Top 8 # Giải Pháp Xây Dựng Con Người Việt Nam Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Giải Pháp Đột Phá Xây Dựng Con Người Việt Nam

Thủ tướng: “Kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm đạo đức, văn hoá, nhất là những hành vi bạo lực, phản cảm”.

Cụ thể, trong văn bản trả lời gửi tới đại biểu, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã khẳng định vấn đề phát triển con người toàn diện là một trong những nhiệm vụ tổng quát của giai đoạn 2016 – 2020. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự vào cuộc của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với nhiều giải pháp đồng bộ, toàn diện, triệt để.

Trong đó, cần chấn chỉnh đạo đức xã hội, củng cố niềm tin vào chế độ. Cụ thể, khắc phục bệnh dối trá, đạo đức giả, nói không đi đôi với làm. Từ các cấp lãnh đạo, quan chức phải làm gương về đạo đức, tư cách, phẩm chất đến các tầng lớp xã hội phải khắc phục bệnh thành tích, giả dối, sống hai mặt, củng cố niềm tin vào những mặt tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; mọi người đều phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các sai phạm.

Bên cạnh đó, tăng cường vai trò, trách nhiệm của ngành giáo dục, trường học trong hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa. Ngành giáo dục cần đổi mới phương pháp, nội dung hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, kỹ năng sống theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

Đồng thời, đề cao trách nhiệm của báo chí, thông tin truyền thông trong đấu tranh phòng và chống suy thoái đạo đức, lối sống, báo chí cần định hướng, tạo làn sóng mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông về việc chống suy thoái đạo đức, lối sống; đi đầu trong biểu dương nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; phát hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội.

Thực hiện tốt công tác giải quyết việc làm, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, hướng tới mục tiêu việc làm bền vững, đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động; có chính sách thu hút nhân tài; tuyển dụng, đánh giá, đãi ngộ, bổ nhiệm theo năng lực và phẩm chất cá nhân.

Đề cao vai trò giáo dục, cảm hóa của văn học nghệ thuật, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Phấn đấu có những bộ phim, tác phẩm, vở diễn, chương trình nghệ thuật chất lượng cao, góp phần bồi bổ tâm hồn, xây dựng nhân cách, giáo dục đạo đức. Phát huy tài năng, tâm huyết, trách nhiệm, ý thức công dân của đội ngũ văn nghệ sỹ.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả của các thiết chế văn hóa – thể thao, các sinh hoạt văn nghệ, hoạt động cộng đồng, phong trào văn hóa góp phần nâng cao đời sống tinh thần và thể chất của nhân dân. Lấy môi trường văn hóa lành mạnh, đời sống văn hóa phong phú đẩy lùi nguy cơ con người sa vào các tệ nạn xã hội hay tha hóa về đạo đức, lối sống. Tiếp tục thí điểm thực hiện “Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình”. Xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo đức, quy tắc ứng xử phù hợp với từng lĩnh vực như: du lịch, đào tạo, văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp…

Kiên quyết chấn chỉnh, xử lý các vi phạm đạo đức trong lĩnh vực văn hoá, nhất là các sai phạm trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn, bản quyền tác giả, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh, tổ chức lễ hội, du lịch, thể dục thể thao, nhất là những hành vi bạo lực, phản cảm, ứng xử thiếu văn hóa. Siết chặt quản lý các sản phẩm, dịch vụ văn hóa độc hại.

P.T

Giải Pháp Đột Phá Để Xây Dựng Con Người Việt Nam

Thủ tướng Chính phủ đã trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quốc Hưng (Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội) về giải pháp đột phá để xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Thủ tướng Chính phủ cho biết, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã khẳng định vấn đề phát triển con người toàn diện là một trong những nhiệm vụ tổng quát của giai đoạn 2016 – 2020. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự vào cuộc của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với nhiều giải pháp đồng bộ, toàn diện, triệt để.

Trong đó, cần chấn chỉnh đạo đức xã hội, củng cố niềm tin vào chế độ. Cụ thể, khắc phục bệnh dối trá, đạo đức giả, nói không đi đôi với làm. Từ các cấp lãnh đạo, quan chức phải làm gương về đạo đức, tư cách, phẩm chất đến các tầng lớp xã hội phải khắc phục bệnh thành tích, giả dối, sống hai mặt, củng cố niềm tin vào những mặt tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; mọi người đều phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các sai phạm.

Bên cạnh đó, tăng cường vai trò, trách nhiệm của ngành giáo dục, trường học trong hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa. Ngành giáo dục cần đổi mới phương pháp, nội dung hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa, kỹ năng sống theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

Đồng thời, đề nâng cao trách nhiệm của báo chí, thông tin truyền thông trong đấu tranh phòng và chống suy thoái đạo đức, lối sống, báo chí cần định hướng, tạo làn sóng mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông về việc chống suy thoái đạo đức, lối sống; đi đầu trong biểu dương nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; phát hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội.

Thực hiện tốt công tác giải quyết việc làm, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, hướng tới mục tiêu việc làm bền vững, đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động; có chính sách thu hút nhân tài; tuyển dụng, đánh giá, đãi ngộ, bổ nhiệm theo năng lực và phẩm chất cá nhân.

Đề cao vai trò giáo dục, cảm hóa của văn học nghệ thuật, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Phấn đấu có những bộ phim, tác phẩm, vở diễn, chương trình nghệ thuật chất lượng cao, góp phần bồi bổ tâm hồn, xây dựng nhân cách, giáo dục đạo đức. Phát huy tài năng, tâm huyết, trách nhiệm, ý thức công dân của đội ngũ văn nghệ sỹ.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả của các thiết chế văn hóa – thể thao, các sinh hoạt văn nghệ, hoạt động cộng đồng, phong trào văn hóa góp phần nâng cao đời sống tinh thần và thể chất của nhân dân. Lấy môi trường văn hóa lành mạnh, đời sống văn hóa phong phú đẩy lùi nguy cơ con người sa vào các tệ nạn xã hội hay tha hóa về đạo đức, lối sống. Tiếp tục thí điểm thực hiện “Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình”. Xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo đức, quy tắc ứng xử phù hợp với từng lĩnh vực như: du lịch, đào tạo, văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp…

Kiên quyết chấn chỉnh, xử lý các vi phạm đạo đức trong lĩnh vực văn hoá, nhất là các sai phạm trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn, bản quyền tác giả, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh, tổ chức lễ hội, du lịch, thể dục thể thao, nhất là những hành vi bạo lực, phản cảm, ứng xử thiếu văn hóa. Siết chặt quản lý các sản phẩm, dịch vụ văn hóa độc hại.

Theo Chí Kiên/Chinhphu.vn

Link gốc:

Một Số Vấn Đề Về Xây Dựng Con Người Việt Nam

Hai, Việt Nam đang tiếp tục ổn định về nhiều mặt. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết, tạo ra môi trường bên trong và bên ngoài để đất nước phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn, bởi vì không ít nước trong khu vực và trên thế giới không dễ gì có được điều kiện này.

Ba, hơn bao giờ hết, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến nhằm đưa đất nước tiến nhanh và bền vững. Việt Nam đã thấu chịu thử thách qua nỗi nhục bị nước ngoài đô hộ hàng nghìn, hàng chục năm, nay nỗi nhục nghèo nàn và lạc hậu đang chích vào tâm trí của con người Việt Nam nói chung, cứa vào lòng tự trọng của người Việt Nam. Chưa bao giờ ý chí vươn lên thoát khỏi tình trạng kém phát triển lại mạnh như bây giờ trong con người Việt Nam.

Bốn, trong tình hình quốc tế nói chung và tình hình Việt Nam nói riêng đang ở vào trạng thái vừa hợp tác vừa đấu tranh bởi xu thế ngày càng mạnh của toàn cầu hóa, bên cạnh những khó khăn, thì cũng có những thuận lợi cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đó là xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển; là sự phát triển nhanh hơn rất nhiều của khoa học và công nghệ so với tất cả các thời kỳ cách mạng kỹ thuật trước đây (thường được gọi là thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0), mà Việt Nam là nước đi sau có thể có lợi thế rút ngắn các bước phát triển.

Bên cạnh những mặt thuận lợi, riêng toàn cầu hóa đặt ra cho các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển những thách thức và nguy cơ hết sức to lớn: vấn đề sinh thái, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, vấn đề dân số và sức khỏe cộng đồng, sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế, đặc biệt nguy hiểm là tội phạm có tổ chức. Về mặt chính trị, đó là những thách thức nghiêm trọng đối với chủ quyền quốc gia. Điều này ảnh hưởng tới cả phẩm chất và năng lực của con người. Điều đó được lý giải bằng sự tác động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội nhập về chính trị. Từ đó đặt ra thách thức khắc nghiệt là hội nhập nhưng không hòa tan. Với lôgíc đó, người ta nói đến sự suy yếu của mô hình quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, người ta thường nói về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập đến sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, không thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn cầu hóa. Vấn đề là ở chỗ, đứng như thế nào, thế đứng ra sao để hội nhập toàn cầu hóa, trong đó quốc gia-dân tộc tham gia rất tích cực, rất sâu, rất rộng nhưng “anh vẫn là anh”, đó quả thực là vấn đề của cốt cách/bản sắc văn hóa quốc gia – dân tộc.

Thế giới đang và sẽ trở nên bất an hơn bao giờ hết: thế giới tiếp tục có những sự xung đột dân tộc, khu vực, tôn giáo; ranh giới giữa chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa nhiều lúc bị mờ đi và bị chuyển cực; giữa chủ quyền và nhân quyền; giữa sự can thiệp cần thiết của các tổ chức quốc tế, kể cả tổ chức lớn nhất là Liên Hợp quốc, với việc vi phạm bốn yếu tố quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia là độc lập – chủ quyền – thống nhất – toàn vẹn lãnh thổ, trở nên mong manh khó phân biệt hơn bao giờ hết. Thế giới càng trở nên bất an hơn bởi chủ nghĩa khủng bố và nguy cơ tiềm tàng vũ khí hạt nhân. Thế giới bị tàn phá bởi chính con người trong nỗ lực/lòng tham tìm mọi cách tăng trưởng kinh tế mà chưa chú ý đúng mức cũng như không giải quyết được các vấn đề khác, trong đó có vấn đề môi trường sinh thái để phát triển bền vững.

2. Một số yêu cầu đặt ra cho việc xây dựng con người

Một là, thế giới tiếp tục bất an và sự cạnh tranh giữa các quốc gia-dân tộc sẽ diễn ra khốc liệt hơn. Bản chất của nhân loại là cạnh tranh để sinh tồn và phát triển. Có hai biểu hiện của cạnh tranh: Một, tiêu diệt đối phương để bản thân mình tồn tại và phát triển. Hai, cạnh tranh lành mạnh hơn, hai bên hoặc nhiều bên gọi nhau bằng “đối tác”, cùng hợp tác và phát triển. Hợp tác nhưng thực ra là sự cạnh tranh để cùng tồn tại và cùng phát triển theo kiểu các bên cùng thắng. Hiện nay, thế giới đang diễn ra đồng thời cả hai kiểu; không thật rõ kiểu nào thắng thế, kiểu nào phổ biến hơn kiểu nào. Trong kiểu 1 có kiểu 2. Cho nên mới có kiểu hỗn hợp là “vừa hợp tác vừa đấu tranh”. Dù kiểu gì đi chăng nữa thì vẫn diễn ra việc cạnh tranh khốc liệt để tồn tại và phát triển.

Hai là, con người nói chung đang có xu hướng trượt dài về đạo đức. Đạo đức có mặt biểu hiện rất cơ bản là thông qua sự hành xử của chính con người. Xã hội loài người đang bước sang một giai đoạn phát triển mới, khi những tiến bộ của khoa học và công nghệ đã đưa con người tiến lên một bước mới trong việc tạo ra các của cải vật chất. Thế kỷ XXI, mới chỉ chưa đầy hai thập niên, nhưng của cải vật chất do con người làm ra đã bằng hàng mấy chục năm của thế kỷ trước cộng lại. Nhưng, lẽ ra đi kèm theo sự tăng lên của của cải vật chất là sự tiến bộ của văn hóa, của đạo đức, thì chúng ta chưa thấy điều đó. Kinh tế Việt Nam phát triển trong những năm đổi mới, song văn hóa-đạo đức phát triển chưa tương xứng.

b. Một số vấn đề đặt ra

– Con người là trung tâm. Khi hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và Việt Nam nằm trong dòng xoáy của toàn cầu hóa, bị chế định trong “luật chơi” quốc tế đã định sẵn mà chúng ta không có quyền sửa. Sự nghiệp xây dựng đất nước ta trong môi trường quốc tế sẽ diễn ra trong hoàn cảnh cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ hết, nó đầy nghiệt ngã, quyết liệt gấp bội so với trước đây, rất có thể mức độ và hệ số rủi ro sẽ rất lớn và dày hơn. Để chấp nhận vượt qua thách thức, nguy cơ, đòi hỏi tất cả các thành viên hệ thống chính trị, trong đó nổi rõ con người Việt Nam có những phẩm chất và năng lực vượt trội so với thời kỳ trước.

Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất cho đến nay đã trải qua hơn 30 năm với 7 nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta càng thấy rõ hơn, sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo đứng trước thời cơ, thách thức và nguy cơ lớn, nếu Đảng ta biết nắm lấy thời cơ, vượt qua thách thức, đề phòng và khắc phục được những nguy cơ, thì đất nước ta sẽ phát triển nhanh và bền vững trên con đường CNXH. Điều này không có gì hơn là phụ thuộc vào chính yếu tố con người.

Muốn cạnh tranh thì phải có sức mạnh, có thế mạnh, biết nắm lấy mọi cơ hội thuận lợi của Thiên – Địa – Nhân để có được thế chân vạc Thời – Thế – Lực. Con người Việt Nam trong cuộc sinh tồn và phát triển phải bằng sức mạnh cạnh tranh đúc từ sức mạnh nội tại kết hợp với yếu tố bên trong và bên ngoài, biến ngoại lực thành nội lực. Để làm được những công việc vĩ đại đó thì cần những con người có đủ phẩm chất và năng lực, phải là những người bằng bàn tay khối óc của chính mình làm nên sự nghiệp lớn, đưa dân tộc tiến vào xã hội đã được xác định: xã hội xã hội cộng sản, nơi mà ở đó con người được phát triển tự do, toàn diện như C. Mác và Ph.Ăngghen đã nêu trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cách đây 170 năm (tháng 2 -1848): Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

– Chú trọng hơn về giáo dục. Giáo dục không chỉ là quốc sách mà còn là sinh mệnh chính trị của dân tộc. Xét cho đến cùng, những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế của con người Việt Nam nói chung đều là do những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực này mà ra. Có một triết lý được nhiều người thừa nhận: “Muốn dự đoán tương lai đất nước, hãy nhìn vào giáo dục, muốn đánh giá nền giáo dục, hãy nhìn vào đãi ngộ đối với nhà giáo”. Trên thế giới ngày nay, những người giàu nhất thế giới chẳng có ai không tốt nghiệp phổ thông, không ai mù chữ lại có thể trở thành chính khách. Chúng tôi đồng cảm với ý kiến của bà Olga Yurievna, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Liên bang Nga khi cho rằng: “Bộ trưởng quan trọng nhất trong chính phủ là Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Bộ trưởng Bộ Y tế tồi cùng lắm chỉ gây khó khăn cho người dân khám chữa bệnh và ảnh hưởng tới sức khỏe. Bộ trưởng Bộ Kinh tế tồi cùng lắm là làm chậm sự phát triển kinh tế. Nhưng Bộ trưởng Bộ Giáo dục tồi thì phá hoại cả tương lai của đất nước và của quốc gia”(3). Những năm 60 của thế kỷ XX, trước thành tựu khoa học và kỹ thuật vượt trội của Liên Xô, Tổng thống Mỹ John Kennedy cho rằng: “Chúng ta thua người Nga bắt đầu từ ghế nhà trường”(4).

Sự cố gắng của Đảng và Nhà nước ta đã được thể hiện cơ bản trong Chiến lược Phát triển giáo dục, ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13-6-2012 của Thủ tướng Chính phủ cũng như trong Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, mà Chính phủ đã ra Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 31-12-2014 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI. Song, trên thực tế, việc thực hiện các nghị quyết cũng như Chiến lược này còn rất lúng túng, trong đó có nguyên nhân từ những cán bộ chủ chốt của ngành. Hàng chục năm qua, Nhà nước đã có cố gắng thực hiện quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, do đó, mỗi năm đã chi khoảng 20% ngân sách cho giáo dục. Đó là chưa kể kinh phí xã hội chi trả cho các dịch vụ giáo dục. Đó là con số không nhỏ nếu đem so sánh với các ngành khác. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận về giáo dục, vẫn còn nhiều bất cập và rào cản từ cơ chế, chính sách, trong đó phải kể đến cả sự bất cập về nhân sự cán bộ chủ chốt.

– Tập trung các nguồn lực xây dựng bộ tiêu chí con người Việt Nam. Đã có không ít đề tài nghiên cứu khoa học và nhiều tác giả đã đưa ra các tiêu chí về con người Việt Nam(5). Đại hội XII của Đảng cũng đã nêu lên một số nội dung về xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Chẳng hạn:

– Xây dựng “con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(6), coi đó là “một mục tiêu của chiến lược phát triển”(7).

– “Phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”(8) “mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người”(9).

– Đối với đội ngũ đảng viên: “tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng”(10), “chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm”(11).

Tổng hợp lại, có hai tiếp cận về xây dựng con người Việt Nam giai đoạn hiện nay.

Tiếp cận thứ hai: Tiếp cận theo hướng như Đại hội XII của Đảng, trên 5 mặt: 1) Đạo đức; 2) Nhân cách; 3) Lối sống; 4) Trí tuệ; 5) Năng lực làm việc. Từ tiếp cận thứ hai này, có thể gộp vào hai nhóm, mỗi nhóm tập hợp các nội dung gần nhau: Nhóm 1 – Đạo đức, nhân cách, lối sống; Nhóm 2 – Trí tuệ, năng lực làm việc, trong “năng lực làm việc” có cả yếu tố bảo đảm sức khỏe.

Trong nhóm 1, cần bảo đảm các yếu tố sau đây:

– Có lòng nhân ái (hoặc tính nhân văn), tức là thái độ và hành động yêu thương quý trọng con người, trước hết là từ những người thân thuộc, sau nữa mở rộng ra con người quốc gia, con người quốc tế và đặc biệt là con người lao động, con người dễ bị tổn thương trong xã hội. Nói chung là thái độ đối với nhân dân (hiếu với dân).

– Có lòng yêu nước (cũng có thể đây là yếu tố “trung với nước” theo quan niệm của Hồ Chí Minh). Yêu nước ở đây bắt đầu từ quê hương đến yêu những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

– Có ý thức và hành động cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

– Con người phát triển toàn diện về chân – thể – mỹ, có lối sống giản dị, lành mạnh, vì cộng đồng, có ý thức thượng tôn pháp luật.

Trong nhóm 2, cần bảo đảm các yếu tố sau đây:

– Xây dựng con người có đủ sức khỏe cơ bản để làm điều kiện tiên quyết có năng lực trí tuệ và nâng cao năng lực, trí tuệ (Sức khỏe được hiểu ở đây không chỉ là thể xác mà còn là sức khỏe tinh thần). Trách nhiệm này không chỉ thuộc về ngành y tế nước nhà mà còn của cả hệ thống chính trị, của từng gia đình và cá nhân. Ở đây đòi hỏi cả hệ thống chăm lo về dân số và phát triển, trong đó có cả những nội dung về chăm lo cải thiện chất lượng nòi giống trong thế so sánh với các nước trên thế giới.

– Con người được đào tạo một cách đầy đủ, theo bài bản tích cực trong hệ thống giáo dục quốc dân, tiếp cận sự tiến bộ giáo dục quốc tế, đồng thời con người Việt Nam trong thời kỳ này phải tự giáo dục, tự đào tạo (tự học suốt đời). Tất cả những cái đó là vừa để có được những tri thức và kỹ năng cơ bản, cần thiết, phù hợp với từng đối tượng, vừa coi trọng nền tảng cơ bản, vừa coi trọng chuyên sâu.

– Làm trong sạch môi trường văn hóa đạo đức. Môi trường văn hóa đạo đức hiện nay ở Việt Nam rất đáng lo ngại:

– Nạn ma túy trong xã hội. Ma túy hủy hoại sức khỏe, giống nòi, gia đình, cộng đồng, xã hội. Mức độ nạn ma túy (sử dụng, buôn bán…) hiện nay rất cao, mà chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Ma túy đã len lỏi vào cả cộng đồng nông thôn, nơi xưa nay thường được coi là ít biến động và ít giao lưu nhất, nơi đang lưu giữ và vận hành nhiều truyền thống tốt đẹp. Sự lan tỏa của tệ nạn này đang gia tăng cường độ, đặc biệt nghiêm trọng là đối với những địa phương giáp ranh với nước ngoài.

– Bạo lực đang có xu hướng phát triển rất mạnh. Bạo lực diễn ra trên diện rộng, ở cả ba không gian: gia đình, học đường, xã hội; cả ba mặt đó đều nghiêm trọng như nhau. Có bạo lực ở học đường là do có bạo lực ở gia đình và xã hội, và ngược lại.

– Mức độ tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, cũng đang có xu hướng tăng mạnh. Tội phạm ở Việt Nam có xu hướng ngày càng gia tăng, biểu hiện trên nhiều lĩnh vực. Đáng chú ý nhất và thật sự nguy hiểm khôn lường là sự gia tăng của tội phạm có tổ chức.

– Văn hóa chính trị ở Việt Nam đang có nhiều tiêu cực. Tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, kể cả trong cán bộ cấp cao, diễn ra từ lâu mà Đại hội Đảng kỳ nào cũng nêu nhưng vẫn chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Trong văn hóa chính trị hiện nay, chúng tôi thấy rằng, đỉnh điểm của tiêu cực trong hệ thống chính trị là tham nhũng; là 4 biểu hiện của căn bệnh lệch lạc giữa nói và làm: (1) Nói nhiều làm ít; (2) Nói thì hay làm thì dở; (3) Nói mà không làm; (4) Nói một đằng làm một nẻo.

Đã đến lúc không thể hô hào chung chung mà cần bắt tay vào hành động với ý chí lớn lao, bởi đây là vấn đề rất hệ trọng, xây dựng con người và đi cùng với đó là vấn đề tổ chức, bộ máy. Hơn lúc nào hết, chúng ta càng thấy rõ vấn đề xây dựng con người quan trọng như thế nào, nó vừa là mục tiêu và vừa là động lực của sự phát triển của xã hội Việt Nam. Sự nghiệp này là vĩ đại, không thể một sớm một chiều mà xong. Đất nước đang đứng trước những thách thức lớn. Con người Việt Nam đang đứng trước sứ mạng quang vinh nhưng đầy thách thức, đó là đưa đất nước tiến nhanh và bền vững, góp phần xây dựng một thế giới văn minh mà ở đó những giá trị về con người được coi trọng, được phát triển toàn diện.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2018

(1), (6), (7), (8), (9), (10), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.219, 126, 126, 127, 127, 47, 47.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.25.

(3), (4) Dẫn theo https://www.planet-kob.ru

2. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Dạy nghề, Viện Nghiên cứu phát triển phương Đông: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.

3. Nguyễn Duy Bắc: “Phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện theo tinh thần Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6-2016.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013): Báo cáo triển khai chiến lược phát triển giáo dục 2011-2010 và thực hiện Kết luận số 51-KL/TW ngày 29-10-2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

5. Phạm Minh Hạc (Chủ biên): Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

GS, TS Mạch Quang Thắng

Viện Lịch sử Đảng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn: Tạp chí Lý luận Chính trị

Những Giải Pháp Bước Đầu Trong Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hóa, Con Người Việt Nam

Biểu diễn nghệ thuật tại Ngày hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2014.

Các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa đã đề xuất nhiều ý kiến thiết thực để thực hiện và đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, lối sống; về văn hóa chính trị – kinh tế, tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh và phát triển công nghiệp văn hóa, thực hiện hội nhập quốc tế.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa XI (Nghị quyết T.Ư 9 khóa XI – Nghị quyết số 33 NQ/TW) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã được ban hành ngày 9-6-2014. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn chiến lược và bước phát triển quan trọng trong tư duy, lý luận của Ðảng ta về văn hóa; về vị trí, vai trò của văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng cùng quá trình toàn cầu hóa với nhiều biến động về kinh tế – chính trị thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Trong phát biểu đề dẫn hội thảo, Thứ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hồ Anh Tuấn đã nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng mang tính chiến lược của Nghị quyết T.Ư 9 khóa XI (Nghị quyết T.Ư 9); là sự tiếp nối, kế thừa Nghị quyết T.Ư 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc” thời kỳ đổi mới, nhưng ở tầm cao hơn, mang lại những nhận thức mới về văn hóa, thể hiện quyết tâm của Ðảng ta trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Xây dựng hệ giá trị cốt lõi con người Việt Nam

Mục tiêu của Nghị quyết T.Ư 9 là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; đưa văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững. Trong đó, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là nhiệm vụ đầu tiên, được đặt ở vị trí quan trọng trong sáu nhiệm vụ của Nghị quyết nêu ra. Ðề cập về nhiệm vụ này, GS, TS Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư khẳng định: Suy cho cùng, mọi hoạt động phát triển văn hóa cũng đều hướng đến xây dựng con người, bởi con người là chủ thể của sáng tạo, là tài nguyên, nguồn lực quan trọng nhất để phát triển quốc gia. Vì thế, cần tập trung xây dựng con người Việt Nam với việc cụ thể hóa những chuẩn mực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các chuẩn mực đó chính là “hệ giá trị con người”, là những giá trị cốt lõi mà con người cần hướng tới như Nghị quyết T.Ư 9 đã chỉ ra: có nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật…, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo… Ðể làm được điều này, cần huy động được mọi nguồn lực từ gia đình, nhà trường và cộng đồng cũng như sự chung tay giúp sức của toàn xã hội. Từ góc nhìn mở rộng mang tính thực tiễn về xây dựng con người, chăm lo bồi dưỡng nhân cách thế hệ trẻ, GS, TS Ðinh Xuân Dũng, Ủy viên Hội đồng Lý luận T.Ư cho rằng, việc lập kế hoạch và lộ trình để xây dựng và hoàn thiện hệ thống các hệ giá trị mới của con người Việt Nam là đòi hỏi rất cao và mới đối với văn hóa giai đoạn tới, bởi những năm qua, cuộc vận động xây dựng con người mới, tuy có bề rộng, nhưng chưa sâu, chưa bền vững, hiệu quả còn hạn chế và hình ảnh con người Việt Nam hiện đại còn mờ nhạt trong sáng tạo văn hóa, văn học – nghệ thuật. Do đó, cần tập trung cho việc cụ thể hóa hệ giá trị đó thành những mẫu hình, chuẩn mực phù hợp với từng giới, từng ngành, địa phương, đơn vị, kết hợp sâu sắc giữa giá trị truyền thống tốt đẹp và giá trị mới. Ðấu tranh kiên quyết chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Giáo sư cũng đề nghị cần triển khai chương trình giáo dục văn hóa, giáo dục thẩm mỹ, nâng cao chất lượng giáo dục khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục đạo đức, lối sống trong nhà trường, từ phổ thông đến đại học, bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, thiếu niên; nhấn mạnh tới bốn giá trị lớn mà văn hóa phải chăm lo nuôi dưỡng cho thanh niên là: lý tưởng sống, năng lực trí tuệ, vẻ đẹp đạo đức, bản lĩnh văn hóa. Ðể làm được điều này, cần phát huy vai trò của đội ngũ văn nghệ sĩ, những người hoạt động văn hóa. GS, TS Ðinh Xuân Dũng cũng thẳng thắn cảnh báo về tình trạng đường lối, chủ trương nghị quyết là đúng, nhưng tổ chức thực hiện kém, làm một cách hời hợt, hình thức, kết quả là chủ trương không đi vào được cuộc sống, vẫn nằm trên các trang giấy. Chính từ những lo ngại đó, GS, TS Ðinh Xuân Dũng đã đề nghị cần Thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Ðảng về văn hóa thành pháp luật, chính sách của Nhà nước, bảo đảm quá trình chăm lo bồi dưỡng nhân cách thế hệ trẻ, xây dựng con người phát triển một cách toàn diện.

Bổ sung vào quan điểm nêu trên, PGS, TS Từ Thị Loan, quyền Viện trưởng Văn hóa – Nghệ thuật quốc gia Việt Nam lưu ý: Cần nhanh chóng xác lập và hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Theo đó, kế thừa tất cả những gì tinh hoa trong cội nguồn văn hóa dân tộc, đồng thời bổ sung những giá trị mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hệ giá trị mới, định hướng giá trị của con người Việt Nam hiện nay cần được xây dựng và củng cố trong các mối quan hệ đa chiều: truyền thống và hiện đại, cá nhân và cộng đồng, lý tưởng và hiện thực, dân tộc và quốc tế, địa phương và nhân loại…, kiên quyết khắc phục các thói hư, tật xấu và những mặt hạn chế của con người Việt Nam, ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Có như vậy, việc hiện thực hóa hệ giá trị đó trong thực tiễn mới có tính khả thi, hiệu quả và có sức sống.

Ðể tạo dựng các giá trị văn hóa tốt đẹp trong con người, cần xây dựng và củng cố một môi trường văn hóa lành mạnh. Theo TS Vũ Thị Phương Hậu, Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, trong bối cảnh môi trường văn hóa Việt Nam còn nhiều tình trạng lai căng, ngoại lai, tệ nạn xã hội, tội phạm… có chiều hướng gia tăng, để làm trong sạch môi trường văn hóa, trước hết, cần tập trung xây dựng văn hóa gia đình và nâng cao nhận thức của xã hội, nhất là của lớp trẻ về gia đình, về văn hóa gia đình. Các lớp học tiền hôn nhân cần được tổ chức rộng khắp trên cả nước để trang bị những kiến thức cơ bản, cần thiết cho các bạn trẻ trước khi quyết định xây dựng tổ ấm cho mình. Bên cạnh đó, cần xây dựng và hình thành văn hóa công sở trong các cơ quan hành chính Nhà nước, nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi mà trong đó mọi thành viên đều có thể phát huy hết khả năng sáng tạo của mình, gánh vác nhiệm vụ do Nhà nước và nhân dân giao phó, đồng thời đáp ứng nhu cầu của nhân dân và phục vụ xã hội được tốt hơn. Một biện pháp quan trọng là kiện toàn hệ thống thiết chế văn hóa để các chính sách, giá trị văn hóa đi vào cuộc sống. Ðồng thời, phát triển và quản lý tốt thị trường văn hóa phẩm, vừa đáp ứng được mọi nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp trong xã hội, vừa tạo ra những định hướng, tác động tích cực đối với công chúng. Bàn về giải pháp thể chế hóa các chính sách về văn hóa, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai TS Trần Hữu Sơn nhấn mạnh, phải đặc biệt chú ý đến việc xây dựng cơ chế đặc thù để phát triển văn hóa cho từng vùng, miền. Ông đã nêu lên thực tiễn hoạt động và phát triển văn hóa ở khu vực miền núi phía bắc về cơ chế vận hành của đời sống văn hóa dân gian, người dân không chỉ có nhu cầu hưởng thụ mà còn trực tiếp tham gia sáng tạo, phân phối các sản phẩm văn hóa… Từ thực tế này, cần quan tâm nghiên cứu cơ chế vận hành dân gian để đề xuất các chính sách hỗ trợ, tổ chức các hoạt động văn hóa ở miền núi một cách phù hợp.

Trong xây dựng con người và xây dựng môi trường văn hóa, không thể không chú trọng đến giải pháp giáo dục, đào tạo, nguyên Viện trưởng Nghiên cứu con người PGS, TS Mai Quỳnh Nam khẳng định: Bản chất của xây dựng con người là đào tạo con người, và bản chất của đào tạo con người là đào tạo học vấn. Do đó, cần nâng cao chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục, bên cạnh đó, cũng cần có cái nhìn thẳng thắn vào những hạn chế trong tư tưởng, tính cách của người Việt Nam, xác định những rào cản trong vấn đề xây dựng con người để tìm giải pháp khắc phục, thay đổi. Theo TSKH Phạm Ðỗ Nhật Tiến, Bộ Giáo dục và Ðào tạo, việc xây dựng quan hệ đối tác giáo dục – văn hóa là lời giải cơ bản cho bài toán xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Quan hệ này cần được thiết lập dựa trên thế mạnh của từng đối tác, cùng chia sẻ trách nhiệm và nguồn lực, nhằm đem lại kết quả đầu ra mong muốn trong xây dựng con người Việt Nam. Trưởng Ban Tuyên truyền – lý luận Báo Nhân Dân, nhà báo Nguyễn Hòa đã nêu bật văn hóa khoa học và giáo dục là tiền đề quan trọng để phát triển bền vững. Ðể định hướng cho văn hóa giáo dục trong một tương lai dài, cần chấn chỉnh lại các đơn vị kiến thức giảng dạy trong trường học các cấp. Cần thiết phải nhấn mạnh nội dung giáo dục truyền thống, giáo dục công dân, không để tình trạng những môn học này thuần túy thi lấy điểm mà thiếu tác động tới sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. Trong giáo dục, sự chệch hướng rất dễ nảy sinh từ các vấn đề nêu trên và hậu quả sẽ hết sức tai hại khi thế hệ tương lai không được đào tạo một cách đúng đắn.

Quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa

Ðể văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, nhất thiết phải xác định được vai trò của văn hóa trong tổ chức, hoạt động chính trị cũng như phát triển kinh tế – xã hội. GS, TS Hoàng Chí Bảo, Hội đồng Lý luận Trung ương nhấn mạnh: Xây dựng văn hóa trong chính trị là đòi hỏi tất yếu, làm cho chính trị vì con người, vì dân phải là chính trị có văn hóa, chính trị trở thành văn hóa chính trị và sự trưởng thành của mỗi con người chính trị, mỗi tổ chức chính trị, mỗi hoạt động, hành vi chấp chính cũng như tham chính đều được đo lường, đánh giá bằng thước đo văn hóa. Muốn xây dựng văn hóa trong chính trị, phải chú trọng xây dựng con người, hoàn thiện nhân cách trong hoạt động chính trị, từ những công dân của nhà nước pháp quyền đến cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ chức vụ, được giao trọng trách ở các cấp, các ngành. Theo ông, văn hóa trong chính trị, nhất là trong Ðảng, Nhà nước phải biểu hiện thành văn hóa trong Ðảng – văn hóa lãnh đạo, cầm quyền và trở thành văn hóa trong Nhà nước – văn hóa quản lý và quản trị. Ðội ngũ cán bộ, đảng viên của Ðảng, đội ngũ công chức của Nhà nước, của chính quyền các cấp trong hệ thống công quyền được giáo dục và thực hành văn hóa trong chính trị phải tỏ ra là những chủ thể của văn hóa chính trị, tận tụy, trách nhiệm, gương mẫu trong công việc, trong quan hệ, trong ứng xử với dân theo yêu cầu trọng dân và trọng pháp. Bàn về giải pháp xây dựng văn hóa trong Ðảng, GS, TS, NGND Trần Văn Bính, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Trong tình hình hiện nay, để xây dựng văn hóa trong Ðảng, phải tập trung chống chủ nghĩa cá nhân. Chỉ có quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì mới xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân…

Xây dựng văn hóa trong Ðảng cũng là cách để nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Ðảng và cấp ủy các cấp đối với lĩnh vực văn hóa, mà giải pháp nòng cốt là tập trung xây dựng được đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa từ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý đến cán bộ làm công tác khoa học, đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ… Theo Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật T.Ư PGS, TS Ðào Duy Quát, để thực hiện giải pháp cơ bản và quan trọng này, cần chú ý đến bốn nội dung: Thứ nhất, tập trung xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa, trong đó coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; bố trí cán bộ làm công tác khoa học. Thứ hai, quan tâm xây dựng các trường văn hóa nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Thứ ba, đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Tiếp tục gửi sinh viên, cán bộ đi đào tạo chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật, thể thao ở các nước phát triển. Xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương. Chú trọng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa. Thứ tư, có chính sách phát hiện, bồi dưỡng sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Ðiều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc hội nhập văn hóa và tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa văn hóa thế giới là xu hướng tất yếu của phát triển văn hóa. PGS, TS Phạm Duy Ðức, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, một trong những giải pháp quan trọng để chủ động hội nhập văn hóa là cần xây dựng môi trường đối ngoại văn hóa lành mạnh, nhất là xây dựng một số trung tâm văn hóa ở trong nước và nước ngoài có chức năng “môi giới”, lựa chọn, phiên dịch, giới thiệu những thành tựu văn hóa của thế giới vào Việt Nam và Việt Nam ra nước ngoài. Ðặc biệt chú ý tới vai trò của thông tin văn hóa đối ngoại trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trong các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, các trường đại học, các viện nghiên cứu.

Bàn về việc thúc đẩy thế chủ động trong hội nhập quốc tế về văn hóa, nhiều đại biểu tham dự Hội thảo đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của việc phát huy “sức mạnh mềm” của các giá trị văn hóa. TS Nguyễn Thị Thu Phương, Viện Nghiên cứu Trung Quốc (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) đã đưa ra khái niệm phổ biến và mang tính toàn vẹn mà thế giới đang công nhận như sau: “Sức mạnh mềm văn hóa là sức hấp dẫn, thu phục, khả năng ảnh hưởng, lôi cuốn của một quốc gia đối với các quốc gia khác bằng các giá trị văn hóa, tinh thần, hệ tư tưởng được thực hiện thông qua các phương thức mang tính phi cưỡng chế… nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của quốc gia đó trong quan hệ quốc tế. Sức mạnh mềm văn hóa còn là khả năng một quốc gia chủ động tiếp nhận, hấp thu, tiếp biến có chọn lọc những tinh hoa văn hóa từ bên ngoài, đồng thời có sức chống đỡ, hóa giải được những tác động nguy hại, gây xói mòn các giá trị nền tảng và làm suy yếu bản sắc văn hóa, gây tổn hại chủ quyền văn hóa quốc gia”. Với nội hàm đó, theo Viện trưởng Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh TS Nguyễn Toàn Thắng, để gia tăng sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, trước tiên cần tôn trọng luật pháp quốc tế, thực hiện đạo lý nhân loại, phát huy sức cảm hóa và sức hấp dẫn của CNXH. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh phát triển truyền thông đại chúng, quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam trên toàn cầu; tập trung xây dựng “sức mạnh mềm” văn hóa trong cộng đồng dân cư, thường xuyên giáo dục nâng cao dân trí cộng đồng trên cơ sở coi trọng và phát huy vai trò của triết học mác-xít, khoa học xã hội.