Top 10 # Những Biện Pháp Cải Thiện Môi Trường Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Những Giải Pháp Cải Thiện Môi Trường Kinh Doanh Năm 2022

Pháp luật & Xã hội đưa tin, tiếp tục thực hiện mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể định hướng đến năm 2021 theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2019 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giảỉ pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021.

Nghị quyết nêu rõ, 7 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2020 gồm: 1- Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện đầy đủ, nhất quán và hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể đề ra tại Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2019; 2- Các bộ được phân công làm đầu mối theo dõi các bộ chỉ số và các bộ, cơ quan được phân công chủ trì, chịu trách nhiệm đối với các nhóm chỉ số, chỉ số thành phần; 3- Tiếp tục cải thiện điểm số và thứ hạng các chỉ số môi trường kinh doanh; 4- Cải cách thực chất các các quy định về điều kiện kinh doanh; 5- Tiếp tục thực hiện cải cách toàn diện công tác quản lý, kiểm tra chuyên ngành và kết nối Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN; 6- Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4; 7- Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Với nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục cải thiện điểm số và thứ hạng các chỉ số môi trường kinh doanh, trong đó, về Khởi sự kinh doanh, Bộ Tài chính trong quý I năm 2020 kiến nghị sửa đổi Nghị định số 139/2016/NĐ-CP ngày 04/10/2016 của Chính phủ quy định về lệ phí môn bài theo hướng lùi thời hạn khai, nộp lệ phí môn bài vào ngày 30 tháng 01 của năm kế tiếp; giám sát việc thực thi quy định đối với thủ tục đặt in/ tự in hóa đơn và thông báo phát hành đảm bảo đúng thời hạn 04 ngày theo quy định (trong đó thủ tục đặt in/ tự in hóa đơn là 02 ngày; thông báo phát hành là 02 ngày); đối với thủ tục mua hóa đơn đảm bảo giải quyết ngay trong ngày; đẩy mạnh việc sử dụng hóa đơn điện tử theo Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 của Chính phủ quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu xây dựng Hệ thống thông tin khai trình lao động trực tuyến kết nối với Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Hoàn thành trong quý IV năm 2020.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) theo hướng bãi bỏ hoặc đơn giản hóa các thủ tục không cần thiết, không phù hợp nhằm rút ngắn thời gian và chi phí gia nhập thị trường. Hoàn thành và trình Quốc hội vào kỳ họp tháng 5 năm 2020.

Bộ Xây dựng rà soát lại quy trình, thủ tục cấp giấy phép xây dựng nhằm rút ngắn thời gian cấp giấy phép và thanh tra, kiểm tra xây dựng không quá 50 ngày; nghiên cứu, đề xuất áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư xây dựng nhằm giảm số lượng các cuộc kiểm tra, số lần phê duyệt; hoàn thành trong quý III năm 2020.

Về Tiếp cận tín dụng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam tiếp tục triển khai hiệu quả các giải pháp duy trì chỉ số chiều sâu thông tin tín dụng; chỉ đạo các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp được tiếp cận tín dụng công bằng, minh bạch.

Cải cách thực chất các các quy định về điều kiện kinh doanh

Bộ Tư pháp trong quý IV năm 2020 hoàn thành nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định hướng dẫn các quy định của Bộ luật dân sự 2015 về giao dịch bảo đảm, trong đó hoàn thiện các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm, thứ tự ưu tiên thanh toán… theo hướng đơn giản hóa quy định về hồ sơ và thực hiện triển khai đăng ký, sửa đổi, bổ sung, xóa đăng ký biện pháp bảo đảm theo phương thức trực tuyến…

Bộ Tư pháp tăng cường chất lượng thẩm định ban hành điều kiện đầu tư kinh doanh trong các dự thảo Luật, Nghị định bảo đảm tuân thủ đúng quy định của Luật Đầu tư và các Nghị định về điều kiện đầu tư kinh doanh.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ theo dõi, đánh giá tình hình và kết quả thực hiện cải cách toàn diện các quy định về điều kiện kinh doanh ở các bộ, ngành, địa phương; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 20/12/2020.

Bên cạnh đó, nghiên cứu, đề xuất giải pháp giải quyết ngay các vướng mắc kéo dài trong áp dụng thuế cho nguyên liệu, vật tư dư thừa từ quá trình sản xuất xuất khẩu và gia công xuất khẩu; chủ trì theo dõi tình hình, đánh giá kết quả thực hiện cải cách về quản lý, kiểm tra chuyên ngành; đánh giá mức độ thay đổi và tác động đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 20/12/2020.

Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, phân luồng ưu tiên, công nhận lẫn nhau trong quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hoạt động xuất nhập khẩu thủy sản; hướng dẫn và phân biệt giữa kiểm dịch và kiểm tra an toàn thực phẩm; hướng dẫn cụ thể, rõ ràng về cách thức kiểm tra (nhất là kiểm tra cảm quan), đảm bảo thực hiện nhất quán, tránh phát sinh chi phí cho doanh nghiệp; chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính rà soát, sửa đổi Thông tư số 285/2016/TT-BTC về cách tính phí, lệ phí trong công tác thú y nhằm giảm chi phí bất hợp lý cho doanh nghiệp.

Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, đề xuất và thực hiện các giải pháp nhằm hạn chế việc áp đặt và gia tăng phí của các hãng tàu và phụ phí của cảng.

Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu khác của Nghị quyết là đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4. Cụ thể, Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chỉ đạo thực hiện cung cấp ít nhất 30% số dịch vụ công trực tuyến thuộc thẩm quyền giải quyết ở cấp độ 4; cho phép người dân, doanh nghiệp thanh toán không dùng tiền mặt bằng nhiều phương tiện khác nhau; tích hợp lên Cổng dịch vụ công quốc gia theo lộ trình; đẩy mạnh phương thức tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích.

Bộ Thông tin và Truyền thông đẩy nhanh tiến độ cấp phép khai thác băng tần 2.6GHz triển khai mạng 4G cho các doanh nghiệp viễn thông theo đúng quy định của pháp luật; trước ngày 20 tháng 6 và trước ngày 20/12/2020, tổng hợp kết quả thực hiện 6 tháng và một năm gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương) và Văn phòng Chính phủ để tổng hợp vào báo cáo chung về tình hình, kết quả thực hiện Nghị quyết.

