cơ sở phân tích. Tiếp theo yêu cầu đối tượng khá giỏi trình bày bài toán giải bằng lời và cuối cùng cho đối tượng cho đối tượng yếu kém trình bày lại bài viết để lớp nhận xét, bổ sung. Thực hiện theo quy trình này tuy mất thời gian nhưng thà rằng làm ít mà chắc, phục vụ nhiều cho đối tượng yếu, kém còn hơn là dạy nhiều nhưng chỉ phục vụ cho học sinh khá, giỏi. Do vậy, bài tập cần nghiên cứu phân dạng để rồi mỗi dạng chỉ giải một bài mẫu, các bài còn lại học sinh về nhà làm tương tự theo cách đã giải. 6. Giáo viên cần chú ý và coi trọng bước hướng dẫn về nhà. Để giúp cho học sinh yếu, kém có thể tiếp thu bài mới thì giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài mới và đề ra các yêu cầu cần thiết để học sinh chuẩn bị. Ví dụ: Khi chuẩn bị bài dạy “Góc có đỉnh bên trong và ngoài đường tròn” thì yêu cầu học sinh về học lại tính chất góc ngoài của một tam giác ở hình học 7, tính chất góc nội tiếp ở hình học 9. Có như thế thì việc hiểu được chứng minh định lý của bài trên đối với học sinh yếu, kém là dễ dàng. Nếu không có hướng dẫn trước thì các em không biết chuẩn bị điều gì và dẫn đến việc tiếp thu bài mới rất khó khăn. 7. Giáo viên bộ môn kết hợp với giáo viên chủ nhiệm để phân đôi bạn học tập hoặc nhóm bạn học tập (cơ cấu có đối tượng khá, giỏi và yếu, kém với nhau) trong đó chú ý giao nhiệm vụ cho các học sinh khá, giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém và cần thiết đề ra các biện pháp cụ thể để thúc đẩy việc hoạt động của các nhóm có hiệu quả. Ví dụ: khi được kiểm tra đối tượng yếu, kém của nhóm mà không thuộc bài hoặc chưa làm bài thì cả nhóm cùng liên đới chịu trách nhiệm). Có như thế các em mới nhắc nhở, giúp đỡ nhau tích cực. 8. Giáo viên cần tận dụng các tiết phụ đạo hoặc bám sát để củng cố, hệ thống, ôn tập lại các kiến thức đã học. Cung cấp cho các em phương pháp chứng minh. Việc này rất cần thiết đối với học sinh yếu, kém. Và đây cũng là dịp để giáo viên tháo gỡ những băn khoăn, thắc mắc của học sinh, muốn vậy đòi hỏi giáo viên phải phân giải, thân thiện để các em mạnh dạn tỏ bày những trăn trở trong việc học toán (giáo viên nên động viên khuyến khích các đối tượng yếu, kém hỏi.Việc tháo gỡ được nhiều thắc mắc này cho các em xem như một thành công lớn của một tiết dạy bằng các hình thức phong phú để tạo không khí vui vẻ, thỏa mái, thích thú trong học tập (Chú ý các tiết sinh hoạt này nhằm đế các đối tượng yếu, kém là chính để đảm bảo mục đích từng bước nâng cao chất lượng học toán của học sinh yếu kém). 9. Giáo viên thỉnh thoảng liên hệ với phụ huynh qua điện thoại (Ghi chép ở giáo viên chủ nhiệm) những trường hợp cần thiết nhằm mục đích phối hợp để giáo dục tốt. (nếu đối tượng có nhiều tiến bộ đáng khen thì báo phụ huynh biết để mừng và tiếp tục động viên – nếu đối tượng chậm tiến bộ, ì ạch, chây lười thì cũng báo để phụ huynh biết và cùng phối kết hợp nhắc nhở, động viên, giáo dục thích đáng hơn).III. Kết luận: Với những công việc là cụ thể bằng những biện pháp tích hợp nêu trên, chúng tôi nhận thấy chất lượng học tập của học sinh yếu kém môn toán từng bước có chuyển biến, tiến bộ. Một số em đã từng lo sợ môn học này, nay lại có khuynh hướng thích học. Từng bước gây được không khí ham học, tỷ lệ yếu, kém giảm dần. Chất lượng thống kê cuối năm 2008-2009 cho thấy điều đó.

IV. Những bài học kinh nghiệm: Qua kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy, bằng các việc làm cụ thể, bằng biện pháp thích hợp, chúng tôi rút ra được một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn toán như sau: 1. Phải yêu nghề, mến trẻ, luôn tận tâm với công việc, hết lòng hết sức với học sinh thân yêu. 2. Luôn khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành tư duy tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề ở học sinh. 3. Kết hợp chặt chẻ giữa ôn bài cũ, giảng bài mới, rèn luyện kỹ năng tư duy, phương pháp học tập, từng bước nâng cao năng lực lập luận, phân tích, tổng hợp cho học sinh. 4. Tăng cường học tập cá thể với học tập nhóm, phải có mối quan hệ hợp tác giữa cá nhân trên con đường tìm tòi, phát hiện kiến thức mới. 5. Phát huy vai trò chủ động của học sinh, phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh, nhận xét, góp ý cách phát biểu, cách làm bài của bạn, trách vấp phải sai lầm, tìm nguyên nhân sai lầm và nêu cách sửa chữa. 6. Giáo viên cần phải chuẩn bị bài kỹ, phân loại các bài tập, phân loại phương pháp giải, phân loại theo mức độ phát triển tư duy. 7. Giáo viên dạy toán cần quán triệt tinh thần “Tư duy quan trọng hơn kiến thức; nắm vững phương pháp hơn thuộc lý thuyết, dạy cách suy nghĩ, cách tư duy, cách phân tích, cách tổng hợp và thường xuyên cung cấp cho các em phương pháp học toán”

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Môn Tiếng Anh.

