Top 7 # Giải Pháp Xây Dựng Rèn Luyện Phong Cách Lãnh Đạo Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Xây Dựng Và Rèn Luyện Phong Cách Người Cán Bộ Lãnh Đạo Theo Lời Bác Dặn

Thấm nhuần quan điểm: “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” (1) , việc xây dựng và rèn luyện nhân cách cán bộ lãnh đạo là một trong những nội dung quan trọng của công tác cán bộ, góp phần để mỗi người hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Nhân cách là những phẩm chất và năng lực của con người, là tổng hòa của tài và đức. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng phải có đủ tài và đức – đó là điều kiện cần và đủ; trong đó, đạo đức được coi là gốc của nhân cách và tài giữ vai trò quan trọng: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn… chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức thì hỏng” (2) . Những yêu cầu của Hồ Chí Minh về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi giai đoạn nhất định, yêu cầu về năng lực và phẩm chất đạo đức của người cán bộ lãnh đạo lại có những yêu cầu cụ thể, song tựu trung lại thì đó phải là những người luôn nỗ lực “học để làm việc, làm người làm cán bộ. Học để phục sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” (3) .

Người cán bộ lãnh đạo phải có tài, cụ thể là: 1) Có tư duy lý luận, “lý luận đi đôi với thực tiễn”(4), góp phần vào việc xây dựng, triển khai thực hiện và sửa đổi, bổ sung các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp thực tiễn. 2) Có năng lực chuyên môn, vận dụng kiến thức chuyên môn phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn hiệu quả. 3) Có năng lực lãnh đạo, quản lý; dự báo – định hướng phát triển; tổng kết thực tiễn. 4) Có kiến thức xã hội; sử dụng tốt công nghệ thông tin… Muốn có được năng lực đó, người cán bộ lãnh đạo phải nỗ lực học tập, rèn luyện, vì cách mạng cũng là một nghề, làm nghề gì cũng phải học. Đồng thời, người cán bộ lãnh đạo phải có đức, cụ thể là: 1) Phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác – Lênin; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; luôn đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. 2) Gương mẫu đi đầu, dấn thân đảm nhận những công việc khó; dám nghĩ, dám làm, quyết tâm vượt mọi khó khăn trong lãnh đạo, chỉ đạo và phải có tài dùng người “tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy”(5). 3) Luôn thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thống nhất giữa nói và làm, nói ít làm nhiều; gắn bó với nhân dân, vì nhân dân tận tâm, tận lực phục vụ, xứng đáng là người lãnh đạo, người “công bộc” trung thành của nhân dân…

Những yêu cầu cần và đủ về tài và đức Hồ Chí Minh nêu ra góp phần xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, đảm bảo uy tín và khả năng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quần chúng thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Không ít lần nhấn mạnh rằng, chức vụ – quyền lực của mỗi cán bộ lãnh đạo là do nhân dân tín nhiệm, ủy thác, nên theo Hồ Chí Minh: cùng với việc Đảng cầm quyền, được giao đảm nhiệm các vị trí trọng yếu trong cơ quan Đảng và Nhà nước, khi thực thi các quyền lực đó – cán bộ lãnh đạo là những người đại diện cho nhân dân, là “công bộc của dân”, chứ không phải là “quan cách mạng”. Do đó, trong mọi thời điểm, thời chiến hay thời bình, để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ, người cán bộ lãnh đạo không chỉ phải có bản lĩnh, kiên định thực hiện mục tiêu cách mạng mà còn phải luôn học hỏi và lắng nghe; dám nghĩ, dám làm và dám ra quyết định ở những thời điểm khó khăn, có tính bước ngoặt; gần gũi, chân thành, tin tưởng đồng chí, đồng bào, v.v.. để quy tụ được mọi người, nhân nguồn sức mạnh của khối đoàn kết trong Đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị.

Hồ Chí Minh từng nói, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”, cho nên, Người không chỉ yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, người cán bộ lãnh đạo nói riêng phải làm giàu tri thức, bồi dưỡng tư duy, cách nhìn tổng thể, biện chứng, chủ động, sáng tạo… mà còn phải . Trên tinh thần đó, muốn lãnh đạo đúng, hiệu quả – người cán bộ lãnh đạo phải gần dân, hiểu dân, vì dân, xứng đáng là công bộc của dân; phải thật thận trọng, phải giữ gìn trước những cám dỗ của quyền lực và là một tấm gương mẫu mực về nhân cách người lãnh đạo luôn “biết làm cho rèn luyện đạo đức cách mạng, “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Từ nhận thức sâu sắc rằng, thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều, những yêu cầu của Hồ Chí Minh về việc cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên, liên tục rèn luyện nhân cách; chủ động phòng và kiên quyết chống lại tư tưởng ỷ lại, lối làm việc dựa trên kinh nghiệm, thiếu tư duy khoa học, sáng tạo cùng những thói hư tật xấu, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu” càng trở nên cần thiết và có ý nghĩa. Theo Người, các cơ quan Đảng, Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là “công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho dân”, cho nên “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta (6) (7) dân tin, dân phục, dân yêu ” .

Hồ Chí Minh không chỉ đặc biệt chú trọng công tác cán bộ; nêu rõ, yêu cầu và chỉ ra biện pháp để mỗi người cán bộ lãnh đạo rèn đức, luyện tài, vừa hồng vừa chuyên, xứng đáng với trọng trách Đảng và Nhà nước giao phó, mà Người còn là một tấm gương mẫu mực, trong sáng về nhân cách người lãnh đạo tận tâm, tận lực, suốt đời phấn đấu hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Ở Người là sự thống nhất giữa nói và làm, giữa giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức, nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo đức một vĩ nhân và đạo đức đời thường. Tâm huyết và trăn trở với công tác cán bộ, trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh vẫn dành một phần để nói về Đảng, về sự phấn đấu, tu dưỡng của người cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (8) .

Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”.Chủ tịch HỒ CHÍ MINH

X Ứ NG ĐÁ NG L À NG ƯỜ I L Ã NH ĐẠ O, NG ƯỜ I ĐẦ Y T Ớ TH Ậ T TRUNG TH À NH C Ủ A NH Â N D Â N

Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, những yêu cầu về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo theo quan điểm của Hồ Chí Minh càng trở nên cần thiết và có ý nghĩa. Thực tế nhiệm vụ cách mạng, những quy luật vận động của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã hoàn toàn khác với những quy luật vận động của thời kỳ đấu tranh giành chính quyền. Con đường để nhân dân Việt Nam đi đến độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phát triển bền vững không chỉ dừng lại ở lối làm việc chủ quan và kinh nghiệm. Vì vậy, với vị thế lãnh đạo, người cán bộ cần phải bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo, bao gồm cả năng lực trí tuệ, khả năng quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện; phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, phòng và chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa. Đó chính là tiêu chí, là thước đo, góp phần đánh giá hiệu quả công tác của người cán bộ lãnh đạo.

cấp ủy các cấp chú trọng việc rèn luyện nhân cách của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trên cơ sở tiêu chí, tiêu chuẩn của từng chức danh, chức vụ cán bộ lãnh đạo được cấp có thẩm quyền ban hành. Từ đó, tiếp tục lựa chọn, đánh giá, đưa vào quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ lãnh đạo đúng theo năng lực và phẩm chất đạo đức. Tổ chức thực hiện tốt việc bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ lãnh đạo theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 và Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; kiên quyết khắc phục “tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội,… chậm được ngăn chặn và đẩy lùi” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra.

tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp; gắn đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tạo điều kiện và gắn việc giáo dục rèn luyện của tập thể với phát huy tính chủ động tự giác trong rèn luyện và tu dưỡng của mỗi cá nhân cán bộ lãnh đạo.

nêu cao tính tiền phong gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của người cán bộ lãnh đạo trong xây dựng kế hoạch và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ; giữa nỗ lực nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý với rèn luyện phong cách, tác phong công tác khoa học, dân chủ, sáng tạo, gần dân, trọng dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; giữa nêu gương đạo đức, lối sống, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với phòng và chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng, lợi dụng chức quyền, thu vén cá nhân…; giữa tự phê bình và phê bình với nghiêm túc khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.

(1), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.5, tr.309, 167.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.269.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.208.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.

(5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.43,65.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611-612.

Xây Dựng Phong Cách Lãnh Đạo Của Người Đứng Đầu Theo Tư Tưởng, Đạo Đức, Phong Cách Hồ Chí Minh

Phong cách lãnh đạo là tổng hợp những phương pháp, biện pháp, cách thức riêng, tiêu biểu mà người lãnh đạo sử dụng hằng ngày để thực hiện nhiệm vụ của mình. Phong cách được quy định bởi chức năng, nhiệm vụ, phẩm chất, tri thức, điều kiện chính trị và điều kiện sống của người lãnh đạo.Phong cách lãnh đạo là khái niệm rộng hơn khái niệm phương pháp, cách thức, biện pháp. Phong cách lãnh đạo là cái chung, biểu hiện thông qua các phương pháp, cách thức và biện pháp, đồng thời phản ánh các phẩm chất bên trong của con người, phản ánh tư tưởng, đạo đức, năng lực, tính cách, sở trường của người lãnh đạo. Có một số yêu cầu trong phong cách lãnh đạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hay nhắc tới, đó là: phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán, lãnh đạo sâu sát, khéo dùng người, trọng dụng người tài, cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo.

Phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải “gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống.Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, làm nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó.Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó đúng hay không.Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành. Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước. Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt”.

Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cải cách tổ chức, bộ máy nhà nước và nhiều công việc khác, cần phải thực hành cách liên kết sự lãnh đạo với quần chúng và “liên kết chính sách chung với sự chỉ đạo riêng”, tức là vận dụng quan điểm, đường lối chung phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.Theo Người, như vậy mới thật là biết lãnh đạo, quản lý.

Phong cách lãnh đạo dân chủ thì phải dựa vào quần chúng; là cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu không được quan liêu, hách dịch, coi thường quần chúng nhân dân. Phải biết đời sống thực của nhân dân như thế nào, khả năng thực của nhân dân ra sao? Họ đang nghĩ và đang mong muốn những gì? Mỗi lời nói, mỗi việc làm của người cán bộ phải phù hợp với quần chúng, phản ánh đúng được khát vọng của quần chúng. Cán bộ phải biết được những băn khoăn trăn trở của dân để kịp thời uốn nắn và tháo gỡ cùng dân.

Người phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ không dân chủ, dẫn đến tình trạng người có ý kiến không dám nói, người muốn phê bình không dám phê bình, làm cho cấp trên cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau, không còn sáng kiến, không còn hăng hái trong khi làm việc. Người chỉ rõ: “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế chẳng những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng.

Nếu cán bộ không nói năng, không để ý kiến, không phê bình, thậm chí tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản”.

Người đòi hỏi phải có phong cách làm việc thực sự dân chủ chứ không phải giả tạo, hình thức để che lấp ý đồ xấu của cá nhân. Bởi vì mọi sự giả tạo đều làm suy yếu, thậm chí phá vỡ tập thể, mọi thói hình thức chủ nghĩa sớm muộn sẽ làm xói mòn, thậm chí triệt tiêu dân chủ.

Cán bộ lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu, là người có trọng trách trong một tập thể, vừa phải thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến của tập thể, đồng thời, phải quyết đoán, nhận thức đầy đủ trách nhiệm và dám ra quyết định, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đây cũng chính là việc thực hiện nghiêm nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.

Theo Hồ Chí Minh, một người dù tài giỏi đến đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề, cũng không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã hội. Cho nên, cần phải có cách làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của tập thể, của đông đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của một tập thể, một đơn vị hay địa phương mà nếu chỉ riêng người cán bộ lãnh đạo, quản lý thì không làm nổi. Tập thể lãnh đạo là dân chủ.

Cá nhân phụ trách là nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, người quản lý. Có ý thức tập thể cao, tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng không có tính quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những quyết định kịp thời, đáp ứng yêu cầu và công việc cũng không thể tiến triển được. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý rằng: “Những việc bình thường, một người có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định”.

Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, thực hiện trách nhiệm của người lãnh đạo, người đứng đầu để khắc phục những hiện tượng coi thường tập thể, hoặc ngược lại, dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, không dám quyết đoán, không nêu cao trách nhiệm cá nhân… làm trì trệ, suy yếu năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý của người cán bộ lãnh đạo.

Lãnh đạo sâu sát sẽ nâng cao được tính khách quan, minh bạch, tăng cường được công tác kiểm tra, giám sát, từ đó kiểm soát tốt hơn đối với việc thực thi quyền lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng tài sản của Nhà nước, của nhân dân, góp phần phòng chống tham nhũng có hiệu quả. Hồ Chí Minh yêu cầu dựa vào quần chúng nhân dân để giám sát, kiểm tra, nhằm loại trừ các hành vi trục lợi, ăn cắp, tham ô, đục khoét, biến của công thành của riêng…

Theo Hồ Chí Minh, sau khi nghị quyết đã được ban hành, phải tổ chức tốt việc thực hiện để nghị quyết đi vào cuộc sống. Điều đó gắn liền với công việc kiểm tra, giám sát. Muốn tốt, “phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Theo Người, sở dĩ sự thật còn bị bưng bít vì sự kiểm tra, giám sát của các ngành, các cấp, không nghiêm túc, chưa chặt chẽ.

Sau kiểm tra, giám sát, thì cái sai cần khắc phục, sửa chữa ngay và cái đúng, cái tốt phải được động viên khen thưởng, kịp thời, vì khen thưởng đúng người, đúng việc, đúng lúc sẽ động viên, giáo dục, thúc đẩy người lao động hăng say làm việc. Người yêu cầu nhanh chóng biểu dương những tấm gương người tốt, việc tốt, động viên khuyến khích bằng vật chất hoặc tinh thần, nhằm phát triển cái tốt để chống lại cái xấu, vì mục tiêu xây dựng con người mới, làm cho xã hội ngày một tiến bộ. Mỗi khi đọc trên báo chí, thấy tấm gương “người tốt, việc tốt” nào, nhất là những người đi đầu khởi xướng phong trào, Người liền cử cán bộ đi xác minh và tặng “Huy hiệu Bác Hồ” cho người có thành tích xứng đáng. Cả nước có khoảng 5.000 người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng “Huy hiệu Bác Hồ” qua phong trào “Người tốt, việc tốt”. Những ai được nhận “Huy hiệu Bác Hồ” đều tự hào kể lại những mẩu chuyện cảm động khi nhận phần thưởng cao quý này. Quan trọng hơn nữa, những phần thưởng đó, sau này trở thành bài học nêu gương cho các thế hệ con cháu họ.

Hồ Chí Minh từng yêu cầu: “Tôi ra lệnh cho Bộ Tổng tư lệnh mau chóng khen thưởng những đơn vị và những chiến sĩ đã lập nhiều chiến công oanh liệt”. Trong “những việc cần phải làm ngay” gửi cán bộ, chiến sĩ tỉnh Hòa Bình, Lào Cai, Người nhắc nhở: “Xét kỹ và báo cáo những đơn vị và cá nhân có công trạng đặc biệt để Chính phủ khen thưởng”, “vì khen thưởng khuyến khích rất nhiều, vì khen thưởng là tổng kết và phổ biến kinh nghiệm ra cho mọi ngành hoạt động”, “vì khen thưởng cũng là một cách giáo dục và cổ động. Bộ đội, đồng bào có thành tích mà Trung ương, Chính phủ khen thưởng thì mới hăng hái hơn và những người chưa có thành tích sẽ thi đua tích cực. Từ trước đến nay địa phương rất ít báo cáo, bây giờ các cô, các chú phải tích cực làm”.

Người xác định, việc dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng người, đúng việc, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn” và phải cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải phụ trách. Dùng người mà không đúng công việc sẽ không chạy, không được việc, làm thui chột nhân tài, có hại cho Đảng và cũng thể hiện sự yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng.Người cho rằng, vì “cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải biết trọng dụng nhân tài, nếu không sẽ làm “thui chột” nhân tài. Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trọng dụng nhân tài phải biết tuỳ tài mà dùng người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”. Bởi vậy, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, trong lúc còn bộn bề khó khăn, thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm tìm người tài để xây dựng đất nước và Người chính là tấm gương sáng cho việc tìm nhân tài và trọng dụng nhân tài. Ngày 14/11/1945, trên báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Người chủ trương phải “tìm người tài đức”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một quốc gia, một đất nước không biết sử dụng nhân tài là một khuyết điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và Nhà nước trong xây dựng và kiến thiết.

Nhiệt tình cách mạng là yếu tố cơ bản trong phẩm chất của người cán bộ đứng đầu, người lãnh đạo. Vì có nhiệt tình cách mạng, người cán bộ lãnh đạo mới say mê, tận tuỵ với công việc để tìm ra những phương án sáng tạo nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Tính cách mạng, lòng yêu nước, thương dân là động lực lớn thôi thúc người lãnh đạo, quản lý chuyên tâm, lo toan, tận tuỵ, say mê với công việc. Đồng thời, người lãnh đạo phải có sự tìm tòi sáng tạo, đề xuất được những ý kiến hay, những phương án tối ưu để thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ lãnh đạo, phải là những người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có đạo đức cách mạng, có tinh thần anh dũng, gương mẫu, chịu đựng gian khổ, hy sinh và có năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao.

Hồ Chí Minh cho rằng, tính khoa học phải được đảm bảo bằng tri thức khoa học. Nhiệt tình cách mạng chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi nó được thống nhất với các tri thức khoa học và trên cơ sở khoa học. Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu tri thức khoa học. Thực tiễn cho thấy, có nhiệt tình mà thiếu tri thức khoa học sẽ dẫn tới sai lầm, chệch hướng, làm hỏng đường lối, chính sách, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá hoại vô ý thức. Những chương trình, dự án, kế hoạch với những ý tưởng tốt đẹp, nhưng do thiếu tri thức dẫn đến thất bại, gây ra tổn thất nặng nề.

Để có tri thức khoa học, người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải chịu khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ về chính trị, văn hoá, nghiệp vụ cũng như nắm được tình hình trong và ngoài nước. Chủ quan, tự mãn, ít nghiên cứu lý luận và thực tiễn nên gặp thuận lợi dễ lạc quan, gặp thành công sớm dễ mắc phải căn bệnh kiêu ngạo; khi gặp khó khăn thì dễ lúng túng, bị động, dẫn đến bi quan, dao động, lập trường cách mạng không vững… Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ đảng viên nói chung, nhất là với cán bộ lãnh đạo: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.

Học tập, nghiên cứu, “học và hành” theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm. Cán bộ, đảng viên cần phải có lý luận lãnh đạo cần nắm chắc lý luận mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”, “làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”.

Khẳng định vai trò của lý luận, Hồ Chí Minh chỉ rõ sự cần thiết phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn trong công tác lãnh đạo. Vì: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”, nên lý luận mà xa rời thực tiễn thì sớm muộn sẽ dẫn tới bệnh giáo điều, sách vở, nên người cán bộ lãnh đạo phải nắm chắc lý luận, đồng thời qua kinh nghiệm làm việc, phải hiểu rõ sự vận động của các quan điểm lý luận trong thực tiễn, qua đó dự báo được những biến đổi của tình hình, của nhiệm vụ cách mạng, từ đó mới có thể thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.

Một trong những yêu cầu về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu là phải nắm chắc lý luận, nhưng không được “lý luận suông”, mà phải có năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn ở nước ta”. Người chủ trương “phải gắn lý luận với công tác thực tế”. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng một mặt phải xuất phát từ tình hình cụ thể,giải thích cho quần chúng hiểu và thực hiện các chủ trương, chính sách đó như thế “lý luận mới không tách rời thực tế”.

Trong mọi công tác, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, người lãnh đạo có thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, cần có sự vững vàng, không thay đổi trong những vấn đề thuộc về nguyên tắc, đó là những vấn đề có tính chiến lược, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là “bất biến, phải giữ vững như sắt đá”.

Cùng với kiên định về nguyên tắc, những vấn đề chiến lược, thì sách lược cách mạng, các hình thức, phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành phải mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với thực tế để có thể đạt kết quả cao nhất. Điều đó thuộc về bản lĩnh của người lãnh đạo, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến”, thể hiện sự linh hoạt trong hoạt động lãnh đạo của mình.

Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu đặt ra phải được cụ thể trong từng giai đoạn. Tính bất biến, mục tiêu trong tất cả các giai đoạn của cách mạng là độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong bản Di chúc, Người nói lên mong muốn cuối cùng, cũng là mục tiêu chung của cuộc cách mạng là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Tuy nhiên, con đường đi đến mục tiêu đó là con đường đấu tranh lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ. Người đứng đầu, người lãnh đạo cần sáng suốt, tỉnh táo, nhạy bén để xác định sách lược, hình thức, biện pháp thực hiện trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể, trong mỗi bước đi, mỗi bước tiến lên của cách mạng.

Những nội dung xây dựng phong cách lãnh đạo nêu trên không nằm ngoài những quy định chung trong phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên, đồng thời, có yêu cầu cao hơn, thể hiện vị trí, vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trên cương vị lãnh đạo./.

Xây Dựng Phong Cách Lãnh Đạo Của Người Đứng Đầu Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Xây dựng phong cách người đứng đầu là vấn đề đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, nhất là khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Nội dung này được Người đề cập rõ trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, ra đời cách đây hơn 70 năm; trong đó nhấn mạnh: “Phải sửa đổi lối làm việc của Đảng”(1). Đây chính là cách thức tốt nhất để phòng, chống nguy cơ suy thoái của Đảng khi trở thành Đảng cầm quyền. Bởi lẽ, những khuyết điểm, sai lầm, trong đó có sai lầm về phong cách lãnh đạo của người đứng đầu chính là kẻ địch bên trong, còn nguy hiểm hơn kẻ địch bên ngoài. Mặt khác, nếu các tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên nhất là người đứng đầu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, thì cũng như người “giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mệnh”(2).

Xây dựng phong cách lãnh đạo của người đứng đầu theo tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn diện, trong đó cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau:

Một là, xây dựng phong cách kết hợp giữa nhiệt tình cách mạng với tính khách quan, khoa học. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo, quản lý trước hết phải có nhiệt tình cách mạng, bởi đây là yếu tố cơ bản, động lực cho mọi hành động. Tuy nhiên, nhiệt tình cách mạng chỉ phát huy hiệu quả khi nó tuân theo các quy luật khách quan và kết hợp chặt chẽ với tri thức khoa học. Không khách quan, khoa học thì nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí, dẫn tới thực hiện sai đường lối, chính sách, hành động trái quy luật, làm cản trở bước tiến của cách mạng. Nhiệt tình cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ có hiệu quả khi họ thực sự am hiểu và có vốn kiến thức phong phú, sâu rộng về công việc, lĩnh vực mà mình phụ trách. Tri thức khoa học được hình thành trong quá trình học tập, nghiên cứu, lăn lộn với thực tế, đời sống để không ngừng thu thập kiến thức, kỹ năng, nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cũng như bồi dưỡng nhạy cảm chính trị trước những diễn biến mới của cách mạng và tình hình thế giới. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hóa, tri thức và chính trị của mình”(3).

Tác phong khoa học là yếu tố đầu tiên, tiền đề căn bản để xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu. Phong cách, tác phong khoa học của người đứng đầu cũng như của cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng, tạo nền tảng để hình thành cách lãnh đạo đúng đắn, khoa học và sáng tạo, không rập khuôn, máy móc. Từ đó, có sự chỉ đạo đúng đắn trong công việc, cách nhìn nhận và đánh giá đúng con người, sử dụng đúng người, đúng việc, trọng dụng người tài. Phong cách khoa học gồm các tiêu chí: Phải có thói quen điều tra, nghiên cứu, khảo sát, thâm nhập vào đời sống thực tiễn; xác định rõ mục tiêu công tác, lộ trình, bước đi, biện pháp thích hợp; kiên định về nguyên tắc, mục tiêu nhưng linh hoạt về phương pháp; tích cực kiểm tra, giám sát, kiểm soát, tổng kết, rút kinh nghiệm.

Hai là, xây dựng tác phong dân chủ nhưng quyết đoán. Hồ Chí Minh khẳng định: Chế độ ta là chế độ dân chủ, vì “dân là chủ”, nên cách lãnh đạo cũng phải dân chủ. Dân chủ trong Đảng là tất cả đảng viên đều được tự do bày tỏ chính kiến trong sinh hoạt đảng để thống nhất về quan điểm, chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng nghị quyết. Phong cách dân chủ thể hiện ở việc người đứng đầu cần lưu ý bàn bạc, trao đổi, lắng nghe ý kiến trong triển khai thực hiện nhiệm vụ, nhất là ý kiến phản biện trái chiều. Dân chủ nhưng phải tập trung và luôn luôn phòng tránh căn bệnh dân chủ hình thức; dân chủ tập trung để không dẫn đến độc đoán, chuyên quyền. Cán bộ lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu, người có trọng trách trong một tập thể, vừa phải thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến của tập thể; đồng thời, phải quyết đoán, nhận thức đầy đủ trách nhiệm và dám ra quyết định, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ không dân chủ, dẫn đến tình trạng người có ý kiến không dám nói, người muốn phê bình không dám phê bình, làm cho cấp trên, cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau, không còn sáng kiến, không còn hăng hái trong khi làm việc. Trong quá trình làm việc, người lãnh đạo, quản lý có ý thức tập thể cao, tạo ra bầu không khí làm việc dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng không có tính quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những quyết định kịp thời, đáp ứng yêu cầu và công việc cũng không thể tiến triển được. Đồng thời, lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý là những việc bình thường, một người có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết. Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định. Người cho rằng, trách nhiệm và tính quyết đoán của người đứng đầu phải luôn được đề cao, đôi khi mang tính quyết định đến hiệu quả công việc. Người lãnh đạo giỏi cần có cách làm việc dân chủ, tập thể, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể; đồng thời, phải quyết đoán đưa ra những quyết sách đúng trong những thời điểm quyết định.

Ba là, xây dựng phong cách lãnh đạo luôn sâu sát cơ sở, gần gũi với quần chúng. Làm việc sâu sát, đi vào thực tế, hòa mình với quần chúng để thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý là vấn đề có tính nguyên tắc xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Đối với Hồ Chí Minh, người cán bộ lãnh đạo biết lắng nghe, thấu hiểu và phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo của quần chúng sẽ đoàn kết, quy tụ được nhân dân, tạo nên động lực và sức mạnh to lớn để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Hồ Chí Minh là điển hình về phong cách lãnh đạo sâu sát, gần gũi với quần chúng nhân dân. Trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1955 – 1965), theo thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh, Người đã thực hiện hơn 700 lượt đi thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Trung bình mỗi năm có hơn 60 lượt Người đi xuống cơ sở, mỗi tháng có khoảng 6 lần lãnh tụ gặp gỡ quần chúng. Ngoài ra, hằng ngày qua đọc báo, đọc thư của nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần tiếp thu, những việc gấp cần giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại, chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết.

Người lãnh đạo, người đứng đầu phải có phong cách quần chúng, phải luôn hòa đồng với quần chúng, học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng. Chỉ trên cơ sở sâu sát quần chúng, người cán bộ lãnh đạo mới biết đời sống thực, khả năng thực của quần chúng, biết được những mong muốn, băn khoăn trăn trở của nhân dân để kịp thời uốn nắn và tháo gỡ cùng nhân dân. Lãnh đạo sâu sát quần chúng sẽ nâng cao được tính khách quan, minh bạch, tăng cường được công tác kiểm tra, giám sát, từ đó kiểm soát tốt hơn đối với việc thực thi quyền lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng tài sản của Nhà nước, của nhân dân, góp phần phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.

Bốn là, xây dựng phong cách nêu gương, nói đi đôi với làm. Gương mẫu, nêu gương, nói đi đôi với làm là một nội dung không thể thiếu đối với người đứng đầu. Người lãnh đạo, người đứng đầu phải tiên phong trong mọi công việc; dám nói, dám làm và dám chịu trách nhiệm, đồng thời giữ được cốt cách tốt, không tha hóa. Nêu gương không chỉ hô khẩu hiệu, không chỉ là lời nói suông mà chủ yếu là hành động, nói ít, làm nhiều. Muốn tiến hành tốt các nội dung nêu gương, người lãnh đạo, người đứng đầu phải luôn thực hiện nói đi đôi với làm. Ðây là nguyên tắc trước hết, cực kỳ quan trọng của việc nêu gương. Thực tế cho thấy, người cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu nói nhiều làm ít, hoặc nói một đằng làm một nẻo, hay nói mà không làm thì không ai tin, sẽ mất uy tín trước quần chúng, trước cấp dưới. Chỉ có nhất quán giữa lời nói và việc làm thì người cán bộ, đảng viên, người đứng đầu mới có được sự tin yêu của tập thể, quần chúng, của cấp dưới.

Người đứng đầu làm gương là phải biết hy sinh lợi ích, quyền lợi cá nhân, hy sinh phần thưởng. Trong điều hành, làm gương là dám nói, dám làm và dám chịu trách nhiệm, đặc biệt là dám trình bày những ý tưởng mới, những đột phá và dám chịu trách nhiệm về những ý tưởng mới của mình. Làm gương trong sinh hoạt là lời nói phải chuẩn mực, rõ ràng, dứt khoát, không nửa vời, nước đôi, tạo ra những chuẩn giá trị của người lãnh đạo.