Tổng hợp, đánh giá kết quả thực hiện Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 ban hành theo Quyết định số 2545/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ; đề xuất biện pháp đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt trong thời gian tới. Hoàn thành trong quý IV năm 2020.

Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về cơ chế tài chính của các tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp trong việc chi trả phí dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, đảm bảo áp dụng và thực hiện thống nhất. Hoàn thành trong quý IV năm 2020.

Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo tất cả các trường học phối hợp với các tổ chức tín dụng, tổ chức trung gian thanh toán thu học phí bằng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt; đến hết năm 2020, 100% trường học trên địa bàn đô thị chấp nhận thanh toán học phí qua ngân hàng; khuyến khích các trường học xây dựng, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật để kết nối, chia sẻ thông tin với ngân hàng, thực hiện thu học phí bằng phương thức điện tử.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam xây dựng và ban hành theo thẩm quyền các hướng dẫn, tiêu chuẩn, lộ trình chuẩn hóa thông tin dữ liệu về người nhận lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, các chế độ an sinh xã hội để kết nối chia sẻ thông tin với các tổ chức tín dụng, tổ chức trung gian thanh toán nhằm phục vụ chi trả các chế độ an sinh xã hội, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội qua ngân hàng.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam chỉ đạo Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh vận động, khuyến khích người nhận lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội qua các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt với mục tiêu đạt 50% số người nhận lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, mai táng phí, tử tuất,… sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt ở khu vực đô thị.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chỉ đạo tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ người hưởng nhận các khoản trợ cấp qua các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, bảo đảm trên địa bàn đô thị đạt ít nhất 30% đến hết năm 2020.

Bộ Y tế chỉ đạo các bệnh viện phối hợp với các tổ chức tín dụng, tổ chức trung gian thanh toán để thu viện phí bằng phương thức không dùng tiền mặt; phấn đấu đạt mục tiêu đã được xác định tại Quyết định số 241/QĐ-TTg ngày 23/2/2018 của Thủ tướng Chính phủ là 50% bệnh viện tại các thành phố lớn chấp nhận thanh toán viện phí qua ngân hàng.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện phương thức tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích; trước ngày 20/12/2020, báo cáo tình hình và kết quả thực hiện mục tiêu 100% trường học, bệnh viện, công ty bán lẻ điện, công ty cấp, thoát nước, công ty vệ sinh môi trường, các công ty viễn thông, bưu chính trên địa bàn đô thị phối hợp với các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để thu học phí, viện phí, tiền điện… bằng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, ưu tiên giải pháp thanh toán trên thiết bị di động, thanh toán qua thiết bị chấp nhận thẻ, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương) để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Tăng Cường Biện Pháp Cải Thiện Chất Lượng Môi Trường Sống

Trong những ngày qua, do xuất hiện nhiều dạng thời tiết cực đoan: Mây mù dày đặc, nhiệt độ xuống thấp và hiện tượng nghịch nhiệt, dẫn đến Chỉ số chất lượng không khí (AQI) của thành phố ở mức “xấu” và “rất xấu”, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân và hoạt động du lịch, sản xuất, kinh doanh.

Để khắc phục, hạn chế ô nhiễm, cải thiện chỉ số chất lượng không khí, UBND thành phố chỉ thị các đơn vị, tổ chức và cá nhân nghiêm túc thực hiện các biện pháp cấp bách, quyết liệt để giảm thiểu nguồn phát sinh khí thải độc hại, bụi mịn tác động tiêu cực đến chất lượng môi trường không khí trên địa bàn.

Chủ tịch UBND thành phố yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) chỉ đạo Chi cục Bảo vệ môi trường Hà Nội vận hành liên tục, ổn định hệ thống quan trắc môi trường không khí, thường xuyên tổng hợp kết quả thông báo công khai các số liệu ô nhiễm không khí hệ thống quan trắc của thành phố và một số cơ quan trên báo, Đài Phát thanh truyền hình Hà Nội, Cổng thông tin điện tử Sở TN&MT để người dân biết, có kế hoạch hành động, phòng tránh.

Sở Y tế xây dựng phương án cụ thể để kịp thời hướng dẫn người dân các biện pháp phòng ngừa, bảo đảm sức khỏe trong những ngày chất lượng không khí ở mức “xấu”, “rất xấu” và “nguy hại”.

Trong các ngày chất lượng không khí ở mức “kém” trở lên, cần phải áp dụng ngay các biện pháp: Sở Xây dựng chỉ đạo, đôn đốc các Công ty Môi trường đô thị, các quận, huyện rà soát kiểm tra, tăng cường tần suất sử dụng xe hút bụi, thu rác và dùng xe tưới nước rửa đường.

Sở Giao thông Vận tải, Công an thành phố tăng cường lực lượng điều tiết giao thông tránh ùn tắc trong giờ cao điểm, yêu cầu tất cả xe tải trọng tải từ 1,5 tấn trở lên chỉ được đi vào thành phố từ vành đai 3 trở vào từ 22h đêm hôm trước đến 6h sáng hôm sau.

UBND thành phố cũng yêu cầu Sở TN&MT, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Văn hóa và Thể thao, UBND các quận, huyện, thị xã tổ chức tuyên truyền, vận động người dân tích cực, hưởng ứng tham gia bảo vệ môi trường. Không để người dân đốt rác thải tự phát, đốt rơm rạ và phụ phẩm nông nghiệp sau thu hoạch. Các hộ gia đình không sử dụng bếp than tổ ong hoặc các nhiên liệu than cấp thấp trong sinh hoạt, kinh doanh. Không vứt rác bừa bãi, hạn chế việc đốt hương, vàng mã trong hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng. Hưởng ứng Chương trình trồng cây xanh trên địa bàn do UBND thành phố phát động, tích cực trồng thêm cây xanh tại khu vực mình sinh sống, tại mỗi hộ gia đình. Tham gia lưu thông bằng các phương tiện giao thông công cộng, hạn chế sử dụng phương tiện cá nhân. Ưu tiên sử dụng các loại phương tiện giao thông chạy bằng nhiên liệu sạch, nhiên liệu tái tạo, giảm phát thải ô nhiễm môi trường. Phát huy vai trò giám sát của Nhân dân đối với các hoạt động gây ô nhiễm môi trường, người dân cung cấp video, hình ảnh các phương tiện chở quá tải, không che chắn gây phát tán bụi, phế thải tới các cơ quan chức năng để xử lí vi phạm theo quy định…

Cải Thiện Môi Trường Đầu Tư Kinh Doanh

Báo cáo Chỉ số thuận lợi kinh doanh của Ngân hàng thế giới được công bố vào cuối năm 2016 cho biết: Môi trường kinh doanh của Việt Nam được ghi nhận có sự cải thiện mạnh mẽ nhất trong vòng một thập kỷ qua.