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TIẾNG ANH.

Thứ năm – 24/01/2019 20:20

 

 

 

I. THỰC TRẠNG CỦA BỘ MÔN TIẾNG ANH. 1. Các mặt tích cực.  -Từ khi triển khai dạy học bộ môn này cho đến nay trường thu được nhiều kết quả và tiến bộ rõ rệt: – Về phía giáo viên: Chất lượng dạy và học Tiếng Anh đã có sự tiến bộ. Chất lượng và số lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn này cơ bản đáp ứng được yêu cầu nội dung chương trình giảng dạy. Đội ngũ giáo viên trẻ, yêu nghề, nhiệt tình trong công tác, luôn cố gắng đổi mới phương pháp giảng dạy để phù hợp hơn với các đối tượng học sinh. – Về cơ sở vật chất: đã có phòng học Tiếng Anh. 2. Các mặt hạn chế.  Bên cạnh những kết quả đạt được, tuy nhiên trong thực tế hiện nay chất lượng, hiệu quả việc dạy học Tiếng Anh vẫn còn là một vấn đề cần phải tiếp tục đầu tư tìm giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học đối với bộ môn này. Tôi xin đưa ra một vài nguyên nhân để tham khảo, trao đổi: - Trước hết về phía giáo viên: Giáo viên tuy có nhiều cố gắng trong việc vận dụng phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh, nhưng giáo viên chỉ có thể áp dụng được đối với một số bài, một số tiết và một số bộ phận học sinh. Nguyên nhân một phần là do sĩ số học sinh đông trong một lớp, một phần do một số giáo viên tuổi nghề còn ít nên chưa có kinh nghiệm giảng dạy nên chất lượng, hiệu quả dạy học của bộ môn này chưa thật sự như mong muốn. - Về phía học sinh: Bên cạnh những học sinh yêu thích học ngoại ngữ vẫn còn không ít học sinh cảm thấy không thích học hoặc cảm thấy khó khăn trong việc học bộ môn này. Đối với học sinh lớp 3 bắt đầu học Tiếng Anh theo chương trình thí điểm 10 năm thì hơi khó vì các em giờ mới làm quen. Đa phần học sinh ở nông thôn ít có điều kiện tiếp cận với sách tham khảo, các phần mềm học tiếng Anh hay Internet để học Tiếng Anh tốt hơn.   –  Chất lượng đại trà còn thấp so với các trường trong huyện, chưa có nhiều HS đạt giải cao trong các kì thi Học sinh giỏi Tiếng Anh hay cuộc thi qua mạng   - Ngoài ra: Chương trình, sách giáo khoa còn nặng, có nhiều bài quá sức học sinh, nhất là đối với các khối 4,5 trở lên. Vì vậy, để truyền tải hết nội dung sách giáo khoa theo phân phối chương trình, giáo viên không thể đi sâu giảng kỹ. Thêm nữa, do môi trường ở nông thôn nên việc vận dụng ngoại ngữ còn rất hạn chế, vì vậy học sinh không có điều kiện để rèn luyện các kỹ năng. Vì thế tôi đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh như sau: II. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TIẾNG ANH:    Trên các cơ sở đã trình bày, tôi xin đưa ra một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng dạy – học Tiếng Anh như sau: -Về phía giáo viên: Cần phải yêu cầu giáo viên năng động, tích cực đổi mới phương pháp hơn để tìm ra các cách dạy hay, sáng tạo để làm cho các tiết học sinh động, HS tiếp thu một cách tích cực vì đặc trưng của bộ môn này ở TH là HS học thông qua hoạt động chơi, thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ dạy học của mình. Giáo viên cần tích cực dự giờ thăm lớp, học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp của môn TA và các môn học khác. GV phải sử dụng công nghệ thông tin thành thạo để soạn powerpoint or phần mềm sách tiếng anh dạy vì dạy pp này hs sẽ thích học hơn. Mỗi bài học gv phải cho hs luyện nói nhiều để hs tự tin hơn trong giao tiếp và yêu cầu hs viết thuộc từ mới mẫu câu và chuẩn bị bài mới trước khi lên lớp. Gv tham khảo sách báo và các phần mềm học tiếng anh để dạy và hướng dẫn hs học. Đặc biệt hơn là gv cần tăng cường việc tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nắm chắc kiến thức để đáp ứng yêu cầu giảng dạy theo Đề án dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020 cũng như chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiếng Anh Tiểu học. Cụ thể: đối với giáo viên dạy Tiểu học phải có trình độ năng lực Tiếng Anh tương đương B1 và (B2) của Khung Tham chiếu năng lực ngoại ngữ châu Âu. – Đối với hs. – Thứ nhất các em phải học thuộc từ mới mẫu câu và làm bài tập đầy đủ. – Khuyến khích hs học qua các phần mềm tiếng anh qua mạng như học tiếng anh 123. Monkey Junier… – Yêu cầu hs lập nhiều nick để hs luyện thi ioe ở nhà hoặc ở trường mỗi tuần tuyên dương hs nhiều nick điểm cao dưới cờ. – Khuyến khích các em tham gia CLB Tiếng Anh. - Đối với các nhà trường: Cần quan tâm hơn nữa đến chất lượng môn TA cũng như đội ngũ GV.  

Nguồn tin: Giáo viên: Nguyễn Thị Thủy