--- Bài mới hơn ---
Vai Trò Của Báo Chí Trong Giám Định, Phản Biện Xã Hội
Phản Biện Xã Hội: Khái Niệm, Chức Năng Và Điều Kiện Hình Thành
Đổi Mới Và Sáng Tạo Trong Lãnh Đạo, Quản Lý
Chi Nhánh Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Tỉnh Hưng Yên Làm Tốt Chính Sách Tín Dụng Ưu Đãi Đối Với Hộ Nghèo Và Các Đối Tượng Chính Sách Khác
Chủ Nghĩa Xã Hội Và Con Người Xã Hội Chủ Nghĩa
Về mối quan hệ giữa nhà nước – thị trường – xã hội thời gian qua
Mối quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội là mối quan hệ lớn, cơ bản, đòi hỏi phải giải quyết hài hòa trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội. Giải quyết tốt mối quan hệ này chính là góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
1. Thực trạng giải quyết mối quan hệ này những năm qua
(1) Một số kết quả
Một là, trong thực tiễn Nhà nước đã thực sự chú ý đến vai trò “bà đỡ” cho thị trường hình thành và phát triển. Đã thể chế hóa và tạo điều kiện cho quá trình hình thành và phát triển các loại thị trường, nên các thị trường có sự phát triển mạnh về quy mô và chất lượng, các thị trường mới được hình thành; đã thực sự chủ động và tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực, quy mô giao dịch tăng cao. Đồng thời “xã hội hoá” một số nhiệm vụ của nhà nước; nhà nước mở các ngành, các lĩnh vực, trước đây được coi là độc quyền nhà nước, rút lui dần khỏi lĩnh vực kinh doanh không cần thiết và “nhường lại” cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế – xã hội.
Hai là, đã hình thành thể chế về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, bao gồm: (i) Phân biệt chức năng quản lý Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở; (ii) Nhà nước “từ bỏ” hoạt động quản trị và can thiệp vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế; (iii) Tách bạch chức năng quản lý kinh tế vĩ mô và chức năng chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, từng bước xoá bỏ “bộ chủ quản”; “chính quyền chủ quản” của doanh nghiệp nhà nước. Thể chế kinh tế mới hướng tới xác định quan hệ phù hợp giữa bộ ba: Nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc cơ chế thị trường.
Ba là, trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước đã dần hạn chế tối đa mệnh lệnh hành chính để các hoạt động của thị trường diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật thị trường, đảm bảo nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”, đồng thời tăng cường quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực kinh tế kết hợp với điều tiết vĩ mô của Nhà nước bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bằng các nguồn lực, các chính sách hướng quá trình phát triển kinh tế – xã hội và hệ thống kinh doanh vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết.
Thể chế định giá, nhất là giá cả hàng hóa, dịch vụ, đã được tự do hóa; giá cá hàng hóa, dịch vụ về cơ bản đã được quyết định bởi thị trường, theo quy luật thị trường. Cạnh tranh trên thị trường hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng; độc quyền trong kinh doanh, độc quyền thị trường và cạnh tranh không lành mạnh ngày càng được kiểm soát và có chiều hướng giảm.
Bốn là, vai trò, chức năng của thị trường cũng càng được coi trọng, thể hiện rõ nét ở những điểm sau:
– Thị trường đã thực sự từng bước là căn cứ để Nhà nước định hướng phát triển kinh tế đất nước thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế – xã hội.
– Thị trường/doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia cung ứng các dịch vụ xã hội. Hiện nay, Nhà nước thông qua cơ chế thị trường, đang chuyển sang khai thông tiềm năng của khu vực tư nhân, không phải với tư cách là một nguồn thay thế, mà là một nguồn bổ sung cho Nhà nước trong việc cung ứng kết cấu hạ tầng và các dịch vụ xã hội.
– Thị trường là căn cứ để tạo một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao gồm toà án và các cơ quan cưỡng chế thi hành luật.
– Thị trường tham gia kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, góp phần tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế.
Năm là, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Bản thân doanh nghiệp nhà nước cũng phải vận hành, hạch toán theo cơ chế thị trường. Đáng chú ý là việc tách chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý chung của Nhà nước thông qua thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đây là thay đổi lớn, qua đó khắc phục những tồn tại, hạn chế của mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước hiện nay. Chính phủ cũng đã đẩy mạnh cải cách, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành góp phần đưa các doanh nghiệp nhà nước được tập trung nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu. Sau gần 18 năm cổ phần hóa, kể từ khi có Nghị quyết TW 3 khóa IX năm 2001 đến nay, tuy vẫn còn chậm, song đã đạt được nhiều kết quả trong việc giảm số lượng DNNN làm ăn thua lỗ, năng lực tài chính, quản trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước được nâng lên.
Sáu là, khu vực tư nhân có sự phát triển mạnh trong các lĩnh vực pháp luật không cấm, và tham gia cung ứng dịch vụ công. Đây là một trong những thành công của quá trình xử lý quan hệ nhà Nước-thị trường-xã hội trong những năm vừa qua. Trên thực tế vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế ngày càng được thừa nhận và có đóng góp ngày càng lớn xét trên tỷ lệ nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, đóng góp thu ngân sách, tạo việc làm…Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh với nhiều loại hình đa dạng, có những doanh nghiệp, tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Bảy là, phát triển các doanh nghiệp xã hội và các hội tự quản. Phát triển doanh nghiệp xã hội (DNXH) là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Từ khi khái niệm DNXH được biết đến vào những năm 2008 đến nay, DNXH đã phát triển đa dạng, có sức ảnh hưởng đến chính sách của nhà nước và lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Hoạt động ươm tạo và hỗ trợ các DNXH cũng đạt được những kết quả nhất định. Thống kê cho thấy, số lượng doanh nghiệp kinh doanh tạo tác động xã hội đang chiếm khoảng 4% khu vực doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó có hơn 20 tổ chức, đơn vị có chương trình ươm tạo, tăng tốc phát triển hoặc hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp và sáng kiến kinh doanh tạo tác động xã hội tại Việt Nam, góp phần tạo nên một hệ sinh thái năng động và đa dạng, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của DNXH.
Bên cạnh các DNXH, với việc đẩy mạnh thực hiện dân chủ hóa cơ sở, trong những năm qua mô hình tự quản khu dân cư đã phát triển khá đa dạng ở nhiều địa phương như: tuyến đường tự quản, tự quản bảo vệ môi trường, tự quản an ninh trật tự…(các tỉnh: Tuyên Quảng, Quảng Nam, Ninh Thuận…) đã góp phần nâng cao đời sống người dân. Đây là hướng quan trọng góp phần nâng cao vai trò thành tố xã hội trong tạo lập môi trường tăng trưởng, giám sát, bổ sung cho những khuyến khuyết của thị trường trong những năm qua.
Tám là, trong quá trình xây dựng cũng như thực hiện chủ trương, chính sách đã chú ý gắn bó hơn chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước-thị trường- xã hội, tức là có sự phân vai ngay trong quá trình xây dựng chủ trương, chính sách, do vậy tính khả thi chính sách cũng cao hơn, có sự đồng thuận của người dân. Sự tham gia của doanh nghiệp và xã hội vào quá trình định hình chính sách ngày một rõ và hiệu quả.
(2) Hạn chế, yếu kém
Một là, trong những năm qua, việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước- thị trường-xã hội ở nước ta còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập, như lẫn lộn vai trò giữa Nhà nước và thị trường, mà thực chất là Nhà nước hoặc không làm, làm không hết vai trò, hoặc can thiệp vào vai trò của các chủ thể khác trong nền kinh tế thị trường; Nhà nước chưa bổ khuyết tốt được cho thị trường, đôi khi vẫn còn hiện tượng phó mặc thị trường (tình hình được mùa, rớt giá năm nào cũng xảy ra).
Hai là, hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế còn thấp, một mặt là do sự can thiệp của Nhà nước không phù hợp với sự vận động của thị trường. Mặt khác, Nhà nước lại thiếu công cụ và cơ chế giám sát, chế tài để bảo đảm các chủ thể tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ “luật chơi” đã đề ra. Công tác kế hoạch và quy hoạch của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn bất cập, chưa phù hợp với thực tế.
Trong việc sử dụng các công cụ can thiệp của nhà nước còn tồn tại một số bất cập như: công cụ pháp luật chưa ổn định, Nhà nước chưa thật sự trở thành “trọng tài” cho các chủ thể kinh tế; chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá phối hợp thiếu linh hoạt; thiếu tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước với hệ thống hành chính; hiệu quả của phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa thời gian vừa qua còn bộc lộ những hạn chế và đối mặt với một số thách thức; việc cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách chưa được thiết lập một cách chính thức; lực lượng vật chất của nhà nước can thiệp vào thị trường còn phân tán, lãng phí, vừa chưa theo quy hoạch, kế hoạch, vừa chưa theo quy luật của thị trường; quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước chưa bảo đảm cho đầu tư nhà nước và tư nhân hiệu quả, thống nhất được lợi ích nhà đầu tư và lợi ích nhà nước, giữa mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, giữa phát triển đất nước, vùng và địa phương; hệ thống dịch vụ công chưa phân tách các trách nhiệm tổ chức cung ứng, chi trả phí và quản lý để tiến hành đổi mới hiệu quả, mở rộng cơ hội cho tư nhân tham gia.
Nhà nước còn hạn chế trong kiến tạo phát triển, dẫn dắt thị trường, nhất là kiến tạo phát triển các yếu tố thị trường. Điều này gắn liền với sự chưa rõ trong quan niệm xác định vai trò, mức độ tham gia kiến tạo thị trường của nhà nước, nên hiệu quả thực tế chưa cao.
Ba là, trong những năm qua, kinh tế Nhà nước đã đóng vai trò cột trụ, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế Nhà nước cũng đã bộc lộ hạn chế, bất cập, tập trung vào các vấn đề như: việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản; phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; cơ chế giám sát, công khai, minh bạch hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa tốt; khu vực sự nghiệp công chiếm quy mô lớn, chưa vận hành theo kinh tế thị trường, còn bao cấp lớn từ nhà nước; nguồn lực nhà nước nắm giữ, phân bổ, đầu tư chưa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường; việc huy động các nguồn lực đầu tư cho dịch vụ công, phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ công vẫn còn một số bất cập.
Bốn là, còn tình trạng thiếu bình đẳng, hạn chế tính cạnh tranh và làm suy giảm năng lực kinh doanh của cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước. Tình trạng độc quyền, trái với quy luật cạnh tranh ở một số lĩnh vực vẫn còn tồn tại. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ. Môi trường kinh doanh, đầu tư chưa thật sự thông thoáng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường.
Năm là, thể chế kinh tế thị trường ở nước ta vẫn chưa thực sự tôn trọng vai trò, chức năng của thị trường, chưa thực sự coi thị trường là một thực thể khách quan, vận động và phát triển theo quy luật vốn có không phụ thuộc vào ý chí cá nhân và tổ chức xã hội nào cả, kể cả ý chí của Chính phủ. Thể hiện rõ nhất là: vẫn còn duy trì chính sách bao cấp, xin cho của nền kinh tế kế hoạch hoá; vẫn duy trì những doanh nghiệp nhà nước độc quyền trong nhiều lĩnh vực kinh doanh cần chuyển sang thị trường cạnh tranh; vẫn còn tồn tại cung cách quản lý bao cấp, quan liêu, vẫn sử dụng nhiều chính sách trợ cấp, trợ giá theo kiểu cũ không khuyến khích được tinh thần tự lập, tự cường của đối tượng được trợ cấp. Những bộ phận chính sách và thể chế đó không phù hợp thực tế kinh tế thị trường, thậm chí còn là cơ sở nảy sinh lợi ích nhóm, hành vi tham nhũng, lạm quyền… làm giảm động lực phát triển kinh tế. Các yếu tố thị trường, các loại thị trường trong nền kinh tế chậm được đồng bộ hoá. Đây là một trong những lý do Việt Nam vẫn còn bị nhiều nước xem xét và đánh giá là một quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường.
Sáu là, về vấn đề cạnh tranh, chống độc quyền và phát triển kinh tế tư nhân
Nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh là điểm đáng ghi nhận trong thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại khoảng cách giữa chính sách và thực thi, các doanh nghiệp vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong các thủ tục hành chính, đầu tư kinh doanh gây phiền hà, tốn thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Nhà nước dường như chưa thật sự tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực công và khu vực tư, giữa các tổ chức kinh tế trong khu vực tư, trong tiếp cận các nguồn lực công; chưa giải phóng triệt để tiềm lực, thế mạnh của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế. Cũng vì vậy hiện phần lớn các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ, quản trị và năng lực tài chính hạn chế.
Bảy là, nhận thức và hoạt động của các tổ chức xã hội còn một số hạn chế. Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức xã hội không rõ ràng, vừa chịu sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, vừa có nhiệm vụ giám sát, phản biện vai trò của Đảng và Nhà nước. Do chức năng, nhiệm vụ không rõ ràng nên các tổ chức xã hội ở Việt Nam hoạt động còn thụ động, hiệu quả không cao. Mặt khác, cơ sở pháp lý, mà cụ thể là Luật về Hội, Hiệp Hội chưa được ban hành, nên sự hoạt động chưa có sự bảo đảm bằng pháp luật.
Tám là, việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân còn có những hạn chế: Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một số lĩnh vực còn bị vi phạm; còn tình trạng “vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ cương”. Trong xã hội còn không ít biểu hiện mất dân chủ, hoặc dân chủ cực đoan; việc thực hành dân chủ có nơi, có lúc còn mang tính hình thức. Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân vẫn chưa được tạo lập đầy đủ; khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân còn hạn chế. Việc bảo đảm dân chủ trong bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp có nơi, có lúc chưa được tổ chức, thực hiện tốt. Việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở có mặt còn hình thức, chưa thực sự phát huy được vai trò, trách nhiệm của người dân.
(3) Nguyên nhân
Hiện trạng trên có nhiều nguyên nhân, có thể nêu 3 nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, sự đổi mới nhận thức
Những đổi mới trong nhận thức về nhà Nước-thị trường-xã hội chính là cơ sở cho thay đổi trong điều hành hoạt động thực tiễn. Việc tách bạch vai trò Nhà nước đã cho phép các hoạt động kinh doanh nhanh nhạy hơn, giảm được nhiều giấy phép con. Các doanh nghiệp đã chủ động khai thác nguồn lực xã hội, thực hiện đối tác công tư trong hoạt động kinh doanh.
Sự đổi mới trong nhận thức về kinh tế Nhà nước đã thúc đẩy quá trình cải cách doanh nghiệp và đổi mới hoạt động của khu vực Nhà nước theo cơ chế thị trường, dần nâng cao hiệu quả hoạt động. Bên cạnh đó tư duy về vai trò của các thành phần kinh tế, nhất là với vai trò động lực quan trong của kinh tế tư nhân đã thúc đẩy khu vực kinh tế này phát triển cùng với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, có đóng góp lớn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.
Đặc biệt sự đổi mới nhận thức về vai trò thị trường đã góp phần gia tăng vai trò thực tế của thành tố này trong hoạt động thực tiễn. Đáng chú ý là cơ chế thị trường đã hình thành và được vận dụng, xâm nhập vào nhiều quan hệ kinh tế vốn trước đây đóng khung theo quy định cứng nhắc. Vì vậy nền kinh tế vận hành thông thoáng hơn.
Việc nhìn nhận vai trò xã hội cũng có sự thay đổi, đòi hỏi ngay trong các ý tưởng và quyết sách đã phải tính đến các yếu tố xã hội không chỉ trên phương diện giải quyết các vấn đề xã hội, mà cả trên phương diện tính đến sự tác động của các vấn đề xã hội. Nếu trước đây chỉ chú ý đầu tư kinh tế để từ đó tạo nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội, thì này còn tính đến đầu tư vào các vấn đề xã hội để tạo môi trường điều kiện cho tăng trưởng. Hơn nữa với cách nhìn về vai trò xã hội, nhà nước cũng đã có điều chỉnh trong tạo lập các điều kiện cho các tổ chức xã hội vận hành, phát huy vai trò của mình đóng góp vào sự phát triển, khắc phục những khuyết tật của thị trường.
Tuy nhiên, cái khó trong điều hành hoạt động kinh tế, chính là những quy định và những nhận thức cũ theo tư duy của nền kinh tế kế hoạch tập trung, chúng trói buộc sự sáng tạo, năng động trong hoạt động sản xuất. Mặc dù chuyển sang kinh tế thị trường, cho dù có các quy định, nhưng độ trễ của thói quen vẫn tác động đến các hoạt động điều hành thực tiễn.
Thứ hai, sự thiếu vắng thể chế
Mặc dù đã có những cố gắng và nỗ lực như đã nói ở trên, nhưng nhìn chung hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam vẫn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập và vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Điều này thể hiện rõ nhất qua các thực tiễn như: Hệ thống pháp luật còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật; Một số văn bản pháp luật quan trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi chưa cao; Tính cụ thể, minh bạch, rõ ràng của nhiều luật còn thấp; Quy trình xây dựng pháp luật còn thiếu tính dân chủ, tính đại chúng. Để các thành tố phát huy tốt vai trò chức năng, bước quan trọng là phải thể chế hóa các nhận thức đã đạt được thành các quy định pháp lý. Tuy những năm qua đã có nhiều cố gắng trong quá trình thể chế hóa, song thực tế vẫn còn thiếu vắng nhiều quy định, ví như Luật về hội, Quy định về kiểm soát độc quyền…
Thứ ba, sự hạn chế trong vận hành của bộ máy Nhà nước
Bộ máy Nhà nước tuy có sự đổi mới cải cách song còn nhiều hạn chế trong vận hành. Đó là tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối bên trong; việc phân cấp, phân quyền tuy chủ trương đã rõ nhưng thực hiện chưa thực sự hiệu quả, chưa đi vào cuộc sống…Cơ chế phối hợp các bộ phận, đầu mối chưa rõ ràng dẫn đến sự phối hợp giữa các ngành và các địa phương có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Tổ chức bộ máy và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội chậm đổi mới; một số nhiệm vụ còn trùng lặp; có biểu hiện hành chính hóa, công chức hóa. Cơ cấu cán bộ, công chức còn bất cập giữa các cấp và trong từng cơ quan; năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở hạn chế… Những điều đó ảnh hưởng ngay đến quá trình thể chế hóa quan điểm của Đảng, đến năng lực triển khai và thực thi các chính sách và quy định của Nhà nước nói chung, đến phối hợp giải quyết mối quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội nói riêng.
--- Bài cũ hơn ---
Mạng Xã Hội, Mặt Tích Cực Và Tiêu Cực, Những Vấn Đề Đặt Ra Cho Công Tác Bảo Đảm An Ninh Trật Tự – Công An Tỉnh Quảng Bình
Mạng Xã Hội, Vai Trò Và Những Hệ Lụy
Tiền Lương Là Gì? Bản Chất Và Chức Năng Của Tiền Lương
Chức Năng Của Tiền Lương
Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn Với Sự Phát Triển Bền Vững Của Đất Nước