Theo đó, thứ hạng của Việt Nam hiện đã tăng 9 bậc, từ vị trí 91/189 quốc gia lên vị trí thứ 82 của bảng xếp hạng. Những cải thiện về môi trường kinh doanh của Việt Nam trong những năm qua đã cho thấy thông điệp mạnh mẽ cùng định hướng rõ ràng, đồng bộ từ Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và Doanh nghiệp.

Đầu tiên phải kể đến việc Thủ tướng Chính phủ ban hành nghị quyết 35/NQ-CP về việc hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, phấn đấu đến năm 2020, xây dựng đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững. Tiếp đó là Nghị quyết 19 về các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia với mục tiêu đến năm 2017 Việt Nam đạt mức trung bình của nhóm nước ASEAN 4 trên một số chỉ tiêu về năng lực cạnh tranh thuộc nhóm chỉ số nâng cao hiệu quả.

Bên cạnh đó, nhờ sự nỗ lực vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương, hàng nghìn thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, giấy phép con bất hợp lý đã được bãi bỏ… tạo niềm tin cho doanh nghiệp. Năm 2016, lần đầu tiên, số doanh nghiệp thành lập mới tại Việt Nam đạt con số kỷ lục với hơn 110.000 doanh nghiệp. Đây là tín hiệu đáng mừng thể hiện chủ trương cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, phát triển doanh nghiệp của Chính phủ đã đi đúng hướng, phấn đấu đến năm 2020, cả nước có trên 1 triệu doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh.

Mặc dù đã có sự chuyển biến đáng kể, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được cải thiện, tuy nhiên ở một số cơ quan, cơ sở và địa phương, tình hình chuyển biến còn khá chậm, hoạt động đầu tư, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp vẫn còn bị cản trở, gây khó khăn, thậm chí là bị sách nhiễu.

Để xảy ra tình trạng như vậy, ngoài những nguyên nhân khách quan như: trình độ năng lực của cán bộ còn yếu kém, tư duy bảo thủ trì trệ trong lề lối làm việc… thì nguyên nhân chính được chỉ tên đó là: lợi ích cá nhân và cục bộ tràn lan, sự thờ ơ vô trách nhiệm cũng như sự vào cuộc thiếu quyết liệt của các cấp, các ngành.

Đúng 13h30, buổi tọa đàm bắt đầu.

Toàn cảnh buổi tọa đàm

Tham gia tọa đàm có ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế VCCI; ông Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế; ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW; Ông Nguyễn Nhân Phượng – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh; Ông Nguyễn Văn Thời – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên; Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu.

Phần 1: Thực trạng tình hình cải cách thể chế và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam

Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế, VCCI – Điều phối chính buổi tọa đàm: Đối với VN, ít có giai đoạn nào môi trường đầu tư kinh doanh và phát triển DN được nhắc nhiều đến như thời gian qua. Người đứng đầu Chính phủ, các bộ ngành và địa phương đã tổ chức nhiều buổi đối thoại với doanh nghiệp để đưa ra các giải pháp, điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp.

Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế VCCI

Có thể nói một không khí mới đang bao trùm trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cũng như các biện pháp nhằm phát triển DN. Xu hướng tìm ra giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thể chế đang được đẩy mạnh. Có những vấn đề gai góc như thay đổi hạn điền, bãi bỏ điều kiện kinh doanh…đã có những thay đổi lớn. Nhiều địa phương cũng đã có những biện pháp mới để thu hút sự đầu tư của doanh nghiệp nhiều hơn cho địa phương. Vào tháng 4 tới, Thủ tướng Chính phủ sẽ gặp gỡ doanh nghiệp. Việc tổ chức tọa đàm hôm nay cũng như việc VCCI đang triển khai thu thập nhiều ý kiến của DN để đưa ra những hành động nhằm cải thiện môi trường kinh doanh là những tín hiệu rất tích cực.

– Thưa ông Phan Đức Hiếu, Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW là đơn vị đầu mối thực hiện Nghị quyết 19, theo ông đâu là điểm tích cực trong việc thực hiện Nghị quyết này?

Ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW: Thông thường, bất kỳ cuộc cải cách nào đó cũng có 2 câu hỏi cơ bản: Làm gì, làm như thế nào? Khi xác định được phương hướng thì tổ chức thực thi, thực hiện ra sao?

Ông Phan Đức Hiếu – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TW

Chúng ta không nên bàn nhiều về câu hỏi làm gì, làm như thế nào vì Nghị quyết 19 đã trả lời đầy đủ câu hỏi này. Nghị quyết 19 lần này đã xác định 250 giải pháp, có nghĩa là chúng ta có 250 công việc cụ thể để làm nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Không chỉ tính đến biện pháp ngắn hạn là cải thiện trực tiếp chất lượng, Nghị quyết 19 lần này còn tính đến giải pháp dài hạn nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Như vậy, về mặt chủ trương, làm gì, chúng ta đã đi đúng hướng và được xác định. Vấn đề chính nằm ở chỗ chúng ta tổ chức thực thi giải pháp, biện pháp đặt ra thế nào?

Qua theo dõi 3 năm thực hiện Nghị quyết 19 và 1 năm thực hiện Nghị quyết 35, tôi cho rằng thách thức lớn nhất của chúng ta là làm thế nào để thực hiện đúng và đủ. Hiện, tôi vẫn chưa nhìn thấy việc thực hiện có chuyển biến. Cho đến năm 2017, chúng ta mới đạt được chuyển biến về nhận thức. Còn lại, kết quả đạt được còn hạn chế, còn khoảng cách rất lớn so với kỳ vọng của doanh nghiệp và cộng đồng xã hội.

Theo quan sát của tôi, trong thời gian sắp tới chúng ta sẽ gặp thách thức lớn, bởi để đạt được mục tiêu thì chúng ta phải nỗ lực rất nhiều. Nếu cứ duy trì cải cách đều thì thì chúng ta không thể có bước tiến, thậm chí còn có bước đi lùi.

– Từ góc nhìn của mình, TS Nguyễn Minh Phong đánh giá như thế nào về việc tạo dựng môi trường kinh doanh? Đã đạt yêu cầu chưa? Nếu lấy thang điểm 10, ông sẽ đánh giá như thế nào?

Ông Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế

TS Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia Kinh tế: Đây là câu hỏi rất hay nhưng cũng rất khó. Tôi đồng tình với ý kiến chia sẻ của anh Hiếu. Tôi bổ sung thêm hai câu hỏi: thứ nhất là mục tiêu của cải cách, hỗ trợ DN và Cách thực hiện như thế nào?

Về mục tiêu cải cách, tôi cho rằng giai đoạn 2011-2015 là giai đoạn cực kỳ quan trọng bởi thời điểm này đã kế thừa những gì của giai đoạn trước đó, DN đổ vỡ hàng loạt, áp lực hội nhập rất lớn và đặt ra yêu cầu phải quyết liệt cải cách với các mục tiêu cụ thể.

Mục tiêu thứ nhất là giảm thiểu gánh nặng cho DN, trong đó giảm thuế, tài chính; chi phí vốn cho DN (lãi suất, điều kiện tiếp cận, yêu cầu thế chấp); thể chế của DN – một gánh nặng tồn tại dai dẳng đối với DN.

Mục tiêu thứ hai là hội nhập quốc tế.

Do đó, chúng ta phải chủ động thích ứng với việc đưa ra các định hướng, quy định theo thông lệ quốc tế. Đây là cái đích để xây dựng cho phù hợp.

Mục tiêu thứ ba và đồng thời cũng là cách làm đó là chúng ta chuyển từ một Nhà nước – nhà đầu tư trở thành 1 Nhà nước kiến tạo, pháp quyền, hành động, liêm chính hỗ trợ cho DN. Chính phủ trong suốt 4 năm qua từ 2011-2016 đều rất nhất quán. Việc đưa ra các Nghị quyết 19 lặp lại 4 lần, nghị quyết 35, các chỉ thị… tạo điểm nhấn, khác biệt và thể hiện quyết tâm nhất quán.

Về kết quả: Rõ ràng về mặt chấm điểm, các tổ chức trong và ngoài nước đều đánh giá là tốt hơn, tiêu biểu là WB và Diễn đàn kinh tế thế giới. Ở góc độ Luật, những ghi nhận trong pháp lý được rõ hơn. Người đứng đầu Chính phủ và hệ thống quản lý Nhà nước đã tỏ ra quyết tâm chính trị cao. Do vậy, chưa bao giờ tâm lý hứng khởi và niềm tin đầu tư vào Việt Nam được thể hiện rõ như vậy.

Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng cần phải thận trọng bởi: Đội ngũ cán bộ thừa hành vẫn như vậy cả về chất lượng, lợi ích nhóm vẫn còn, chưa có nhiều thay đổi trong cải cách tiền lương… , thậm chí các Nghị quyết Chính phủ mới được chép lại vào các chương trình hành động ở địa phương, chứ chưa được cụ thể hoá thành các dự án, kế hoạch, mục tiêu, giải pháp cụ thể để thực hiện.

Chất lượng của các văn bản pháp lý chưa phải là cao, hiện tượng chậm trễ, copy paste… vẫn còn tồn tại. Thậm chí, các chỉ số bôi trơn và tham nhũng còn rất nặng, với trên 80% DN buộc phải bôi trơn và Việt Nam hiện đứng thứ 2 về tham nhũng nhất Châu Á chỉ sau Ấn Độ theo xếp hạng của Tổ chức minh bạch thế giới. Nếu chấm điểm, về pháp lý tôi chấm 7 điểm nhưng về thực tiễn tôi chấm 5 điểm.

– Thưa ông Nguyễn Văn Thời, tại các tỉnh đều có Chương trình hành động về NQ 19 và NQ 35, từ góc nhìn của một doanh nghiệp địa phương đang hoạt động, anh cho biết những cảm nhận, đánh giá về môi trường kinh doanh ở địa phương, các doanh nghiệp của tỉnh Thái Nguyên có ý kiến gì môi trường kinh doanh?

Ông Nguyễn Văn Thời – Chủ tịch Hiệp Hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên.

Ông Đậu Anh Tuấn: Những câu chuyện ông Thời đưa ra tại địa bàn Thái Nguyên đã chuyển tải những thông điệp rất ý nghĩa. Vừa qua Chính phủ đã đưa ra những quyết sách từ những yêu cầu thực tiễn. Trước đây chính quyền địa phương không quan tâm lắm nhưng từ khi có PCI thì chính quyền đã có những hành động thiết thực nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Hay như Nghị quyết 35 cũng xuất phát từ thực tiễn khi trong cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng và DN, nhiều DN đã đưa ra nhiều khúc mắc mà DN đang gặp phải…

– Nghị quyết 35 cũng có đề cập đến vấn đề Lãnh đạo tỉnh phải thường xuyên đối thoại với doanh nghiệp trong năm, tôi muốn đặt câu hỏi với ông Nguyễn Nhân Phượng – Chủ tịch Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh, tỉnh có nhiều lợi thế trong việc thu hút FDI, vậy trong bối cảnh này, các doanh nghiệp tư nhân có bị mất lợi thế không? Làm thế nào để doanh nghiệp tư nhân có được tiếng nói đối với lãnh đạo tỉnh?

Ông Nguyễn Nhân Phượng, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh

Ngay sau khi có Nghị quyết, Chủ tịch UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị gặp gỡ doanh nghiệp. Hội nghị đã quyết định thành lập tổ công tác giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Lần đầu tiên sau 10 năm hoạt động, Hiệp hội DN tỉnh Bắc Ninh được tỉnh tạo điều kiện đến việc giải quyết khó khăn, kiến nghị. Cụ thể, Chủ tịch tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo: Các sở, ban ngành phải trả lời tất cả những kiến nghị, khó khăn vướng mắc của DN từ Hiệp hội bằng văn bản. Đây là điểm rất mới và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, tránh tình trạng lảng tránh hoặc chỉ trả lời bằng miệng như trước đây.

