Hiệu Quả Tu Từ Của Biện Pháp Điệp Ngữ Trong Thơ Ngô Văn Phú
--- Bài mới hơn ---
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Có thể nói điểm độc đáo nhất của văn học, đưa văn học thoát khỏi hình
thái nghệ thuật nguyên hợp ban đầu, phát triển độc lập bên cạnh các nghệ
thuật khác như: âm nhạc, hội họa, điện ảnh… là ở chỗ văn học phản ánh hiện
thực cuộc sống bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là phương tiện, chất liệu, là
đối tượng để nhà văn xây dựng hình tượng, tái hiện sinh động hiện thực cuộc
sống trong tác phẩm. Đồng thời, ngôn ngữ trong tác phẩm cũng là phương
tiện để chuyển tải những tư tưởng, tình cảm của nhà văn trước hiện thực cuộc
sống.
Bakhtin trong “Mấy vấn đề thi pháp của Đôxtôiépxki” khẳng định:
“Ngôn ngữ chẳng những là phương tiện miêu tả, mà còn là đối tượng miêu tả
của văn học” .
Cũng trong giáo trình này, tác giả Đinh Trọng Lạc phân chia thành 5
kiểu điệp ngữ cơ bản đó là:
– Lặp lại từ ở đầu câu văn.
– Lặp lại từ ở cuối câu văn.
– Lặp lại từ ở giữa câu văn.
– Lặp vòng tròn.
– Lặp cách quãng.
Ông xếp điệp ngữ vào loại các biện pháp tu từ cú pháp và khẳng định:
“Những cách điệp từ là những cách trùng điệp tiêu biểu nhất trong phạm vi
cú pháp” .
Tác giả Trần Ngọc Thêm cũng xác định rằng: “Lặp từ vựng là phương
thức liên kết phổ biến nhất trong văn bản”. Đồng thời, tác giả đưa ra các tiêu
chí phân loại phép lặp như sau:
Sv: Nguyễn Thị Hiền
8
K32B – Ngữ Văn
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
– Căn cứ cách thức lặp chủ tố và căn tố, có thể chia lặp từ vựng thành
lặp từ và lặp cụm từ. Đồng thời cụm từ lại bao gồm: lặp hoàn toàn và lặp bộ
phận.
– Căn cứ vào bản chất từ loại của chủ tố và lặp tố có thể chia thành: lặp
cùng từ loại, và lặp chuyển từ loại.
– Căn cứ vào chức năng làm thành phát ngôn của chủ tố và lặp tố, có
thể chia thành: lặp cùng chức năng hoặc lặp chuyển chức năng.
2.2.2. Cũng đề cập đến các phương thức liên kết câu trong văn bản, tác giả
Diệp Quang Ban, trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” Nxb Giáo dục, 2005, đã
đưa ra năm phép liên kết cơ bản sau:
– Phép quy chiếu.
– Phép thế.
– Phép tỉnh lược.
– Phép nối.
– Phép liên kết từ vựng.
Trong đó, phép liên kết từ vựng gồm ba phép nhỏ: lặp từ ngữ dùng từ
đồng nghĩa, gần nghĩa và trái nghĩa, phối hợp từ ngữ.
Điệp ngữ được đề cập đến trong phép lặp từ ngữ của phương thức liên
kết từ vựng.
Ông cho rằng, phép liên kết từ vựng là: “Lựa chọn những từ ngữ có
quan hệ như thế nào đó với những từ ngữ đã có trước, và trên cơ sở đó làm
cho câu chứa từ ngữ có trước với câu chứa từ ngữ mới được chọn này liên kết
với nhau”
Sv: Nguyễn Thị Hiền
9
K32B – Ngữ Văn
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
Sv: Nguyễn Thị Hiền
10
K32B – Ngữ Văn
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
Tiếp tục vấn đề này, sinh viên Trần Thị Minh Yến, K31 – Ngữ văn,
ĐHSP Hà Nội 2, tìm hiểu “Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ
lục bát hiện đại Đồng Đức Bốn”.
Liệt kê một số công trình nghiên cứu khoa học về phép điệp từ ngữ của
một số tác giả trên để thấy rằng nghiên cứu về vấn đề này không phải là mới
mẻ. Song có thể nói điệp ngữ là biện pháp tu từ quan trọng, có khả năng tạo ra
hiệu quả tu từ đặc biệt trong thơ văn.
2.3.2. Về tác giả Ngô Văn Phú và việc nghiên cứu tác phẩm của ông
Ngô Văn Phú là tên thật cũng chính là bút danh. Ông là một tác giả tiêu
biểu của văn học Việt Nam cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, thành viên xuất
sắc của hội nhà văn Việt Nam với trên 220 đầu sách bao gồm nhiều thể loại:
thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, biên khảo, dịch thuật. Tuy tác phẩm của Ngô
Văn Phú chưa được đưa vào giảng dạy trong nhà trường nhưng tên tuổi của
ông được nhiều người trong giới phê bình khẳng định. Độc giả biết đến ông
trước hết là một nhà thơ – một nhà thơ tiếp nối mạch thơ chân quê của Đoàn
Văn Cừ và Nguyễn Bính.
Tìm hiểu thơ Ngô Văn Phú, các tác giả quan tâm nhiều đến phương
diện nội dung trong thơ của ông.
Trong “Tuyển tập thơ Ngô Văn Phú”, Nxb Hội nhà Văn, 1997, tác giả
Nguyễn Hoành Sơn đã tìm hiểu nội dung thơ Ngô Văn Phú với đề tài “Ngô
Văn Phú – Dấu ấn quê mùa trên thi đàn”.
Tác giả Ngô Quân Miện, Nxb Hội nhà Văn, 1997, khai thác “Tâm hồn
đồng nội trong thơ Ngô Văn Phú”.
Cũng tìm hiểu nội dung thơ Ngô văn Phú tác giả Đinh Nam Khương có
bài viết “Tìm về tán cọ xanh”
Qua định nghĩa trên, chúng tôi muốn nhấn mạnh một số nội dung của
định nghĩa:
– Điệp ngữ là phép tu từ ngữ nghĩa.
– Điệp ngữ được các nhà sử dụng một cách có chủ định. Đó là việc sử
dụng các phương tiện ngôn ngữ theo hướng lặp lại từ hay cụm từ nhằm tạo
hiệu quả tu từ (nhấn mạnh nội dung thông báo, tạo nghĩa mới bất ngờ giàu
màu sắc tu từ học, tạo ra tính nhạc cho lời thơ, lời văn, đem lại thẩm mĩ cho
người đọc người nghe).
1.1.2. Các kiểu điệp ngữ trong tiếng Việt
Kế thừa có bổ sung quan điểm phân loại các kiểu điệp từ ngữ của tác
giả Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú (đã trình bày ở mục trước) chúng tôi chú ý
đến những kiểu điệp sau:
1.1.2.1. Điệp ngữ nối tiếp.
Điệp ngữ nối tiếp là dạng điệp, trong đó có những từ ngữ được lặp lại
trực tiếp đứng bên nhau, nhằm tạo nên ấn tượng mới mẻ, có tính chất tăng
tiến.
VD:
Đêm qua ra bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò mò nhìn nhau.
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồn nâu… Cánh buồm nâu… Cánh buồm…
(Vô đề – Nguyễn Bính)
1.1.2.2. Điệp ngữ cách quãng
Sv: Nguyễn Thị Hiền
15
K32B – Ngữ Văn
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
Điệp ngữ cách quãng là điệp ngữ trong đó những từ được lặp lại đứng
cách xa nhau nhằm gây một ấn tượng nổi bật và có tác dụng âm nhạc cao.
VD:
Chỉ mong người sống có tình
Cho sông hết lũ, cho mình vẫn ta
Cho sao thành dải ngân hà
Thương yêu chỉ biết thật thà thế thôi.
(Xéo gai anh chẳng sợ đau – Đồng Đức Bốn)
1.1.2.3. Điệp đầu
Điệp đầu là dạng điệp trong đó từ được lặp lại đứng ở đầu câu.
VD:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất?
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai?
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt?
(Ca dao)
1.1.2.4. Điệp đầu – cuối
Điệp đầu – cuối là kiểu điệp trong đó các từ được điệp đứng ở đầu và
cuối câu thơ, đoạn thơ hoặc bài thơ.
VD:
Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
(Tre xanh – Nguyễn Duy)
1.1.2.5. Điệp cuối – đầu
Điệp cuối – đầu là kiểu điệp trong đó các từ được điệp lại ở cuối câu thơ
trước và đầu câu thơ sau.
Sv: Nguyễn Thị Hiền
16
K32B – Ngữ Văn
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
VD:
Lá ngô lay ở bờ sông,
Bờ sông vẫn gió, người chưa thấy về.
(Bờ sông vẫn gió – Trúc Thông)
1.1.2.6. Điệp hỗn hợp
Điệp hỗn hợp là kiểu điệp trong đó sử dụng nhiều cách điệp khác nhau
trong một đoạn văn bản.
VD:
Làm trời trời phải có sao
Làm sông sông cứ dạt dào phù sa
Làm đất đất phải nở hoa
Làm tôi buồn cái người ta vẫn buồn.
Từ đâu mà nước có nguồn
Mà kim đã chỉ phải luồn vào nhau
Đã trầu là phải có cau
Từ đâu mà phải vàng thau rạch ròi
Đã cho thì không được đòi
Đã biển phải biết sông ngòi làm nên
(Về lại chốn xưa – Đồng Đức Bốn)
1.1.2.7. Điệp theo kiểu diễn đạt
Điệp theo kiểu diễn đạt là kiểu điệp nhằm diễn tả một dụng ý nào đó
của tác giả.
VD:
Ước gì anh hóa ra hoa,
Để em nâng lấy rồi mà cài khăn
Ước gì anh hóa ra chăn,
Để cho em đắp, em lăn cùng giường.
Sv: Nguyễn Thị Hiền
17
K32B – Ngữ Văn
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
Ước gì anh hóa ra gương
Để cho em cứ ngày thường em soi.
(Ca dao)
1.1.2.8. Điệp vòng tròn
Điệp vòng tròn là một dạng điệp ngữ có tác dụng tu từ lớn. Chữ cuối
câu trước được láy lại thành chữ ở đầu câu sau và cứ thế làm cho câu văn, câu
thơ liền nhau như đợi sóng, diễn tả một cảm giác triền miên
VD:
Thu về gọi gió heo may
Heo may lá đã vàng cây ngô đồng.
Ngô đồng thả lá theo sông
Sông ơi, có thấp thỏm mong thu về.
(Biến tấu ca dao – Đỗ Bạch Mai)
1.1.3. Giá trị tu từ của điệp ngữ.
“Giá trị tu từ” (màu sắc tu từ, sắc thái tu từ) là khái niệm phong cách
học chỉ phần thông tin có tính chất bổ sung bên cạnh phần thông tin cơ bản
của một thực từ. Nói cách khác đó là khía cạnh biểu cảm – cảm xúc của ý
nghĩa của từ (diễn đạt những tình cảm, sự đánh giá những ý định), bên cạnh
khía cạnh sự vật lôgic của ý nghĩa [10, 57-58].
Theo tác giả Đinh Trọng Lạc, giá trị tu từ của điệp ngữ được thể hiện ở
một số phương diện sau.
1.1.3.1. Nhờ biện pháp điệp ngữ, câu văn tăng tính nhạc, có tác dụng nhấn
mạnh một sắc thái ý nghĩa tình cảm, cảm xúc nào đó làm nổi bật những yếu tố
ngôn ngữ quan trọng. Làm cho lời văn thêm sâu sắc, tha thiết, có sức thuyết
phục mạnh.
VD:
Sv: Nguyễn Thị Hiền
18
K32B – Ngữ Văn
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
“… Trong thơ văn Việt Nam nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không
phải sáo Thiên thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện
một cái “tôi” mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm
trúc bông lau, có phải niềm than van của bờ sông, bãi cát; có phải mặt trăng
một mình đang cảm thông cùng vì sao?”
(Lời tựa cho tập lửa thiêng – Xuân Diệu)
1.1.3.2. Chức năng tu từ học của điệp ngữ được phát hiện ra trong mối quan
hệ qua lại với ngữ cảnh. Đó là việc gây ra một phản ứng trực tiếp có màu sắc
biểu cảm – cảm xúc ở phía người nghe (người đọc): ngạc nhiên, vui mừng,
bực bội sợ hãi… khi mà người nói nói ra.
VD:
Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi?
Mái tóc em đây hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm dông
Thịt da em hay là sắt là đồng
Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt
Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt
Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh.
Thân mình em đau đớn cả thân cành.
(Người con gái Việt Nam – Tố Hữu)
Trong một phát ngôn nhất định, điệp ngữ thường được dùng như một
phương tiện tăng cường lôgic – cảm xúc nghĩa của phát ngôn.
1.1.3.3. Trong văn nghệ thuật, điệp ngữ mới phát huy được đầy đủ khả năng
tu từ học của mình ở khả năng tạo hình, mô phỏng âm thanh, diễn tả những
sắc thái khác nhau của tính chất: vui mừng, ngạc nhiên, lo âu, bực tức…
1.2. Thơ và đặc trưng ngôn ngữ thơ.
Sv: Nguyễn Thị Hiền
19
K32B – Ngữ Văn
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
1.2.1. Định nghĩa
Thơ là một thể loại văn học nảy sinh rất sớm trong đời sống con người.
Nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng thơ là hình thái văn học đầu tiên của loài
người. Đó là thể loại xã hội nằm trong phương thức trữ tình gắn với chiều sâu
thế giới nội tâm, với những vẻ đẹp mềm mại của tình cảm con người. Từ xưa
đến nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thơ:
Nhà thờ Đuy Belây định nghĩa: “Thơ là người thư kí trung thành của
những trái tim”.
Nhà thơ Sóng Hồng bàn về thơ: “Thơ là một hình thức nghệ thuật cao
quý, tinh vi. Người làm thơ phải có một tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng
cháy trong lòng. Nhưng thơ là tình cảm và lý trí ấy được diễn đạt bằng những
hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác
thường”.
Theo Chế Lan Viên: “Thơ là đi giữa nhạc và ý”. Người làm thơ hay
phải biết “vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý”
Tố Hữu cho rằng: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại, là tiếng
nói đồng ý, đồng chí, đồng tình”.
Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn
Khắc Phi, Nxb Giáo dục, định nghĩa về thơ như sau: “Thơ là hình thức sáng
tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những xúc cảm
mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”.
Như vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thơ, tuy nhiên các ý kiến
này đều gặp gỡ nhau ở quan niệm: Thơ là tiếng nói của cảm xúc mãnh liệt,
của trí tưởng tượng phong phú – là nghệ thuật ngôn từ tổng hợp của nhiều
nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh.
1.2.2. Đặc trưng ngôn ngữ thơ.
1.2.2.1. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ bão hòa cảm xúc.
Sv: Nguyễn Thị Hiền
20
K32B – Ngữ Văn
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
Nhà thơ Tố Hữu cho rằng: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm
hồn. Nói cho cùng, thơ là kết quả của sự nhập tâm. Thơ chỉ tràn ra khi trong
tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Chính vì vậy ngôn ngữ thơ trữ tình có những
điểm khác biệt so với ngôn ngữ tự sự và kịch. Ngôn ngữ thơ không bao giờ là
ngôn ngữ khách quan, yên tĩnh của tác phẩm tự sự. Đó là sự lắng kết chất thơ,
lắng kết mạch thơ với đời sống được tích lũy lâu đời.
Do vậy, yếu tố truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện cảm xúc của thơ. Đó chính là việc sử dụng điển cố, điển tích, vận dụng
thành ngữ, tục ngữ, ca dao.
VD:
Lòng anh như biển sóng cồn
Chứa muôn con nước nghìn con sông dài
Lòng em như chiếc lá khoai
Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu
(Nguyễn Bính – Hai lòng)
Những câu thơ sử dụng sáng tạo thành ngữ “nước đổ lá khoai”, “muôn
sông nghìn sóng” kết hợp với hình ảnh so sánh và biện pháp điệp ngữ giàu
sức gợi để khẳng định tình yêu của nhân vật trữ tình giành cho cô gái. Đó là
một tình yêu dạt dào như “nước”, “bền bỉ” sâu sắc như sóng ngầm. Thế nhưng
đó lại là tình yêu đơn phương, tuyệt vọng. Câu thơ nhuốm màu đau khổ sầu
nặng.
Cùng với sự phát triển của văn học, ngôn ngữ thơ ngày càng được chắt
lọc tinh tế, sâu sắc phù hợp với tâm trạng, cảm xúc của con người trong sự hối
hả bề bộn của cuộc sống hiện đại.
1.2.2.2. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ hàm súc.
Tính hàm súc là một đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ trữ tình. Tính
hàm súc được hiểu là khả năng biểu thị được nhiều nội dung tư tưởng nhất
Sv: Nguyễn Thị Hiền
21
K32B – Ngữ Văn
Hiệu quả tu từ của biện pháp điệp ngữ trong thơ Ngô Văn Phú
cho một số lượng yếu tố ngôn ngữ ít nhất “lời chật mà ý rộng – lời đã hết mà ý
vô cùng”. Tính hàm súc của ngôn ngữ thơ được tạo nên bởi cách sử dụng tối
đa các biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, phóng đại, phép
đối, phép điệp,… Các hình ảnh biểu tượng các từ tượng thanh, tượng hình. Do
vậy, thơ là sự biến hóa kỳ diệu, sự vận động linh điệu.
VD: Bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non,
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Bài thơ trước hết tả thực về hình dáng chiếc bánh trôi và quá trình làm
bánh, nhưng bánh trôi ở đây cũng chính là hình ảnh ẩn dụ cho người phụ nữ
trong xã hội phong kiến với đầy định kiến bất công.
Như vậy tính đa nghĩa của bài thơ chính là khả năng gợi ý những liên
tưởng sâu sắc, những hàm nghĩa sâu xa.
Ngôn ngữ thơ không có tính liên tục như ngôn ngữ văn xuôi, ngược lại
nó tính nhảy vọt, gián đoạn, tạo ra những khoảng lặng giàu ý nghĩa và khoảng
trống giữa các dòng, kích thích sự liên tưởng, suy ngẫm của độc giả. Chính
điều này đã tạo nên tính đa nghĩa hàm súc cho ngôn ngữ thơ. Nói như Ngô
Minh: “Khoảng lặng giữa các câu thơ mà nhà thơ dành cho người đọc tự do
nghĩ ngợi càng rộng thì độ dồn nén của thơ càng cao”.
VD:
Ai cấm ta say, say thần thánh?
Ngực lép bốn nghìn năm trưa nay cơn gió lạnh
Thổi phồng lên tim bỗng hóa mặt trời.
… Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi
Ta ngã vật trong dòng người cuộn thác
Sv: Nguyễn Thị Hiền
22
K32B – Ngữ Văn
--- Bài cũ hơn ---