Năm là, xây dựng phong cách khéo dùng người, trọng dụng người tài. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ và chính cách sử dụng cán bộ của Người là mẫu mực của việc “khéo dùng người, trọng dụng nhân tài”. Người nhấn mạnh đến việc phải chủ động phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Trọng dụng nhân tài là công việc thường xuyên, liên tục; phải tùy tài mà dùng người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”(4). Việc dùng người phải đúng năng lực và sở trường, bởi lẽ: “Chúng ta phải nhớ rằng: người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được”(5). Dùng người mà không đúng, công việc sẽ không chạy, không được việc, làm thui chột nhân tài, có hại cho Đảng và cũng thể hiện sự yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải biết trọng dụng nhân tài, nếu không sẽ làm “thui chột” nhân tài. Đồng thời, phải có gan cất nhắc cán bộ, cất nhắc những người có tài, có đức để họ được cống hiến cho Đảng, cho cách mạng và nhân dân. Người cho rằng, một quốc gia, một đất nước không biết sử dụng nhân tài là một khuyết điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và Nhà nước trong xây dựng và kiến thiết.

Xây dựng phong cách lãnh đạo của người đứng đầu theo tư tưởng Hồ Chí Minh không nằm ngoài những quy định chung trong phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên; đồng thời, có yêu cầu cao hơn, thể hiện vị trí, vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trên cương vị lãnh đạo, quản lý. Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh là bài học quý để mỗi cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập, nhằm không ngừng hoàn thiện mình, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

1. Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 272.

2, 3. Sđd, Tập 5, tr. 273, 293.

4. Sđd, Tập 4, tr. 43.

5. Sđd, Tập 5, tr. 88.

Đại tá, ThS. Đinh Xuân Thủy, Học viện Lục quân Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử

Học Và Làm Theo Bác Về Phong Cách Lãnh Đạo Dân Chủ

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ. Phong cách lãnh đạo là yếu tố đặc biệt quan trọng cấu thành phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, vì vậy, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có phong cách lãnh đạo dân chủ là một nội dung quan trọng để đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở rèn luyện đạo đức, phong cách người lãnh đạo, thiết thực hoàn thành nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó.

1. Phong cách dân chủ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo, quản lý, nhất là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cơ sở. Trong mọi hoàn cảnh, tinh thần ấy phải thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của mỗi người, góp phần khơi dậy sự tham gia nhiệt tình và những đóng góp sáng tạo của quần chúng trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương, cơ quan, đơn vị. Theo đó, thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề, vì: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”.

Theo Hồ Chí Minh, phong cách lãnh đạo dân chủ chính là mỗi người cán bộ lãnh đạo không phải đứng trên tập thể mà phải gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể; không bao giờ đặt mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức mà luôn luôn tranh thủ bàn bạc với tập thể để có được quyết định chính xác và kịp thời nhất. Vì “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi, cũng là một nghĩa vụ của mọi người”[1], nên người cán bộ lãnh đạo phải biết động viên, khuyến khích để cho cấp dưới “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, tức là để cấp dưới không sợ nói sự thật và cấp trên không sợ nghe sự thật.

Người lãnh đạo muốn có phương pháp lãnh đạo tốt, có phong cách gần gũi quần chúng cần phải mở rộng dân chủ để phát huy sức mạnh của tập thể, vì đề ra chủ trương, nghị quyết đã khó nhưng người thực hiện là tập thể, là quần chúng. Do đó, có dân chủ, bàn bạc tập thể mới cùng thông suốt, nhất trí để cùng quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị; tránh được hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”; tránh được sự mất đoàn kết vì sự chuyên quyền, độc đoán, áp đặt chủ quan…

Phong cách lãnh đạo dân chủ phải được thể hiện từ việc lớn cho đến việc nhỏ, ở tất cả các lĩnh vực; trong đó, người cán bộ lãnh đạo phải nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó và tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách theo tinh thần: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách, tức là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung“[2]. Theo Hồ Chí Minh, “lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”[3], để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”[4]. Muốn làm được như vậy, phải đề cao vai trò của tập trung, thực hiện tập trung trong Đảng để tạo sự thống nhất ý chí và hành động, tạo thành sức mạnh lãnh đạo to lớn trong tiến trình cách mạng. Cùng với tập trung, cũng luôn phải chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, làm cho Đảng tập trung được trí tuệ, tăng cường sức mạnh lãnh đạo của Đảng.

Người cán bộ lãnh đạo không có phong cách làm việc dân chủ mà độc đoán, chuyên quyền sẽ dẫn đến kìm hãm tính tích cực, sáng tạo của đảng viên và nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từn nói, trong thực tế, chúng ta đã ra sức kêu gọi phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái, nhưng đến nay, cán bộ và đảng viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái. Đó là vì lẽ gì? “Vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: Cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách công tác của ta không được tích cực. Nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế”…

Người cán bộ lãnh đạo thấu triệt những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo dân chủ thường không quyết định mọi việc theo ý kiến chủ quan của mình mà luôn mở rộng dân chủ, tranh thủ, động viên mọi người tham gia vào các quyết định khi tiến hành quản lý, điều hành và giải quyết các nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, trong công tác lãnh đạo, luôn thực hiện phân quyền phù hợp, không ôm đồm, không chỉ góp phần tạo sự đoàn kết, nhất trí trong tổ chức mà còn giúp cấp dưới chủ động trong việc thi hành công tác; tạo điều kiện để cán bộ, nhân viên trong tập thể có cơ hội phát huy sáng kiến, năng động, sáng tạo, do đó, tinh thần làm việc được nâng cao, nhằm “đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân”…

2. Suốt cuộc đời mình và nhất là trong gần một phần tư thế kỷ ở vị thế một nguyên thủ quốc gia, nhưng không khi nào Hồ Chí Minh đặt mình ở trên nhân dân, ở xa nhân dân và không lắng nghe ý kiến của nhân dân, dù được nhân dân suy tôn là “Cha già dân tộc”. Người là tấm gương mẫu mực của phong cách lãnh đạo dân chủ, luôn thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Dù là người đứng đầu Đảng và Nhà nước nhưng Người luôn tôn trọng ý kiến tập thể, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân trong công việc; tự phê bình, nhận trách nhiệm trước Đảng, Quốc hội và nhân dân khi có khuyết điểm. Phong cách lãnh đạo dân chủ của Người thể hiện nhất quán, theo nguyên tắc: “Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau, miễn là được việc”[5] và “cách làm việc, cách tổ chức… của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng“[6].

Để có phong cách dân chủ trong công tác, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải thường xuyên hướng về cơ sở, tiếp xúc với quần chúng, nắm tâm tư, nguyện vọng và thật sự quan tâm tới đời sống mọi mặt của quần chúng; đồng thời phải tin yêu, tôn trọng quần chúng, lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình xây dựng của quần chúng. Người yêu cầu mỗi cán bộ không chỉ giáo dục, cổ vũ, động viên quàn chúng nhiệt tình tham gia các phong trào thi đua, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…mà còn phải học hỏi quần chúng và nêu gương cho quần chúng noi theo. Song trong khi lắng nghe, phải thấm nhuần nguyên tắc “học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng”[7], “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”[8]. Trong khi làm việc với quần chúng cần phải nắm vững tình hình, có phân loại quần chúng, để từ đó có biện pháp làm việc hiệu quả, phát huy được những ưu điểm, hạn chế được những nhược điểm của bản thân quần chúng.

3. Thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Để đáp ứng yêu cầu và tình hình nhiệm vụ mới, hơn bao giờ hết, đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp càng phải thấm nhuần những chỉ dẫn của Người về rèn luyện đạo đức và phong cách người lãnh đạo.

Trong đó, cấp ủy đảng các cấp phải chú trọng thường xuyên việc giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tập thể cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng viên về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thực hiện dân chủ trong sinh hoạt Đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo Điều lệ Đảng. Tiếp tục phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của người cán bộ lãnh đạo trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Phát huy tinh thần dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị; khắc phục tình trạng dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể hoặc độc đoán, chuyên quyền khi quyết định những vấn đề quan trọng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng phải gương mẫu trong thực hiện tự phê bình và phê bình trên tinh thần “có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn; kiên quyết phê phán các hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; phòng và chống các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Thực hiện nghiêm chế độ lãnh đạo, thường xuyên kiểm tra, giám sát để nâng cao chất lượng công tác; kịp thời xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng vi phạm kỷ luật trong công tác lãnh đạo, điều hành, vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm; ngăn chặn, khắc phục các khuyết điểm, sai phạm của cán bộ, đảng viên, nhất là biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, độc đoán, chuyên quyền gây mất đoàn kết nội bộ. Bên cạnh đó, kịp thời lựa chọn, bồi dưỡng và nhân rộng những tấm gương điển hình tiên tiến của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo sự lan tỏa trong địa phương, cơ quan, đơn vị và cộng đồng.

Phong cách không có sẵn, không phải là bẩm sinh mà là nét đặc sắc, đặc trưng riêng và là sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Nét đặc sắc đó, sự sáng tạo đó chỉ có được thông qua quá trình học tập và rèn luyện thực sự nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao của mỗi người. Mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng thấu triệt trong học tập và làm theo phong cách dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên, hằng ngày; được thực hiện gương mẫu từ chính bản thân mình; coi đó là bổn phận, danh dự của chính mình, sẽ thiết thực góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp vừa hồng, vừa chuyên, tận tâm tận lực với nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, gắn bó mật thiết với nhân dân./.

                                                                                                                            Nguồn: www.tuyengiao.vn-HT

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Nxb Chính trị quốc gia, H,2002, t.8, tr.216

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2002, t.5, tr.505

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2002, t.5, tr.505

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H,2002, t.5, tr.553

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2002, t.5, tr.246

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2002, t.5, tr.248

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2002, t.5, tr.293

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2002, t.5, tr.297

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2002, t.5, tr.108