Bắc Ninh có nhiều DN nước ngoài đầu tư, hoạt động trên địa bàn tỉnh, Hiệp hội đã nhiều lần kiến nghị với tỉnh tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm công nghiệp phụ trợ và cung cấp các dịch vụ nhà ở, ăn nghỉ,…phục vụ cho người nước ngoài.

Việc cung cấp các dịch vụ hiện đã thực hiện tốt, các doanh nghiệp đã được tham gia. Tuy nhiên, về công nghiệp phụ trợ hiện còn khó khăn. Bởi riêng việc DN gặp gỡ được người có quyền trong DN nước ngoài đã là rất khó khăn, đa phần chỉ thông qua đại diện người Việt, mà người Việt thường đã có những mối làm ăn của người Việt rồi, khó để DN tỉnh tham gia vào. Do đó, việc gắn kết và quan hệ giữa DN trong địa bàn tỉnh với DN nước ngoài còn khó khăn. Đặc biệt, thực hiện Nghị NQ 35, sau khi thực hiện tổ công tác, tỉnh Bắc Ninh đã thành lập đề án “Bác sĩ doanh nghiệp”. Thậm chí, những khó khăn của doanh nghiệp có thể báo trực tiếp đến chủ tịch tỉnh. Đây là việc làm có tác dụng tốt.

DN trên địa bàn còn gặp khó về thủ tục hành chính. Cụ thể, DN phải thực hiện một “chặng đường dài” của những thủ tục. Ví dụ 1 DN có thủ tục xin đất được chủ tịch tỉnh đồng thuận, mà đây lại là dự án xử lý nước thải và chuyển đổi từ đất công mà cũng mất đến 1 năm dài để thực hiện cấp đất. Trong rất nhiều biện pháp Nhà nước đề ra, khó nhất với DN vẫn là vấn đề đất. Nhà nước nếu đứng ra hỗ trợ doanh nghiệp giải phóng mặt bằng thì sẽ đơn giản hơn. Nhưng Nhà nước lại “đá bóng” sang chân DN, mà DN tự thỏa thuận với dân là việc vô cùng khó khăn. Vì vậy, tôi mong nhà nước có chính sách giúp đỡ DN, để hiện thực hóa mục tiêu 1 triệu DN của Thủ tướng CP.

Chúng ta muốn phát triển DN mà không có đất thì phát triển vào đâu. Nếu để từng DN xin thuê ở địa phương sẽ thành manh mún sau xử lý môi trường rất khó, thậm chí một số dự án giao DN đền bù nhưng nhiều yếu tố dẫn đến viêc không thể thực hiện dự án.

Chúng tôi rất mong Nhà nước, Sở Kế hoạch Đầu tư, Sở Công thương cùng giúp sức cho doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV. Bên cạnh đó, chúng tôi mong muốn sau khi có đơn thì chậm nhất là 3 tháng cơ quan nhà nước cấp huyện có thể có quyết định cho chúng tôi. Nếu có 1 đơn vị dịch vụ giúp DN làm thủ tục thì tiến trình phát triển DN sẽ nhanh lên. Còn thủ tục hành chính là cả 1 chuỗi nên dẫn đến chậm trễ cho tiến độ triển khai dự án của DN.

Từ thực trạng trên, tôi xin đề xuất các ngân hàng cần có chính sách hỗ trợ cho DN, đối ứng vốn cho DN vay vốn, đầu tư vốn vay khi DN có dự án tốt và khả thi. Cụ thể, khi DN có 30% vốn, các đơn vị tín dụng, ngân hàng nên quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ tạo nguồn vốn cho DN triển khai dự án.

– Ở góc độ của một doanh nghiệp, ông Hoàng Trần Hiếu, Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu có những đánh giá gì về môi trường kinh doanh trong năm qua?

Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu.

Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu: Là một doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm sạch, chúng tôi đánh giá Nghị quyết 35 của Chính Phủ đã mang lại lợi thế cho DN trẻ. Tuy nhiên đi vào đầu tư cho lĩnh vực này, chúng tôi thấy nảy sinh một số vấn đề về nguồn cung và cầu. Cụ thể, nhu cầu thực phẩm sạch cao, nguồn cung cao nhưng lại tồn tại mức mong muốn. Về phía DN, để cung cấp được thực phẩm sạch, chúng tôi phải đầu tư sản xuất, đầu tư kinh doanh. Về phía người tiêu dùng có thể bỏ nhiều tiền để mua thực phẩm sạch nhưng không có căn cứ để xác định thực phẩm đó sạch và bản thân người nông dân cũng không tự tin để cam kết cung cấp dài hạn thực phẩm sạch bởi làm thực phẩm sạch cần phải đầu tư cao.

Để giải quyết vấn đề này, tôi nghĩ cần sự vào cuộc của Chính phủ định hướng, tổ chức giúp DN, người nông dân hay nhà sản xuất sản xuất tập trung, quy mô hơn. Và để làm được điều này, tôi cho rằng, lợi ích, đạo đức và luật pháp và là 3 yếu tố luôn đồng hành và cần đồng bộ với nhau. Hiện nay, thủ tục hành chính đã có thay đổi và đi vào thực tế. Tuy nhiên, nhà nước sẽ quản lý vĩ mô còn việc thực hiện cụ thể cần có các Hiệp hội, tổ chức tiêu dùng.

Ông Nguyễn Văn Thời: Hiện nay, các rào cản đối với DNVVN vẫn đang còn như: Việc áp dụng bộ luật thuế với DNVVN như hiện tại không hợp lý. Hơn nữa, đăng ký kinh doanh đã có đăng ký điện tử rồi nhưng nếu có quy trình, phần mềm thống nhất thì tốt hơn. Một số DN không hiểu rõ về việc đăng ký kinh doanh điện tử, nên có DN làm, DN không làm. Do vậy, cơ quan quản lý cần đưa ra chế tài bắt buộc đăng ký kinh doanh phải điện tử thì sẽ nó thành mệnh lệnh và buộc các DN phải làm.

Bên cạnh đó, cơ chế một cửa cũng xuất phát từ việc ban hành chính sách nhưng không quy định cụ thể. Ví như trong cuộc họp, các lãnh đạo Sở ngành không họp cùng DN mà để cho thư ký đi, sau đó thư ký gửi lại biên bản họp cho lãnh đạo tỉnh xem xét. Chính việc lòng vòng này khiến DN phải đợi, mất nhiều thời gian. Thiết nghĩ, nên có chế tài phạt những đơn vị thực hiện không tốt.

Phần 2: Các giải pháp giúp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam

Qua quan sát của địa phương cho thấy chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ về cơ chế chính sách đã có thể tạo thuận lợi cho DN rất nhiều. Xin hỏi ông Phan Đức Hiếu về việc đơn giản hóa thủ tục kinh doanh?

Hiện nay, những địa phương tích cực đang xử lý vấn đề một cách rất cơ học. Cụ thể, với mục tiêu như vậy, họ ép cơ học đối với các cơ sở, phòng ban hoàn thành bằng cách nhanh nhất…. Như vậy rất áp lực và tốn kém nhân sự. Tôi cho rằng về lâu dài, nhà nước phải rút dần và trao lại quyền cho xã hội, đặc biệt là các hiệp hội doanh nghiệp. Hiện, nhiều địa phương tổ chức đối thoại giữa chính quyền và doanh nghiệp, nhưng đối thoại vẫn mang tính hình thức, chưa hiệu quả, nhiều kiến nghị không được xử lý. Theo tôi, chúng ta nên giao cho một cơ quan độc lập tổ chức buổi đối thoại. Cơ quan này có trách nhiệm nghiên cứu, tập hợp kiến nghị của doanh nghiệp và cập nhật các giải pháp của chính quyền. Mọi doanh nghiệp có kiến nghị đều được giải quyết như nhau.

Đối với các địa phương chưa tích cực, không tích cực, cần tạo ra một môi trường làm việc minh bạch, công bằng trong việc đánh giá hiệu quả của công chức. Có như vậy mới thu hút được những công chức có tâm vào làm việc, tránh tình trạng đặt người không đúng chỗ.

Tôi thấy hiện nay duy nhất chỉ có VCCI là có 1-2 chỉ số là đánh sát, giám sát quá trình thực thi. Con số này quá ít, cần phải tăng cường vai trò của xã hội để tăng cường phản biện xã hội. Hiện, phản biện của doanh nghiệp còn rời rạc, thiếu chuyên nghiệp. Ở nước ngoài, bản kiến nghị của doanh nghiệp thường mang tính xây dựng rất cao, là tập hợp ý kiến của nhiều doanh nghiệp về các nhóm vấn đề. Vì vậy, tôi kêu gọi các hiệp hội doanh nghiệp, các địa phương nên tập hợp lại với nhau, hành xử một cách chuyên nghiệp để gia tăng sức ép đối với nhà nước. Có như vậy, các kiến nghị của doanh nghiệp mới có cơ hội được giải quyết, qua đó cải thiện được môi trường kinh doanh tại các địa phương.

– Thưa ông Nguyễn Minh Phong, ông có thấy sự chuyển động chưa đồng đều ở các bộ ngành hay không trong việc thực hiện NQ 19 và NQ 35?

Chuyên gia Kinh tế Nguyễn Minh Phong

Tôi cho rằng, độ chuyển động có đồng đều hay không phụ thuộc vào quy chuẩn và quy trình được đưa ra. Ví dụ có địa phương đưa ra một số quy định rất là tốt và được ban hành thực hiện từ trên xuống dưới như: với một vấn đề nếu quá 3 ngày không có phản hồi thông tin thì coi như là đồng ý; đi họp thay thì ý kiến phát biểu đại biểu chính là là ý kiến của Giám đốc Sở.

Thực tế ghi nhận những thành tựu thấy rõ: thời gian nộp thuế giảm, điện tử hoá rất nhiều…đặc biệt ở một số địa phương và Hà Nội đã xây dựng được bộ tiêu chí điện tử rất cao. Chính điều này góp phần giảm thiểu thời gian của Nhà nước và tạo điều kiện hỗ trợ cho DN.

Ngành Thuế đã có sự cải thiện rất tốt từ 28% xuống 20%. Thậm chí nhiều DN còn cho rằng cải tiến như thế là được rồi. Tuy vậy, ở một số lĩnh vực khác như đất đai chẳng hạn sẽ gặp khó khăn hơn. Do đó, khi chấm điểm chỉ số cũng phải xem xét đối với từng lĩnh vực và mức độ khó khăn riêng để đánh giá mức độ chuyển động. Tôi cho rằng mức độ đồng đều còn phụ thuộc vào trách nhiệm của người đứng đầu. Nếu họ có chế tài lớn, chiến dịch cao điểm như bầu cử thì mức độ chuyển động cũng khác nhau.

Tôi cho rằng có 4 vấn đề ảnh hưởng đến xu hướng, tốc độ và kết quả thực tế của những chuyển động về cải cách. Thứ nhất là nội dung yêu cầu và lộ trình hội nhập. Thứ hai là vai trò của người đứng đầu thực sự quan trọng. Nếu người đứng đầu (Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ tịch tỉnh, Bí thư…) nghiêm túc và trực tiếp chỉ đạo thì có sự đẩy nhanh trong việc thực hiện. Thứ ba là xây dựng về quy trình khi được chuẩn hoá, thể chế hoá sẽ đi vào hành động. Thứ tư là dựa trên nền tảng phát triển công nghệ thông tin để quản lý dữ liệu thông tin trong tỉnh và trên cả nước.

Ông Đậu Anh Tuấn: Ông Phong có nhắc đến cải cách của ngành thuế. Vừa qua tôi có tham dự một hội thảo về vấn đề này. Điều tôi bất ngờ là khi Bộ Tài chính sử dụng điều tra sự hài lòng của DN về cải thiện ngành thuế đều phải công khai, xây dựng nhật ký điện tử khi đến làm việc với DN…Tôi cũng rất bất ngờ với quy định thanh tra công vụ và không công nhận tranh tra viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nếu phát hiện có chi phí bôi trơn…Hy vọng những chỉ đạo, quy định này sẽ được thực hiện trong thời gian tới.

– Trong Nghị quyết 35 có nội dung phải cắt giảm chi phí cho DN, ông Nguyễn Văn Thời có đánh giá thế nào về chi phí kinh doanh, đặc biệt đối với hoạt động xuất nhập khẩu của VN như thế nào? Có cách nào để cắt giảm chi phí kinh doanh cho DN trong thời gian tới?

Tuy nhiên để đạt được điều kiện của Thông tư 72 thì DN phải tốt thực sự. Còn nếu đánh giá chung về mặt xu hướng, thì xu hướng chi phí giảm là rõ ràng. Ví dụ như ngành thuế áp dụng hoàn thuế điện tử, theo đó nếu DN có đủ chứng từ kê khai thì tiền về ngay, không bị tồn đọng. Đây cũng là chi phí giảm. Còn các thủ tục hành chính thì khi có Nghị quyết 19, Nghị quyết 35 và các chỉ thị, nghị quyết riêng của tỉnh thì rất tốt cho DN. Chi phí đầu vào, chi phí gia nhập thị trường cho DN đã giảm rõ rệt.

– Một trong những xu hướng và đã được các địa phương tổ chức khá tốt như xây dựng trung tâm tỉnh, cắt giảm TTHC, việc này đã tạo động lực cho lãnh đạo địa phương. Xin hỏi ông Hiếu, với DN trẻ, việc chuyển động ấy đã làm hài lòng DN?

Ông Hoàng Trần Hiếu – Chủ tịch HĐQT Công ty Việt Nam Toàn cầu: Nghị quyết 35 có đề cập đến vấn đề giảm chi cho DN. Về mặt chủ trương điều này rất có lợi cho DN từ chính sách về thuế, lương theo năng suất lao động, phí đường bộ,…Nhưng yếu tố quan trọng nhất tôi nghĩ đó là giảm phí cơ hội thời gian và thủ tục hành chính. Tôi rất quan tâm tới yếu tố thời gian 48h của anh Phượng, việc giảm chi và “quy trình 3-5 ngày”, “1 dừng” của anh Phong vừa đề cập. Về chủ trương, đứng ở góc độ doanh nghiệp tôi rất hài lòng.

– Năm ngoái tôi có tham gia một hội đồng đo thời gian giải phóng hàng và thấy tỷ lệ doanh nghiệp giải phóng hàng tương đối ít. Cụ thể, tỷ lệ doanh nghiệp giải phóng hàng dưới 48 giờ thì chỉ có 38,5% lô hàng được giải quyết. Điều này cho thấy việc rút ngắn thời gian thông quan vẫn còn lớn. Tôi muốn hỏi ông Phượng, với doanh nghiệp đang hoạt động, ông đánh giá thế nào về chi phí kinh doanh trong thời gian vừa rồi, làm thế nào để cắt giảm hơn nữa?

Ông Nguyễn Nhân Phượng: Nói về chi phí kinh doanh, đối với doanh nghiệp chúng tôi quan tâm nhất đến là chi phí thời gian. Để giảm được chi phí, trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp đều chú trọng tới đổi mới công nghệ bởi việc đổi mới công nghệ giúp làm tăng năng suất lao động, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng sức cạnh tranh. Song song với đó là chi phí đối với lao động, thị trường lao động hiện rất được quan tâm. Trong đó, DNNVV cũng song song cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài về lực lượng lao động, kéo theo chi phí lao động tăng lên. Nhưng bản thân doanh nghiệp luôn xác định đó là chi phí thiết yếu và vẫn được duy trì bởi chi phí lao động tăng sẽ nâng cao được chất lượng và năng suất sản phẩm, như vậy vẫn đảm bảo sự phát triển cho doanh nghiệp và giảm giá thành sản phẩm, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng

– Vậy giải pháp như thế nào để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35?

Ông Nguyễn Văn Thời: DN chúng tôi đang tự thân đề xuất, tự thân kiến nghị. Chúng tôi có thể tiếp cận những DN phát triển nhất trên thế giới, sau đó chúng tôi cũng mày mò, học tập và làm theo. Ngành may đã xây dựng chương trình kiến nghị để báo cáo chủ tịch nước. Từ đó nhà nước ban hành chính sách. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của ngành dệt may hiện nay là chất lượng nguồn nhân lực để tạo ra sản phẩm, mẫu mã tốt nhất, trong khi nguyên liệu kém. Để ngành dệt may dần dần phát triển, từng DN phải đặt ra lộ trình xây dựng thương hiệu trong nước và tiến ra nước ngoài. Chính vì mục tiêu như vậy mà thấy vướng mắc gì chúng tôi kiến nghị Nhà nước cái đó Những năm tới chúng tôi cần cơ quan quản lý ra “thước đo”, Hiệp hội DN và VCCI sẽ là người “đo” kết quả hoạt động, từ đó sẽ thúc đẩy sự phát triển.

Ông Hoàng Trần Hiếu: Phải chuyển từ việc chủ động của Nhà nước đối thoại với doanh nghiệp thành việc đề xuất của tổ chức nghề nghiệp, doanh nghiệp gặp gỡ cơ quan Nhà nước. Có thể là đối thoại trong phạm vi nhỏ, giúp doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp dễ dàng chia sẻ và đề xuất với cơ quan chức năng. Đặc biệt, để NQ 35 đi vào đời sống phải chú trọng, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu từ phía các Hiệp hội và cơ quan Nhà nước. Phải có cơ chế giám sát và kiểm điểm với người đứng đầu các đơn vị này.

Ông Nguyễn Minh Phong: Chúng tôi tin rằng sắp tới tinh thần nghị quyết 19, nghị quyết 35 sẽ tiếp tục được lặp lại, thậm chí ở mức độ cao hơn với tinh thần Chính phủ kiến tạo. Do đó, vấn đề làm thế nào để tăng hiệu quả vẫn sẽ phải tiếp tục. Như tôi đã nói từ đầu với những kết quả thực hiện bước đầu, chúng ta hãy bám vào đó để thực hiện tiếp. Các cấp, ngành, VCCI cần chủ động rà soát lại cái văn bản hội nhập để xây dựng và tạo thuận lợi cho DN. Chính phủ cần họp định kỳ và những nội dung của nghị quyết phải được đưa ra để nghe, báo cáo và kịp thời giải quyết cho DN. Bên cạnh đó, xác lập tốt hơn vai trò của người đứng đầu (Thủ tướng, Quốc hội, Bộ trưởng…) để có răn đe thực sự mạnh mẽ tạo ra sức ép mạnh cho người thừa hành; đồng thời sẽ lan toả tới từng nhân viên thấp nhất. Và chỉ khi nào sự lan toả này tới được tới người cuối cùng thì mới giải quyết được vấn đề. Đồng thời, xây dựng được hệ thống thông tin, tiện cho tiếp cận và chia sẻ thông tin, khiếu nại đơn, kêu cứu của DN và được truyền tải trực tiếp thì những điểm cần phải gỡ sẽ nhận diện rất nhanh. Ngoài ra, vai trò của cơ quan báo chí, thanh kiểm tra, hiệp hội, quần chúng… là rất quan trọng. Nếu nhìn ở cấp độ khái quát có 3 việc phải làm: thứ nhất, xây dựng giá trị chuẩn quốc gia cho bộ, ngành, doanh nghiệp khi đó mới tạo ra thước đo đúng để nhận diện những cái sai loại bỏ. Thứ hai, xây dựng cơ chế tốt bảo vệ tốt lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng. Thứ ba, xây dựng một đội ngũ cán bộ.

Ông Đậu Anh Tuấn: Tôi đồng tình với quan điểm từ thực tiễn của anh Thời. Theo tôi muốn thay đổi việc gì đều phải có động lực. Đề xuất của anh Thời khiến tôi nhớ đến câu nói của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: “Cái gì không đo được tức là không cải cách mạnh mẽ được”. Đây là đòi hỏi cơ quan chiến lược như anh Hiếu đó là cần những thước đo cụ thể.

Nhóm PV

Cải Thiện Môi Trường Làm Việc Tại Doanh Nghiệp

Cải thiện điều kiện, môi trường làm việc giúp người lao động (NLĐ) đảm bảo sức khỏe thể chất và tinh thần, tích cực làm việc, góp phần tăng năng suất lao động, đưa doanh nghiệp (DN) ngày càng phát triển.

Cải thiện môi trường làm việc sẽ giúp đảm bảo sức khỏe cho người lao động, nâng cao năng suất lao động Trong ảnh: Người lao động ngành gỗ tại Khu công nghiệp Tam Phước (TP.Biên Hòa) trong giờ làm việc. Ảnh: H. Thảo

Tuy nhiên, thực tế cho thấy bên cạnh nhiều DN là “điểm sáng” trong cải thiện môi trường làm việc cho NLĐ, vẫn còn nhiều DN lơ là, chưa quan tâm đúng mức đến công tác đảm bảo an toàn vệ sinh lao động gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của NLĐ.

* Những cách làm hay

Là nhà máy kết cấu thép đầu tiên tại châu Á đạt tiêu chuẩn LEED Gold (chứng chỉ chứng nhận cho các công trình xây dựng xanh được cấp bởi Hội đồng Xây dựng công trình xanh Hoa Kỳ), trong quá trình hình thành và phát triển DN, Ban giám đốc Công ty cổ phần kết cấu thép Atad Đồng Nai (Khu công nghiệp (KCN) Long Khánh, chúng tôi Khánh) luôn tích cực cải thiện điều kiện, môi trường làm việc và chất lượng nguồn nhân lực.

Chủ tịch Công đoàn cơ sở (CĐCS) công ty Lê Hoàng Triều cho biết, công ty không ngừng cải tiến hệ thống quản lý nhằm loại bỏ, giảm thiểu các nguy cơ rủi ro về an toàn sức khỏe, bệnh nghề nghiệp. Đầu tư xây dựng nhiều mảng xanh thay thế cho các khối bê tông; bố trí lắp đặt hệ thống quạt gió và hút bụi ở khắp nhà máy và cho hoạt động liên tục… nhằm tạo nên không khí thoáng mát, trong lành. Phát triển nguồn nhân lực bao gồm: con người, thiết bị, cơ sở vật chất, nguyên nhiên vật liệu đều hướng đến mục tiêu giảm thiểu tác động của môi trường, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu và đảm bảo an toàn cho sức khỏe của NLĐ.

Tương tự, Công ty cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam (xã Phước Thái, huyện Long Thành) cũng thực hiện rất nghiêm túc công tác quản lý an toàn vệ sinh lao động tại DN. Chủ tịch CĐCS công ty Phạm Trung Thuyên cho biết, công ty đã thành lập phòng chuyên trách về quản lý an toàn sức khỏe môi trường toàn công ty, xây dựng đội ngũ cán bộ bán chuyên trách quản lý công tác an toàn vệ sinh lao động, thành lập mạng lưới an toàn vệ sinh viên tại các ca làm việc của các đơn vị sản xuất. Hằng năm, công ty đều trang bị bảo hộ lao động, đo kiểm tra môi trường lao động, khám sức khỏe định kỳ và khám phát hiện bệnh nghề nghiệp cho toàn thể công nhân viên, kiểm định đầy đủ và đúng thời hạn các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động…

Trong khi đó, tại Công ty TNHH Việt Nam Suzuki (KCN Long Bình, TP.Biên Hòa), Phó chủ tịch CĐCS công ty Kiều Ngọc Tuấn cho hay, để tạo nên môi trường làm việc xanh – sạch – đẹp, công ty cho đầu tư xây dựng 7 khu giải lao tương ứng với 7 bộ phận, được trang bị bàn ghế, nước uống và bài trí tiểu cảnh đẹp mắt. Hằng năm, Công đoàn đều phối hợp với công ty phát động hội thi trình bày khu giải lao đẹp nhất. Bên cạnh đó, phát động sôi nổi phong trào thực hiện nội quy công ty, xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng văn hóa an toàn nơi làm việc; phong trào sáng kiến cải tiến giúp ngăn ngừa các rủi ro trong sản xuất; phong trào thi đua giảm thải ra môi trường; cấp phát đồ bảo hộ lao động đúng tiêu chuẩn, đầy đủ, kịp thời cho NLĐ… Từ đó, đảm bảo an toàn vệ sinh trong lao động, góp phần nâng cao ý thức của NLĐ trong việc giữ gìn môi trường làm việc xanh – sạch – đẹp.

* