UBND TỈNH HẢI DƯƠNG SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 3
Năm học 2014 – 2015
1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 3”. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng việt- Lớp 3. 3. Tác giả: – Họ và tên: Dương Thị Hằng.
Nạm (Nữ ): Nữ
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN
(Kí, ghi rõ họ tên)
ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Dương Thị Hằng TÓM TẮT SÁNG KIẾN 2
Phân môn Tập đọc có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng. Để học sinh học tốt được phân môn Tập đọc thì nhiệm vụ quan trọng nhất là rèn đọc cho học sinh. Học sinh đọc tốt sẽ là phương tiện để học sinh chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh đọc tốt không những giúp các em giao tiếp tốt mà còn giúp các em học tốt tất cả các môn học. Học môn nào, học bài nào cũng phải sử dụng đến hoạt động đọc. Rèn học sinh đọc tốt cũng chính là giúp các em hình thành và phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Tôi thấy thực tế dạy học hàng ngày, kĩ năng đọc của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Một phần là do bản thân học sinh nhận thức mặt chữ chậm, chưa có kĩ năng đọc, chưa cố gắng. Một phần là phương pháp giảng dạy của một số giáo viên còn hạn chế. Giáo viên mới chỉ dừng ở mức cho học sinh đọc chứ chưa đi sâu vào rèn các kĩ năng. Năm học 2014 – 2015, tôi mạnh dạn nghiên cứu và viết sáng kiến về một số biện pháp rèn đọc cho HS lớp 3 nhằm giúp tất cả các em có kĩ năng đọc tốt hơn. Sáng kiến của tôi đã được đúc rút từ việc giảng dạy các tiết hàng ngày trên lớp qua nhiều năm, đúc rút qua việc phụ đạo những em nhận thức chậm. Sáng kiến của tôi dựa vào các cơ sở khoa học, dựa vào các nguyên tắc giáo dục, dựa vào đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh. Để thực hiện sáng kiến, tôi đã đưa ra một kế hoạch và thực hiện nghiêm túc theo kế hoạch đó. Tôi tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến học sinh đọc sai, nghiên cứu kĩ nội dung chương trình, các tài liệu tham khảo. Khi đã nắm chắc chương trình, nội dung kiến thức kĩ năng cần đạt, những lỗi mà học sinh hay mắc phải, tôi tiến hành phân loại học sinh theo từng nhóm đối tượng riêng để tiến hành tìm biện pháp rèn cặp cho phù hợp. Trên lớp, ngoài việc tiến hành biện pháp rèn đọc với từng nhóm đối tượng học sinh, tôi luôn phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh, khuyến khích học sinh phát huy hết năng lực đọc của mình, thực hiện các giờ dạy trên lớp một cách hiệu quả nhất. Tôi có sổ nhật kí về từng lỗi sai của học sinh để theo dõi sự tiến bộ của học sinh. Bên cạnh việc truyền đạt kiến thức, tôi thực hiện nghiêm túc việc theo dõi đánh giá học sinh theo thông tư 30/ 2014, làm tốt công tác chủ nhiệm, áp dụng mô hình trường học mới luôn động viên khuyến khích học sinh. Với lòng nhiệt tình tâm huyết nghề nghiệp, tôi đã áp dụng biện pháp rèn đọc cho học sinh và biện pháp hoàn 3
toàn đem lại hiệu quả. Kĩ năng đọc của học sinh tiến bộ rõ rệt. Học sinh cả lớp đều đạt yêu cầu cơ bản. Nhiều em đọc tốt hơn nhiều so với trước. Trong lớp không còn học sinh đọc ê a ngắc ngứ. Các em đọc đúng đọc hay và các môn học khác cũng rất tiến bộ, diễn đạt lưu loát, giao tiếp tốt hơn. Đầu năm các em rất nhút nhát, sợ thầy sợ cô nhưng đến nay rất tự tin. Trong lớp, các em hăng hái phát biểu, thích đọc, thích học. Các em hăng hái tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hăng hái tham gia công tác tự quản, giờ sinh hoạt rất sôi nổi và vui vẻ. Lớp học luôn dẫn dầu trong việc thực hiện các nề nếp và các phong trào. Sáng kiến của tôi đã đưa ra được biện pháp tích cực, là cơ sở giúp giáo viên tham khảo xây dựng được một số biện pháp khác như giúp học sinh nhận thức chậm vươn lên đạt chuẩn; Nâng cao chất lượng toàn diện cho học sinh, Nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt… Sáng kiến của tôi đưa ra được biện pháp rèn đọc hữu hiệu, dễ thực hiện, không tốn kinh phí, áp dụng được tất cả với mọi giáo viên ở các khối lớp và đặc biệt là khối lớp 3 đạt hiệu quả. Để sáng kiến áp dụng đạt hiệu quả, tôi kính mong các lực lượng tham gia giáo dục tâm huyết, nhiệt tình, tất cả vì thế hệ trẻ, tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất cũng như đồ dùng phương tiện để giúp học sinh phát triển toàn diện đủ đức đủ tài xây dựng đất nước văn minh, giàu đẹp.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN 4
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến 1.1. Lý do chọn sáng kiến. Hiện nay đất nước ta đứng trước sự phát triển của thế giới cũng đang từng ngày từng giờ đổi mới. Trước sự phát phiển của nền kinh tế và đặc biệt là sự phát triển của khoa học – công nghệ thông tin, cần phải có những con người có đủ năng lực, đủ trí tuệ gánh vác. Đó là trọng trách lớn lao của ngành giáo dục với sự nghiệp trồng người. Đứng trước sự phát triển của đất nước nếu con người không biết đọc thì không thể tiếp thu được nền văn minh của loài người, không thể đáp ứng được sự phát triển của xã hội. Mặt khác ta còn thấy, đọc tốt không phải ai cũng có và dễ dàng đạt được. Đọc tốt là phải kết hợp được rất nhiều yếu tố như: chất giọng tốt, phát âm đúng, đọc lưu loát, biết thể hiện truyền cảm tới người nghe… Nếu một trong các yếu tố trên không đạt thì chất lượng đọc không thể tốt được. Ví dụ như một người phát thanh viên có giọng đọc hay nhưng ngọng l/n thì người nghe cảm thấy giảm giá trị đọc đi nhiều lần. Là người giáo viên làm công tác giảng dạy đào tạo ra những nhân tài cho đất nước, tôi nhận thấy rèn học sinh đọc tốt là việc làm vô cùng quan trọng giữ vai trò then chốt giúp học sinh phát triển toàn diện. Kĩ năng đọc tốt sẽ là phương tiện để học sinh chiếm lĩnh kiến thức. Bất cứ môn học nào, bài học nào cũng phải sử dụng đến hoạt động đọc. Các em đọc được văn bản thì các em mới hiểu được nội dung ý nghĩa giáo dục, mới cảm nhận được cái hay cái đẹp của văn bản. Các em đọc được đề bài toán thì mới hiểu và giải được bài. Các em có đọc được chữ thì mới hát được bài hát, đọc được bài học, ghi nhớ bài học. Các em đọc tốt thì các em sẽ học tốt được tất cả các môn. Từ việc nắm được kiến thức các em mới có nhiều vốn từ, phát triển được năng khiếu diễn đạt, năng khiếu giáo tiếp hàng ngày. Chính vì vậy mà việc rèn học sinh đọc tốt và vô cùng quan trọng, cần thiết trong việc dạy học, giúp các em phát triển toàn diện đáp ứng được mục tiêu giáo dục hiện nay. Từ thực tế ta thấy học sinh đọc yếu còn rất nhiều. Các em phát âm sai, đọc đánh vần tốc độ chậm, đọc ngọng, đọc sai tiếng từ, đọc không hiểu nội dung. Từ đó các em viết chậm, sai nhiều lỗi, viết mãi không xong tên bài học. Đến giờ Tập đọc các em rất thờ ơ, ngại đọc, không 5
hứng thú. Khi diễn đạt các em rất bí từ, diễn đạt không lưu loát, ngại giao tiếp với cô và các bạn. Trong giờ học, các em không chịu cố gắng, thiếu tự tin, thụ động. Từ việc đọc kém nên dẫn đến các em học chậm các môn học khác. Các em không hoàn thành bài ỷ lại vào sự giục giã của thày cô. Các em đến lớp luôn bị cô giáo nhắc nhở, về nhà bị bố mẹ phàn nàn. Các em dẫn đến chán học rồi bỏ học. Từ đó sẽ các em hay sa vào các trò chơi điện tử… và mắc vào các tệ nạn xã hội đáng tiếc. Do đó các em đã trở thành một gánh nặng cho lớp, cho nhà trường, cho gia đình và xã hội. Từ những vấn đề trên, qua nhiều năm giảng dạy tôi đã mạnh dạn viết sáng kiến về “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 3″ theo hướng tích cực nhằm mong muốn nâng cao chất lượng đọc cho học sinh nói riêng cũng như môn Tiếng Việt và các môn học khác, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ ngành giáo dục của chúng ta hiện nay. 1.2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu – Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 3. – Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 3 1.3. Mục tiêu nghiên cứu Xây dựng được biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 3 nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh cũng như chất lượng môn Tiếng Việt và các môn học khác. 1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu Điều tra thực tế tình hình học sinh đặc biệt là kĩ năng đọc, dự giờ thăm lớp nắm tình hình giảng dạy của giáo viên, thống kê những ưu nhược điểm, đúc rút kinh nghiệm đưa ra biện pháp rèn đọc cho học sinh có hiệu quả. Đem sáng kiến này áp dụng vào công tác giảng dạy, nâng cao chất lượng học sinh. 1.5. Các phương pháp nghiên cứu Tiến hành sáng kiến này tôi đã dùng các phương pháp sau: + Phương pháp điều tra giáo dục: Điều tra thực trạng học sinh, những tồn tại của giáo viên để từ đó có kế hoạch tiến hành. + Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết đặc biệt là kĩ năng đọc để nắm được thực trạng của từng em. 6
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Rút kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy. Rút kinh nghiệm cả về mặt ưu điểm và cả mặt nhược điểm. Toạ đàm trao đổi với đồng chí, đồng nghiệp, với học sinh, dự giờ thăm lớp, các phương pháp rèn đọc ở các loại sách tham khảo, tạp chí giáo dục… + Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Nghiên cứu xem xét kết quả học tập của từng học sinh, của tập thể lớp. + Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành dạy thực nghiệm ở lớp để nắm được kết quả việc áp dụng kinh nghiệm rèn đọc cho học sinh. 1.6. Điểm mới nghiên cứu – Đưa ra các việc làm, các giải pháp rèn đọc cách cụ thể dễ hiểu, dễ thực hiện, áp dụng được tất cả với mọi giáo viên lớp 3 nói riêng, các khối lớp khác nói chung đạt hiệu quả. 2. Cơ sở lí luận của vấn đề Mục tiêu giáo dục của bậc giáo dục Tiểu học hiện nay là: Giúp cho học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản khác để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở hoặc đi vào cuộc sống lao động. Học xong Tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về Tự nhiên Xã hội và con người, có kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán, có thói quen rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh, có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật. Để đạt được mục tiêu của bậc học và để đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đất nước đòi hỏi phải có sự đổi mới tích cực của phương pháp dạy học, đòi hỏi sự sáng tạo của mỗi thày cô làm sao để đạt được chất lượng học sinh, đào tạo được những con người đủ đức, đủ tài kế tục sự nghiệp. Đối với việc rèn đọc cho học sinh là cả một quá trình lâu dài. Đối với học sinh, nếu học sinh đọc kém sẽ hạn chế tất cả các nguồn thông tin. Từ việc đọc kém không nhận nhanh được mặt chữ nên dẫn đến viết kém, tiếp thu mọi thông tin của thày cô kém. Từ việc không nắm chắc kiến thức nên học không có chiều sâu tư duy. Khả năng tập trung vào bài học của các em không bền vững. Học sinh dễ mất tập trung nên việc đạt được kiến thức theo 7
chuẩn kiến thức kĩ năng là rất khó khăn. Vì vậy mỗi giáo viên phải nhận thức được vấn đề, xây dựng được phương pháp rèn đọc cho học sinh. Từ việc rèn học sinh phát âm đúng, đọc to rõ ràng lưu loát đến việc các em biết làm chủ tốc độ đọc, hiểu được nội dung văn bản chuyển tải cho người nghe cảm thụ được cái hay cái đẹp của văn bản là cả một quá trình lâu dài. Mỗi giáo viên phải không ngừng đổi mới, không ngừng sáng tạo để đạt kết quả. Mỗi thày cô phải bỏ nhiều công sức, lòng tâm huyết nhiệt tình thì mới đạt được chất lượng học sinh. 3. Thực trạng của vấn đề 3.1. Về học sinh: Từ thực tế ta thấy học sinh đọc yếu còn rất nhiều. Có em khi đọc còn phải đánh vần. Có em phát âm sai, nhầm lẫn giữa các cặp phụ âm đầu, không biết ngắt nghỉ ở dấu chấm dấu phẩy. Ngoài ra cũng có em đọc nhanh nhưng không nắm được cách đọc nên cứ đọc oang oang, đọc bô bô, đọc như cuốc kêu, đọc như con vẹt mà không hiểu nội dung. Có em đọc thầm thì bỏ dở giữa chừng. Tiết tập đọc, các em thờ ơ không say mê đọc. 3.2. Về phụ huynh: Có những phụ huynh thì rất quan tâm đến con em mình nhưng cũng có nhiều phụ huynh chưa quan tâm, trình độ hạn chế, không có phương pháp hướng dẫn. Có những phụ huynh nhận thức không đầy đủ cho rằng học sau này cũng chẳng xin đi đâu được nên thờ ơ trước lời nhận xét của giáo viên, không hỗ trợ giáo viên trong việc rèn cặp con cái, mải đi làm kiếm tiền mặc cho con em mình được đến đâu thì được. 3.3. Về giáo viên: Đa phần giáo viên rất tâm huyết nhiệt tình với nghề nghiệp, song việc đổi mới phương pháp, cách thức rèn đọc của một số giáo viên còn hạn chế. Tiết Tập đọc có khi chỉ dừng ở mức cho học sinh đọc chứ chưa chú ý đến việc rèn các kĩ năng. Khi học sinh đọc được ở “mức này” giáo viên chưa chỉ ra chỗ chưa được để các em đạt ở mức cao hơn. Sau mỗi bài đọc, giáo viên chỉ nhận xét chung chung chưa cụ thể rạch ròi để học sinh có hướng phấn đấu. Học sinh 8
Kĩ năng đọc Đọc đúng tiếng, từ; đúng tốc độ, ngắt nghỉ hơi đúng, hiểu 9
nội dung; ngữ điệu đọc tốt. Đọc đúng tiếng, từ; đúng tốc độ, ngắt nghỉ hơi đúng, hiểu nội dung; bước đầu biết thể hiện ngữ điệu. Đọc đúng tiếng, từ; đúng tốc độ, hiểu nội dung; ngắt nghỉ hơi đôi chỗ chưa phù hợp. Đọc không đảm bảo tốc độ, sai tiếng, từ; không biết ngắt
10
31,3
14
43,7
5 15,6 nghỉ hơi, không hiểu nội dung bài. Nhìn vào chất lượng khảo sát tôi thấy kĩ năng đọc của học sinh rất kém. Các em đọc tốc độ rất chậm, sai nhiều tiếng từ, bỏ sót từ, đọc nhỏ, đọc ngọng sai phụ âm đầu. Một số em không hiểu nội dung không trả lời được câu hỏi. Cá biệt có em lại đọc nhanh quá không biết ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy, không biết đọc đúng ngữ điệu của bài. Sau khi điều tra thực trạng học sinh, tôi đã tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh đọc sai, đọc kém. Các nguyên nhân đó là: – Hàng ngày các em tiếp xúc với những đối tượng nói sai, nói ngọng ở địa phương thành thói quen, nhất là tỉnh ta hay nhầm l/n … dẫn đến học sinh đọc sai. Ví dụ: ” lập lòe” các em đọc thành “nập nòe” “rừng cây” Các em đọc thành: “dừng cây”… – Học sinh học đuối từ lớp dưới, chưa nhận nhanh được mặt chữ nên khi đọc nhiều chỗ phải dừng lại đánh vần. Do đó dẫn đến tình trạng học sinh đọc chậm không đảm bảo tốc độ ê a ngắc ngứ không lưu loát. – Các em không hiểu nghĩa của từ nên khi đọc các em đọc bừa. – Một số em do bộ máy phát âm còn có điểm khiếm khuyết nên cũng dẫn đến các em đọc sai, các chữ khó không đọc được. – Ngoài ra một số em không hiểu nội dung, không hiểu văn cảnh, không hiểu ý nghĩa tình cảm của tác giả muốn gửi gắm ở trong bài đọc nên cứ đọc oang oang, đọc như cuốc kêu mà không biết đọc giọng phù hợp … 4.3 Phân loại học sinh theo từng lỗi kĩ thuật đọc. Trong các tiết dạy trên lớp, tôi theo dõi kĩ năng đọc các học sinh, phát hiện ra các lỗi sai về kĩ thuật đọc. Tôi tổng hợp các lỗi sai thành các nhóm để từ 10
đó có biện pháp rèn đọc phù hợp với từng đối tượng. Tôi đã tổng hợp và phân loại được các nhóm cơ bản sau: + Nhóm đọc sai lỗi phát âm: l/n; s/x; ch/tr; r/d/gi. + Nhóm đọc chậm ê a, ngắc ngứ. + Nhóm đọc quá chậm. + Nhóm học sinh đọc quá nhanh. + Nhóm đọc nhỏ quá. + Nhóm học sinh đọc to quá. + Đọc liến thoắng không biết ngắt nghỉ phù hợp. + Nhóm đọc không hiểu nội dung Từ thực tế của học sinh trong lớp, có những em vừa sai l/n; ch/tr; s/x; r/d/gi lại đọc ê a, ngắc ngứ, đọc quá chậm lại không hiểu nội dung. Các em biết đọc hay đọc đúng ngữ điệu rất ít. Tôi đã lập danh sách và có sổ nhật kí riêng theo dõi việc đọc của các em. 4.4. Xây đựng các biện pháp rèn đọc Mục đích của tôi rèn đọc cho học sinh là rèn đọc đúng âm vị, đúng ngắt nhịp, đúng cường độ, đảm bảo tốc độ và hiểu nội dung. Ngoài ra tôi còn hướng dẫn học sinh đọc đúng ngữ điệu của bài. Căn cứ vào tình hình thực tế của học sinh trong lớp. Qua phần điều tra lỗi kĩ thuật đọc. Tôi đề ra biện pháp để luyện như sau: + Đối với nhóm đối tượng đọc sai lỗi phát âm: l/n; s/x; ch/tr; r/d/gi, khi hướng dẫn học sinh giáo viên phân tích cho các em sự khác biệt giữa các phụ âm. Giáo viên phân tích cho các em hiểu được hệ thống môi, răng, lưỡi phải kết hợp như thế nào, khi nào thì tròn môi, khi nào thì mở rộng miệng hơi thoát ra. Ví dụ: hướng dẫn cách phát âm của âm L: Đầu lưỡi đặt lên lợi của hàm răng trên, hơi bật từ trong cổ họng đi ra ngoài. Giáo viên làm mẫu rồi hướng dẫn học sinh thực hiện. Giáo viên luyện cho các em đọc đúng âm rồi đến đúng tiếng vì có đọc âm đúng thì tiếng mới đúng được. Giáo viên phân biệt cho các em hiểu nghĩa của từ để các em hiểu và đọc đúng. Ví dụ: “sâu” và “xâu” 11
Ở mức độ nhận thức của các em học sinh lớp 3, giáo viên giải nghĩa từ ở mức độ đơn giản sao cho các em dễ hiểu và phân biệt được: “sâu” là khoảng cách từ miệng hoặc bề mặt đến đáy như ao sâu, giếng sâu…; hay chỉ loại côn trùng phá hoại nông nghiệp như con sâu, sâu bọ … hoặc chỉ trạng thái bị hư hỏng như sâu răng, mía sâu … “xâu”: xuyên qua vật bằng sợi dây hoặc que như: xâu cá, xâu cua, xâu kim hay chỉ sự tranh giành như xâu xé… Khi các em đã được luyện tập nhiều lần, giáo viên huấn luyện cho các em tự nhận xét và nhận xét lẫn nhau và chỉ cho các em những chỗ chưa được. Cứ như vậy nhiều lần, các em hiểu và tiến bộ rõ rệt. + Đối với những em đọc ê a, ngắc ngứ. Ở đây lỗi của các em là chưa nhận rõ mặt chữ nên ê a để nghĩ xem chữ đó đọc như thế nào? Có em phải dừng lại để đánh vần. Đối với nhóm này, giáo viên dành một thời gian thích hợp cho việc luyện đọc. Giáo viên hướng dẫn các em đọc to rõ ràng từng tiếng tuyệt đối không kéo dài từ tiếng này sang tiếng khác. Đọc dứt khoát từng từ, cụm từ, từng câu. Giáo viên luyện cho học sinh một cách thường xuyên và phải tạo thành một thói quen. Nếu cần thiết cho các em dừng lại nhận rõ chữ rồi mới đọc liền mạch. Đối với các em không đọc nổi các tiếng khó ngay tại lớp, giáo viên yêu cầu các em đánh dấu các tiếng khó bằng bút chì vào sách giáo khoa để luyện đọc vào thời gian khác. Đến cuối mỗi buổi giáo viên lại kiểm tra hướng dẫn bổ sung. + Đối với những em đọc chậm, giáo viên rèn đọc cho học sinh bằng cách sau: Đơn vị đọc là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên đo tốc độ bằng cách chọn sẵn bài có số lượng tiếng cho trước và dự tính đọc trong bao nhiếu phút. Dựa theo chuẩn kiến thức kĩ năng, tùy theo mức độ khó của từng bài mà giáo viên đề ra yêu cầu với quỹ thời gian nhất định. Ví dụ bài: Ông ngoại (sách Tiếng Việt lớp 3- tập 1 – trang 34) đọc trong vòng 3 phút là đạt yêu cầu.
12
+ Đối với những em đọc nhanh quá, đọc liến thoắng, giáo viên hướng dẫn các em làm chủ tốc độ đọc: đọc nhẹ nhàng, rõ ràng thoải mái làm sao đủ để người nghe cảm nhận được. Nếu cần thiết giáo viên hướng dẫn các em làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để các em đọc theo tốc độ đã định. + Đối với những em đọc nhỏ, giáo viên yêu cầu các em đọc sao cho bạn ngồi xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Những em đọc to quá giáo viên hướng dẫn các em giảm cường độ đọc. Đọc vừa phải, nhẹ nhàng. + Đối với những em đọc liến thoắng, không biết ngắt nghỉ hơi hợp lí, giáo viên phải chỉ cho cần phải ngắt nghỉ hơi ở những vị trí nào cho phù hợp, sau đó cho học sinh thực hành và nếu cần thiết giáo viên phải đọc mẫu thật tốt để các em làm theo. Đối với các câu dài, giáo viên hướng dẫn các em biết cách lấy hơi, giữ hơi để khỏi bị ngắt quãng giữa các âm tiết. + Đối với những em đọc như cuốc kêu, đọc mà không hiểu nội dung, khi học sinh đọc bài giáo viên luôn đưa ra trước các câu hỏi. Ví dụ: Bài Hũ bạc của người cha (sách Tiếng Việt lớp 3- tập 1- trang 121), tôi đưa ra câu hỏi: Đoạn này nói lên điều gì? Câu nào nói lên ý chính của bài? … Ngoài việc rèn học sinh khắc phục với từng đối tương như trên, Ở lớp 3 không yêu cầu bắt buộc học sinh đọc diễn cảm nhưng tôi vẫn hướng dẫn các em đọc thể hiện đúng ngữ điệu, nội dung bài. Ở phần này, khi học sinh đã thông hiểu nội dung của bài, của từng đoạn, từng câu, hiểu tâm tư tình cảm của tác giả trong bài, giáo viên rèn cho học sinh cách lấy hơi, ngắt nghỉ các loại dấu câu như dấu chấm cảm, chấm hỏi… Khi đã rèn được các kĩ năng cơ bản, giáo viên khuyến khích học sinh tìm ra cách đọc của bài. Ví dụ: Bài Cậu bé thông minh (sách tiếng việt lớp 3- tập 1 – trang 4). + Giọng người dẫn chuyện chậm rãi ở những dòng mở đầu giới thiệu câu chuyện, thể hiện sự lo lắng trước yêu cầu oái oăm của nhà vua. Đoạn “Được lệnh vua đến phần cuối giọng khoan thai thoải mái sau mỗi lần cậu bé tài trí qua được thử thách của nhà vua. + Giọng cậu bé lễ phép, bình tĩnh, tự tin. 13
đọc của bạn rồi sau đó tôi mới sửa sai. Khi sửa, tôi sửa chung cả lớp vì có nhiều em đọc sai lỗi giống nhau, sau đó mới sửa riêng cho từng cá nhân. tôi kiểm tra xem học sinh đọc được chưa và sửa để các em đọc đúng. Trong tiết dạy tôi cố gắng phát huy hết năng lực đọc của học sinh. Khi học sinh đạt được ở “mức này” tôi chỉ ra chỗ hạn chế để học sinh đạt được ở mức cao hơn. Áp dụng theo thông tư 30/ 2014, sau mỗi em đọc, giáo viên cần có lời nhận xét cụ thể sát đối tượng để các em phấn khởi phát huy hết năng lực đọc của mình. Học sinh lớp 3 còn nhỏ nên giáo viên cũng cần thường xuyên thay đổi hình thức dạy học để tránh sự nhàm chán đối với học sinh. Giáo viên tổ chức trò chơi ngay cả phần tìm hiểu nội dung bài hay phần luyện đọc lại. Ví dụ phần luyện đọc lại. Giáo viên cho học sinh thi đua đọc, phát huy năng lực đọc bằng nhiều cách như lựa chọn những em có năng lực đọc ngang nhau để thi đọc. Gọi hai em cùng màu áo, cùng ngồi đầu bàn hay cùng tên họ… để thi đọc. Trong khi lên lớp giáo viên cũng cần lưu ý những em nặng tai, mắt kém ưu tiên cho các em ngồi lên trên hoặc luôn đi đến gần để các em được nghe rõ những lời cô giáo muốn truyền đạt. Trong tiết dạy, lời lẽ của giáo viên phải đơn giản, gần gũi, dễ hiểu đối với học sinh. Một điều quan trọng nữa là giáo viên luôn phải tạo cho học sinh một tâm thế khi đọc. Đó là phải thật thoải mái bình tĩnh, tự tin không sợ sệt thể hiện hết khả năng của mình. Trong lớp luôn tạo ra không khí vui vẻ thi đua sôi nổi. Học sinh đua nhau học tốt. 4.6. Giọng đọc của giáo viên phải chuẩn xác Để rèn học sinh đọc tốt thì giọng đọc của giáo viên phải chuẩn xác. Giáo viên phải phát âm đúng, đọc đúng, có kĩ năng đọc thật chuẩn để làm cái mẫu hướng cho học sinh đọc như cô. Muốn vậy, giáo viên phải không ngừng học hỏi tích lũy kinh nghiệm tạo thành bề dày về kĩ năng đọc để rèn học sinh đọc đúng. 4.7. Phát động thi đua “nhóm đọc tốt” Trong lớp, giáo viên phát động phong trào “nhóm đọc tốt” nhằm mục đích nâng cao chất lượng đọc của học sinh. 15
Giáo viên gợi ý cho những em đọc tốt và những em đọc chưa đạt thành một nhóm, tạo điều kiện cho các em học tập kèm cặp lẫn nhau, hỗ trợ nhau cùng tiến bộ. Mỗi giờ truy bài hoặc cuối buổi cho các em kèm cặp lẫn nhau. Giáo viên chủ động giành thời gian theo dõi, kiểm tra từng nhóm để hướng dẫn và bổ sung thêm. Ngoài ra, tôi áp dụng mô hình trường học mới, sử dụng góc Thư viện của lớp học, khuyến khích học sinh các nhóm đọc truyện để nâng cao thêm kĩ năng đọc cho học sinh. Giáo viên cho thi đua giữa các nhóm để cuối tuần, mỗi tháng có đánh giá tổng kết, bình chọn bao nhiêu nhóm đạt nhóm đọc tốt, có động viên khuyến khích kịp thời. 4.8.Khen thưởng động viên kịp thời Đây là công việc quan trọng để khích lệ học sinh, song phải đúng mức, kịp thời. Qua mỗi sự tiến bộ dù nhỏ của học sinh, giáo viên cũng phải có lời động viên. Có như vậy,các em mới phấn khởi biết mình tiến bộ từng bước như thế nào và luôn có hướng phấn đấu vươn lên. 4.9.Kết hợp với phụ huynh để cùng luyện đọc cho học sinh Giáo viên kết hợp với phụ huynh, tư vấn cho phụ huynh về phương pháp dạy học qua điện thoại hoặc qua các buổi họp để cùng phụ huynh kết họp phụ đạo kèm cặp học sinh. Phụ huynh cũng là tấm gương về đọc đúng, phát âm chuẩn để cho con em mình học tập. 5. Kết quả đạt được Qua nghiên cứu và không ngừng học hỏi tích lũy kinh nghiệm của bản thân, tôi đã đem biện pháp rèn đọc áp dụng vào lớp tôi chủ nhiệm. Tới thời điểm này là tuần 24 năm học 2014 – 2015, tôi tiến hành khảo sát học sinh trong lớp, chất lượng đọc của học sinh đạt kết quả như sau: Kĩ năng đọc Đọc đúng tiếng, từ; đúng tốc độ, ngắt nghỉ hơi 16
Trước thực
Sau thực
đúng, hiểu nội dung; ngữ điệu đọc tốt. Đọc đúng tiếng, từ; đúng tốc độ, ngắt nghỉ hơi đúng, hiểu nội dung; bước đầu biết thể hiện ngữ điệu. Đọc đúng tiếng, từ; đúng tốc độ, hiểu nội dung; ngắt nghỉ hơi đôi chỗ chưa phù hợp. Đọc không đảm bảo tốc độ, sai tiếng, từ; không biết ngắt nghỉ hơi, không hiểu nội dung bài.
10
31,3
13
40,6
14
43,7
9
28,1
5
15,6
0
0,0
Qua việc áp dụng biện pháp rèn đọc, tôi thấy so với trước khi chưa áp dụng biện pháp thì kĩ năng đọc của học sinh hiện nay nâng lên rõ rệt. Các em phát âm chuẩn xác. Những tiếng khó câu dài các em đọc lưu loát trôi chảy. Năng lực đọc của các em tiến bộ nhanh. Nhiều em trước đây đọc chậm, đọc sai đến nay đã đọc rất tốt. Các em biết ngắt nghỉ hơi đúng, làm chủ tốc độ, làm chủ bài đọc. Tỉ lệ học sinh đọc tốt chiếm già nửa lớp. 100% học sinh đều đạt trở lên. Ngoài phân môn Tập đọc các phân môn khác và các môn học khác cũng rất tiến bộ. Các em viết nhanh hơn, đúng hơn, kể chuyện lưu loát rõ ràng hơn. Các em làm văn cũng rất tiến bộ: Các em giàu vốn từ viết câu đủ ý sáng tạo diễn đạt rõ ràng. Câu văn có hình ảnh lời lẽ cô đọng. Đối với môn Toán các em cũng làm nhanh hơn, trình bày bài khoa học sạch sẽ hơn. *Tóm lại: Phương pháp rèn đọc của tôi đã có hiệu quả thiết thực. Các em đầu năm đọc chậm, rất nhút nhát, sợ thày sợ cô nhưng đến nay rất tự tin. Trong lớp, các em hăng hái phát biểu, thích học, thích làm bài. Giờ học luôn diễn ra trong không khí sôi nổi. Các môn học và các hoạt động giáo dục đều tiến bộ. Các em hăng hái tham gia các phong trào. Giờ sinh hoạt các em hoạt động rất tốt. 6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng Để sáng kiến được nhân rộng áp dụng có hiệu quả, mỗi giáo viên cần phải làm tốt các công việc sau: – Nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của người giáo viên trong bối cảnh hiện nay. Nhận thức tốt về việc “Chống bệnh thành tích trong giáo dục” không 17
để học sinh “ngồi nhầm lớp”, không để chất lượng “ảo” xảy ra. Giáo viên phải không ngừng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, có kiến thức vững chắc, nâng cao năng lực đọc là tấm gương cho học sinh nhìn vài cô học theo cô. Giáo viên phải tâm huyết với nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao, phải kiên trì, nhẫn nại, hướng dẫn HS luyện đọc cặn kẽ, cụ thể, không được nóng vội muốn có ngay kết quả hoặc yêu cầu các em phải tiến bộ nhanh. – Xây dựng được biện pháp rèn đọc phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp. Giáo viên vận dụng linh hoạt sáng tạo các phương pháp đảm bảo đặc trưng của phân môn. Thường xuyên quan tâm tới HS để uốn nắn kịp thời. – Nghiên cứu kỹ chương trình và sách giáo khoa. Trong giảng dạy phải bám sát chương trình và chuẩn kiến thức, kĩ năng, điều chỉnh nội dung dạy học. Thực hiện tốt theo thông tư 30/2014; đảm bảo tính vừa sức của HS; tạo cho HS tính tự giác, tích cực, chủ động phát huy hết năng lực đọc của mình, Thực hiện từng bài dạy trên lớp đạt hiệu quả. – Có biện pháp động viên, khuyến khích kịp thời để khích lệ các em hăng say học tập. Giáo viên cần tìm ra những khả năng tiềm tàng ở các em (dù là rất ít) để động viên các em, tạo cho các em niềm tin vào bản thân. Từ đó, học sinh có sự cố gắng vươn lên. Giáo viên phải làm tốt công tác chủ nhiệm, áp dụng mô hình trường học VNEN, phát huy hội đồng tự quản, xây dựng được mối quan hệ thân thiện giữa thày – trò; trò – trò để tiết học nhẹ nhàng thoải mái, không gây áp lực đối với học sinh. Giáo viên phải biết khéo léo kết hợp các môi trường giáo dục để cùng rèn cặp cho học sinh. – Cơ sở vật chất phải đảm bảo như phòng học bàn ghế, ánh sáng… có đủ trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh.
hướng dẫn, các tài liệu tham khảo về các phương pháp dạy học, đổi mới phương pháp dạy học, dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng, điều chỉnh nội dung dạy học. Học sinh của lớp tôi lúc đầu kĩ năng đọc còn rất kém. Các em đọc sai tiếng sai từ, tốc độ chậm không hiểu nội dung… Tôi đã áp dụng biện pháp rèn đọc phù hợp với từng đối tượng khắc phục từng lỗi sai cộng với sự kiên trì, lòng nhiệt tình tất cả vì học sinh, vì sự nghiệp giáo dục. Học sinh lớp tôi hiện nay kĩ năng đọc đã được nâng lên vượt bậc. Các em không những đọc chuẩn xác không sai tiếng sai từ, đảm bảo tốc độ mà các em đọc đúng đọc hay. Một số em giọng đọc truyền cảm. Khi đọc cả những văn bản mới lạ, các em cũng thể hiện rất tốt. Từ việc tiến bộ về kĩ năng đọc, các em viết đúng viết nhanh ít sai lỗi và học tốt cả các môn học khác nữa. Sáng kiến này có thể áp dụng trong phạm vi rộng ở tất cả các khối lớp và chắc chắn có kết quả tốt trong công tác giảng dạy của mỗi người giáo viên. 2. Khuyến nghị 2.1. Về phía học sinh: – Có ý thức tự giác học bài, ý chí quyết tâm vượt khó. – Có đủ đồ dùng học tập. – Có sự quan tâm đúng mức của gia đình. 2.2. Về phía giáo viên: – Thường xuyên nghiên cứu, tham khảo, tích cực học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tìm mọi biện pháp rèn đọc để nâng cao chất lượng học sinh. – Luôn nêu cao ý thức tự giác vai trò của người giáo viên trong bối cảnh hiện nay. Không mắc bệnh thành tích, không để chất lượng “ảo” xảy ra. 2.3. Về phía nhà trường: – Duy trì tốt việc tổ chức các chuyên đề để mỗi giáo viên có dịp được học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. – Đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất bàn ghế và các trang thiết bị phục vụ tốt cho việc dạy và học. 2.4. Về phía các cấp quản lý giáo dục: 19
– Tăng cường bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ thông qua các lớp tập huấn, hội thảo chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên để từng bước tháo gỡ khó khăn, nâng cao chất lượng giờ dạy. – Đầu tư cơ sở vật chất và các phương tiện dạy học từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất trong nhà trường. * Tài liệu, tư liệu tham khảo – Tiếng Việt – sách giáo viên (từ lớp 1đến lớp 5) – Chuyên san tạp chí Giáo dục Tiểu học. – Đổi mới phương pháp giáo dục ở Tiểu học.
MỤC LỤC THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN TÓM TẮT SÁNG KIẾN MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến 1.1. Lý do chọn sáng kiến 1.2. Phạm vi nghiên cứu 20