Top 7 # Giải Pháp Phòng Chống Hiv Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

10 Nhóm Giải Pháp Phòng Chống Hiv

1. Nhóm giải pháp về chính trị và xã hội:

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS:

– Các cấp ủy Đảng tiếp tục tổ chức quán triệt và nghiêm túc thực hiện các chủ trương của Đảng, trong đó chú trọng thực hiện các nội dung của Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 31 tháng 11 năm 2005 của Ban Bí thư về tăng cường    lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới và Thông báo   kết luận số 27-TB/TW ngày 09 tháng 5 năm 2011 của Ban Chấp hành Trung ương về sơ kết Chỉ thị 54-CT/TW ngày 31 tháng 11 năm 2005 của Ban Bí thư (khóa IX) về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới;

– Nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị về  tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới;

– Các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp nghiêm túc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS; đổi mới phương pháp chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS phù hợp với mô hình tổ chức, đặc thù công việc và tình hình kinh tế – xã hội; đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS thuộc thẩm quyền quản lý.

Tăng cường hơn nữa của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS:

– Tăng cường việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS thông qua hoạt động giám sát trực tiếp và báo cáo định kỳ của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp;

– Đẩy mạnh sự tham gia của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng việc phát huy vai trò cá nhân của các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân.

2. Nhóm giải pháp về phối hợp liên ngành và huy động cộng đồng:

– Chú trọng việc lồng ghép, phối hợp với các chương trình phòng, chống tội phạm, phòng, chống tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo, giới thiệu việc làm; tăng cường việc ký kết và nâng cao hiệu quả thực hiện kế hoạch liên tịch giữa cơ quan nhà nước các cấp với các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn về phòng, chống HIV/AIDS;

– Tiếp tục triển khai các phong trào “Toàn dân tham gia phòng, chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân cư”; thi đua người tốt, việc tốt, xây dựng lối sống lành mạnh tại cộng đồng dân cư; xây dựng và nhân rộng các mô hình xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị điển hình trong công tác phòng, chống HIV/AIDS;

– Vận động các tổ chức tôn giáo, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp, các hiệp hội nghề nghiệp và mạng lưới người nhiễm HIV tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng việc vận động tham gia các hoạt động: xây dựng chính sách, kế hoạch, giám sát, đánh giá việc tổ chức thực hiện; đào tạo nghề, tìm việc làm, tạo việc làm và phát triển các mô hình lao động, sản xuất kinh doanh mang tính bền vững cho cho người nhiễm HIV, người dễ bị lây nhiễm HIV và người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS;

– Bảo đảm cung cấp có hiệu quả các dịch vụ an sinh xã hội cho người nhiễm HIV, người dễ bị lây nhiễm HIV và người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, đồng thời tăng cường hoạt động vận động người nhiễm HIV,    người dễ bị lây nhiễm HIV tham gia đóng bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội.

3. Nhóm các giải pháp về pháp luật, chế độ chính sách:

– Chống kỳ thị, phân biệt đối xử và bảo đảm quyền bình đẳng giới đối với người nhiễm HIV khi tiếp cận các dịch vụ xã hội;

– Rà soát, sửa đổi hoặc xây dựng mới các văn bản nhằm tăng cường sự phối hợp liên ngành, đặc biệt là việc phối hợp hoạt động phòng, chống  HIV/AIDS với hoạt động phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm;

– Xây dựng chế độ, chính sách về nguồn nhân lực, đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, trong đó tập trung xây dựng cơ chế xã hội hóa một số hoạt động phòng, chống HIV/AIDS mà người dân có khả năng đóng góp;

– Rà soát, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách hỗ trợ cho người nhiễm HIV thuộc đối tượng chính sách xã hội, chú trọng các chính sách hỗ trợ, chăm sóc trẻ em nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS;

– Xây dựng chế độ, chính sách khuyến khích, huy động sự tham gia vào công tác phòng, chống HIV/AIDS của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân   trong nước, ngoài nước, trong đó chú trọng vào các nội dung: Tiếp nhận, sử dụng lao động là người nhiễm HIV và người dễ bị lây nhiễm HIV, thành lập các cơ sở tư nhân và từ thiện về chăm sóc người bệnh AIDS, phát triển các  trung tâm, các cơ sở hỗ trợ xã hội, pháp lý cho người nhiễm HIV.

Thường xuyên tổ chức việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người nhiễm HIV.

Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS.

4. Nhóm giải pháp về dự phòng lây nhiễm HIV:

Đổi mới, mở rộng, nâng cao chất lượng công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS:

– Đa dạng hóa về nội dung, phương thức thực hiện thông tin, giáo dục, truyền thông bảo đảm tính thân thiện, có chất lượng, phù hợp với đặc điểm  của từng nhóm đối tượng, văn hóa, ngôn ngữ ở các vùng miền khác nhau, trong đó chú trọng truyền thông cho người dễ bị lây nhiễm HIV, người trong   độ tuổi sinh đẻ, học sinh, sinh viên, đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa; lồng ghép các nội dung tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống HIV/AIDS với tuyên truyền về bình đẳng giới, nâng cao nhận thức về giới, giáo dục sức khỏe tình dục, sức khỏe sinh sản và các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể    dục, thể thao và du lịch;

– Kết hợp giữa truyền thông đại chúng với truyền thông trực tiếp, trong đó chú trọng phát huy vai trò, trách nhiệm của hệ thống thông tin, truyền thông và tổ chức chính trị – xã hội các cấp, hệ thống quân y; đồng thời vận động các nhà lãnh đạo, các nhân vật nổi tiếng, tổ trưởng dân phố, trưởng cụm dân cư, trưởng thôn, già làng, trưởng bản, trưởng làng, trưởng ấp, trưởng phum, trưởng sóc, trưởng ban công tác mặt trận, trưởng các dòng họ, trưởng  tộc, các chức sắc tôn giáo, người cao tuổi, người có uy tín trong cộng đồng, người nhiễm HIV tham gia công tác tuyên truyền về phòng, chống HIV/AIDS.

Mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng các dịch vụ can thiệp giảm tác hại dự phòng lây nhiễm HIV cho nhóm người dễ bị lây nhiễm HIV:

– Tiếp tục mở rộng phạm vi triển khai chương trình cung cấp, sử dụng bơm kim tiêm sạch, chương trình khuyến khích sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục, chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, các mô hình can thiệp dựa vào cộng đồng;

– Nghiên cứu, triển khai thí điểm các hình thức mới về cung cấp bơm   kim tiêm sạch, bao cao su và các mô hình kết hợp các biện pháp can thiệp trong hoạt động phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm; triển khai thí điểm các mô hình cung cấp gói can thiệp toàn diện cho các nhóm người dễ bị lây nhiễm HIV và mô hình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, các thuốc mới và các bài thuốc y học cổ truyền; nghiên cứu áp dụng các mô hình dự phòng lây nhiễm HIV cho các nhóm đối tượng sử dụng ma túy tổng hợp và các loại ma túy mới;

– Thực hiện việc lồng ghép các hoạt động can thiệp với các mô hình cai nghiện dựa vào cộng đồng, các mô hình quản lý sau cai;

– Tiếp tục triển khai và từng bước mở rộng phạm vi dịch vụ khám và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, chú trọng việc lồng ghép tư vấn, khám và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục với khám sức khỏe định kỳ;

– Nghiên cứu, xây dựng các hướng dẫn về điều trị dự phòng phơi nhiễm HIV, trong đó chú trọng việc xây dựng hướng dẫn về biện pháp điều trị dự phòng phổ cập ngoài cơ sở y tế.

Nâng cao chất lượng và mở rộng dịch vụ tư vấn, xét nghiệm HIV và các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV khác:

– Đa dạng hóa các mô hình dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV, trong đó chú trọng việc triển khai thí điểm các mô hình xét nghiệm sàng lọc HIV tại  cộng đồng; nghiên cứu đề xuất các biện pháp tăng cường khả năng tiếp cận với dịch vụ tư vấn, xét nghiệm HIV của người dân, chuyển gửi người xét nghiệm HIV dương tính tiếp cận với chương trình chăm sóc, điều trị;   

– Tăng cường đầu tư, giám sát việc dự phòng lây nhiễm HIV qua các   dịch vụ xã hội và y tế, trong đó chú trọng việc cung cấp trang thiết bị bảo đảm công tác vô trùng, tiệt trùng cho các cơ sở y tế; đào tạo tập huấn cho nhân viên y tế về dự phòng phổ cập trong các dịch vụ y tế; cung cấp thông tin về dự phòng phổ cập trong các dịch vụ xã hội.

5. Nhóm giải pháp về điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV:

Mở rộng phạm vi cung cấp, bảo đảm tính liên tục và dễ tiếp cận của dịch vụ điều trị bằng thuốc kháng vi rút HIV, điều trị nhiễm trùng cơ hội, điều trị lao cho người nhiễm HIV, điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con thông qua việc đưa công tác điều trị về tuyến y tế cơ sở, lồng ghép với các chương trình y tế khác; tổ chức điều trị tại các Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội, trại giam, trại tạm giam, trường giáo dưỡng; củng cố, phát triển hệ thống chăm sóc tại cộng đồng của người nhiễm HIV, các tổ chức tôn giáo, tổ chức xã hội và các tổ chức khác.

Nâng cao chất lượng các dịch vụ điều trị:

– Bảo đảm tính sẵn có, tính dễ tiếp cận với thuốc kháng vi rút HIV; đồng thời khuyến khích việc sử dụng các bài thuốc y học cổ truyền nhằm nâng cao  thể trạng và tăng cường hệ miễn dịch cho người nhiễm HIV;

– Nâng cao chất lượng và mở rộng hệ thống xét nghiệm phục vụ cho công tác chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS;

– Ứng dụng các mô hình điều trị mới cho người nhiễm HIV và các biện pháp nhằm giảm chi phí điều trị và tăng hiệu quả của điều trị bằng thuốc kháng vi rút HIV;

– Lồng ghép điều trị HIV/AIDS với các chương trình khác; thực hiện việc kết nối giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ điều trị, chăm sóc ở cộng đồng  với hệ thống cơ sở y tế trong và ngoài công lập để tạo thành chuỗi dịch vụ liên tục, có chất lượng bảo đảm thực hiện các gói dịch vụ dự phòng, điều trị,  chăm sóc toàn diện; thực hiện việc kết hợp điều trị thực thể với hỗ trợ tâm lý  cho người nhiễm HIV.

Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ vật chất, tinh thần cho người nhiễm HIV và gia đình họ để người nhiễm HIV ổn định cuộc sống, hoà nhập và được chăm sóc tại gia đình và cộng đồng.

6. Nhóm giải pháp về giám sát dịch HIV/AIDS, theo dõi và đánh giá:

Củng cố và kiện toàn hệ thống giám sát, theo dõi và đánh giá chương trình phòng, chống HIV/AIDS bảo đảm có hệ thống theo dõi, đánh giá thống nhất và có tính đa ngành;

Củng cố và hoàn thiện hệ thống quản lý thông tin chương trình phòng, chống HIV/AIDS quốc gia bảo đảm đầy đủ, kịp thời và dễ tiếp cận;

Nâng cao chất lượng số liệu giám sát dịch HIV/AIDS, số liệu đánh giá chương trình phòng, chống HIV/AIDS;

Thường xuyên phân tích, đánh giá diễn biến dịch HIV/AIDS, đánh giá hiệu quả các hoạt động của chương trình và xác định các khu vực ưu tiên trong phòng, chống HIV/AIDS;

Tăng cường hướng dẫn, điều phối, phổ biến, chia sẻ dữ liệu, sử dụng dữ liệu trong các hoạt động của chương trình phòng, chống HIV/AIDS.

7. Nhóm giải pháp về nguồn tài chính:

Huy động nguồn lực cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS từ các nguồn của trung ương, địa phương, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong, ngoài nước và nhân dân để bảo đảm nguồn lực cho việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược, trong đó xác định nguồn đầu tư từ ngân sách là chính đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện các biện pháp nhằm tăng dần tỷ  trọng của bảo hiểm y tế tham gia chi trả cho các dịch vụ về HIV/AIDS và khuyến khích các địa phương, các tổ chức, các doanh nghiệp, cá nhân trong  và ngoài nước đầu tư nguồn lực cho công tác phòng, chống HIV/AIDS;

Tăng cường quản lý, giám sát và sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS;

Phát huy tính chủ động quốc gia trong việc điều phối, quản lý, sử dụng các dự án viện trợ, bảo đảm các dự án phải theo đúng nội dung Chiến lược.

8. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực:

Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống HIV/AIDS bảo đảm tính bền vững;

Xây dựng khung chương trình, chuẩn hóa tài liệu đào tạo về phòng, chống HIV/AIDS trong hệ thống trường y. Nâng cao năng lực giảng dạy, đào tạo về phòng, chống HIV/AIDS cho đội ngũ giáo viên cho các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân;

Nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng việc đào tạo, tập huấn cho cán bộ hệ thống y tế tuyến huyện, xã và y tế thôn bản;

Nâng cao năng lực cho các Bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, tổ   chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo, mạng lưới người nhiễm HIV, nhóm tự  lực, câu lạc bộ trong cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS, tăng cường  đào tạo cho người nhiễm HIV về kỹ năng chăm sóc, tư vấn để tham gia hỗ trợ công tác điều trị cho bệnh nhân.

9. Nhóm giải pháp về cung ứng thuốc, thiết bị:

Xây dựng và tổ chức chuỗi cung ứng thuốc, thiết bị thống nhất, dựa trên hệ thống tiêu chuẩn chất lượng;

Xây dựng kế hoạch nhu cầu thuốc, thiết bị cho cả giai đoạn;

Tăng cường năng lực của các nhà sản xuất trong nước và có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho việc sản xuất thuốc, thiết bị nhằm bảo đảm tính chủ động trong việc đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu;

Củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho các đơn vị thuộc hệ thống phòng, chống HIV/AIDS.

10. Nhóm giải pháp về hợp tác quốc tế:

Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và cam kết quốc tế trong phòng, chống HIV/AIDS;

Củng cố, tăng cường hợp tác quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ với các tổ chức Liên hợp quốc, song phương, đa phương để tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật và kỹ năng quản lý cho  công tác phòng, chống HIV/AIDS;

Phối hợp chặt chẽ với các nước có chung biên giới đường bộ trong việc chia sẻ thông tin và triển khai các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS qua biên giới.

HT

Nhiều Giải Pháp Phòng, Chống Hiv/Aids

Trẻ em nhiễm HIV có hoàn cảnh khó khăn được chăm sóc, nuôi dưỡng thường xuyên tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 2 Hà Nội. Ảnh: Hà Hiền

Tình hình còn phức tạp

Năm 2020 đánh dấu mốc 30 năm (1990-2020) nước ta đối phó với dịch HIV/AIDS. Đến nay, cả nước đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, đó là giảm số người mới phát hiện nhiễm HIV, giảm số người chuyển sang giai đoạn AIDS và giảm số người tử vong do AIDS. Với kết quả này, theo tính toán, nước ta đã tránh được cho khoảng hơn 400.000 người không bị nhiễm HIV và hơn 150.000 người không bị tử vong do HIV/AIDS trong những năm vừa qua. Dịch HIV/AIDS trong cộng đồng tiếp tục giảm với mức trung bình khoảng 0,24% mỗi năm. Hiện cả nước có khoảng 140.000 bệnh nhân có HIV/AIDS đang điều trị ARV (thuốc kháng HIV) và số người tuân thủ điều trị sau 12 tháng đạt gần 90%, trong đó có 40.000 người đang nhận thuốc ARV qua bảo hiểm y tế…

Tuy nhiên, theo đánh giá của Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế), tình hình HIV/AIDS còn diễn biến phức tạp. Hiện nay, cả nước ghi nhận hơn 210.000 người nhiễm HIV còn sống; mỗi năm cả nước xét nghiệm và phát hiện mới gần 10.000 người nhiễm HIV, gần 2.000 người tử vong vì HIV/AIDS. Số người mới phát hiện nhiễm HIV tập trung chủ yếu ở độ tuổi 16-29 (39,4%) và 30-39 tuổi (34,3%)… Điều này làm suy giảm lượng lao động xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản. Nguyên nhân nhiễm HIV/AIDS chủ yếu là do nghiện ma túy, quan hệ tình dục không an toàn.

Tại Hà Nội, thống kê của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (Sở Y tế Hà Nội) cho thấy, đến nay, lũy tích số người nhiễm HIV toàn thành phố là 29.000 người (hơn 23.000 người còn sống, hơn 6.000 người đã tử vong); 100% quận, huyện, thị xã trên địa bàn thành phố đều có người nhiễm HIV/AIDS. Tương tự Hà Nội, các tỉnh, thành phố khác vẫn phát hiện mới người nhiễm HIV/AIDS, ghi nhận số người tử vong do AIDS. Thực tế này đòi hỏi các cơ quan, đơn vị chức năng, các địa phương và mỗi người dân trong cộng đồng cần tiếp tục chung tay phòng, chống HIV/AIDS.

Nâng cao năng lực hỗ trợ

Nhằm hạn chế nguy cơ lây lan bệnh tật trong cộng đồng, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, các ngành, địa phương trên địa bàn Hà Nội xác định công tác phòng, chống HIV/AIDS là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Theo đó, chương trình can thiệp, giảm tác hại đối với người nhiễm HIV được các đơn vị, địa phương triển khai bài bản. Hiện nay, 100% xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố có mạng lưới cộng tác viên, tuyên truyền viên đồng đẳng tham gia can thiệp giảm tác hại tại cộng đồng; can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV trong nhóm người có nguy cơ cao.

Các cơ sở có chức năng xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV được thành lập ở nhiều địa phương với 73 phòng xét nghiệm sàng lọc đang hoạt động. Ngoài ra, Hà Nội có 11 cơ sở y tế được cấp chứng nhận đủ điều kiện xét nghiệm HIV, gồm 6 bệnh viện (Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, Bệnh viện Đa khoa Đống Đa, Bệnh viện Đa khoa Vân Đình, Bệnh viện Đa khoa Hà Đông và Bệnh viện 09) và 5 trung tâm y tế quận, huyện (huyện Thạch Thất, Chương Mỹ, Ba Vì, Đông Anh và quận Long Biên). Qua đó, thời gian qua, các cơ quan chức năng thành phố đã xét nghiệm HIV cho gần 120.000 lượt người.

Công tác chăm sóc, điều trị cho người có HIV/AIDS cũng được Hà Nội dành sự quan tâm đặc biệt. Dẫn chứng là, 100% các cơ sở điều trị HIV/AIDS được giám sát hỗ trợ kỹ thuật về điều trị HIV/AIDS; 100% trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV còn sống được điều trị dự phòng bằng thuốc ARV… Bệnh nhân HIV Nguyễn Thị Thu H. (huyện Ứng Hòa), cho hay: “Chúng tôi nhận được sự quan tâm, chăm sóc về nhiều mặt từ phía các cơ quan chức năng. Sau 5 năm tích cực điều trị, hiện nay, sức khỏe của tôi tương đối ổn định”. Đặc biệt, Hà Nội là địa phương đầu tiên tiến hành nuôi dưỡng thường xuyên trẻ em nhiễm HIV có hoàn cảnh khó khăn tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 2 Hà Nội. Giám đốc cơ sở Phạm Đình Giang chia sẻ: “Cơ sở cai nghiện ma túy số 2 Hà Nội đang chăm sóc, nuôi dưỡng 68 trẻ có HIV ở nhiều độ tuổi. Tất cả các cháu đều có sức khỏe ổn định, được đi học đầy đủ, được tham gia các hoạt động vui chơi phù hợp với độ tuổi”.

Với cách làm tương tự Hà Nội, các tỉnh, thành phố khác cũng nỗ lực phòng, chống HIV/AIDS, hướng tới mục tiêu có thể chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030. Để đạt mục tiêu này, ông Nguyễn Hoàng Long, Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho biết, Cục đang phối hợp với các cơ quan, đơn vị, địa phương triển khai Quyết định số 1246/QĐ-TTg ngày 14-8-2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030.

“Các giải pháp được triển khai đồng bộ kỳ vọng sẽ bảo đảm nguồn lực cho phòng, chống HIV/AIDS, tăng cường huy động nguồn lực trong nước, đặc biệt là vai trò của ngân sách địa phương và bảo hiểm y tế. Việc này mở ra cơ hội lớn chấm dứt dịch AIDS vào năm 2030, với mục tiêu số người nhiễm HIV mới giảm dưới 1.000 ca/năm trên phạm vi cả nước”, ông Nguyễn Hoàng Long nhấn mạnh.

Điện Biên: Tìm Giải Pháp Lâu Dài Phòng, Chống Hiv

Thẳng thắn trao đổi diễn biến dịch HIV/AIDS và thực trạng mua bán, vận chuyển và sử dụng ma túy, ông Phạm Xuân Kôi, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên đã không giấu giếm những con số đáng lo ngại. Từ trường hợp đầu tiên nhiễm HIV được phát hiện năm 1998 thì chỉ sau hơn 10 năm Điện Biên đã là tỉnh đứng đầu cả nước về tỷ lệ nhiễm HIV với 4.890 trường hợp nhiễm HIV, trong đó 2.334 trường hợp chuyển sang giai đoạn AIDS và 1.280 người đã tử vong do AIDS. Số người nhiễm HIV tăng nhanh, trung bình một ngày tỉnh Điện Biên phát hiện 3,58 người nhiễm HIV. Điều lo ngại là có tới 85,28% số người nhiễm HIV thuộc lứa tuổi từ 20-39 – những lao động chính của gia đình và xã hội. Qua thực tế giám sát trọng điểm cũng cho thấy, tỷ lệ nhiễm HIV ở Điện Biên trong các nhóm giám sát cao hơn chỉ số quốc gia 7,1 lần; tỷ lệ lây nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy là 42,5% và đã có dấu hiệu lan ra cộng đồng. Trong khi đó, Điện Biên lại là địa bàn “nóng” về thực trạng mua bán, vận chuyển và sử dụng trái phép ma túy với 5.450 người nghiện ma túy; trong đó có đến 65,2% người nghiện chích ma túy. Điều đó khiến tình trạng lây nhiễm HIV càng trở nên phức tạp và khó kiểm soát.

Các học viên tại Trung tâm chữa bệnh, giáo dục – lao động xã hội tỉnh Điện Biên

Đại sứ Australia tại Việt Nam, ông Allaster Cox cho rằng, để xóa đói nghèo, Điện Biên phải thực hiện đồng thời chống lại HIV, ma túy và mại dâm bằng một chiến lược cụ thể và đồng bộ các giải pháp như: cung cấp bơm kim tiêm sạch, triển khai điều trị nghiện thay thế bằng Methadone… Ở một góc nhìn khác, điều phối viên của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, ông John Hendra đưa ra nhận định: HIV lan tràn ở Điện Biên do số đông người tiêm chích ma túy sử dụng chung bơm kim tiêm. Từ nhận định này, ông đề nghị Điện Biên đưa ra các giải pháp trong việc nhân rộng mô hình hiệu quả sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ phòng, chống lây nhiễm HIV; đồng thời đề nghị Việt Nam nói chung và Điện Biên nói riêng cần phối hợp với các tổ chức quốc tế để việc phòng, chống lây nhiễm HIV đạt hiệu quả cao nhất.

Đề án phòng chống HIV/AIDS và phòng, chống ma túy giai đoạn 2011 – 2015, định hướng đến 2020, Điện Biên đề ra mục tiêu:

* 70% người dân từ 15-49 tuổi hiểu biết đúng về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS;

* 95% người nhiễm HIV/AIDS và 85% người sử dụng ma túy, người bán dâm hiểu biết đúng và biết cách dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS;

* 60% người nghiện chích ma túy được điều trị thay thế nghiện bằng methadone;

* 70% người lớn nhiễm HIV và 80% trẻ em nhiễm HIV được tiếp cận dịch vụ điều trị ARV;

* 70% phụ nữ mang thai nhiễm HIV/AIDS và con của họ được điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con…

Hà Anh

Các Biện Pháp Phòng Chống Lây Nhiễm Hiv

HIV-AIDS là căn bệnh thế kỉ, nó đã phá hủy mạng sống cũng như gia đình của rất nhiều người. Căn bệnh này có khả năng làm suy giảm hệ miễn dịch của con người, một tình trạng làm hệ miễn dịch của con người bị suy giảm cấp tiến, tạo điều kiện cho nhiễm trùng cơ hội và ung thư phát triển mạnh làm đe dọa đến mạng sống của người bị nhiễm. Chính vì vậy, người dân nên biết cách tự phòng tránh cho mình và cho người thân trong gia đình, đây được coi như là một loại vắc xin hữu hiệu để phòng ngừa HIV/AIDS hiện nay.

Dựa vào đường lây nhiễm HIV, có các biện pháp phòng sau:

1. Phòng nhiễm HIV/AIDS lây qua đường tình dục

– Sống lành mạnh, chung thuỷ một vợ một chồng và cả hai người đều chưa bị nhiễm HIV. Không quan hệ tình dục bừa bãi. – Trong trường hợp quan hệ tình dục với một đối tượng chưa rõ có bị nhiễm HIV không, cần phải thực hiện tình dục an toàn để bảo vệ cho bản thân bằng cách sử dụng bao cao su đúng cách. – Phát hiện sớm và chữa trị kịp thời các bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng giúp giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS vì những tổn thương do nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục sẽ là cửa vào lý tưởng cho HIV

2. Phòng nhiễm HIV/AIDS lây qua đường máu:

– Không tiêm chích ma túy. – Chỉ truyền máu và các chế phẩm máu khi thật cần thiết, và chỉ nhận máu và các chế phẩm máu đã xét nghiệm HIV. – Chỉ sử dụng bơm kim tiêm vô trùng. Không dùng chung bơm kim tiêm. Sử dụng dụng cụ đã tiệt trùng khi phẫu thuật, xăm, xỏ lỗ, châm cứu… – Tránh tiếp xúc trực tiếp với các dịch cơ thể của người nhiễm HIV – Dùng riêng đồ dùng cá nhân: dao cạo, bàn chải răng, bấm móng tay,…

3. Phòng nhiễm HIV/AIDS lây truyền từ mẹ sang con:

– Người phụ nữ bị nhiễm HIV thì không nên có thai vì tỷ lệ lây truyền HIV sang con là 30%, nếu đã có thai thì không nên sinh con. – Trường hợp muốn sinh con, cần đến cơ sở y tế để được tư vấn về cách phòng lây nhiễm HIV cho con. – Sau khi đẻ nếu có điều kiện thì nên cho trẻ dùng sữa bò thay thế sữa mẹ.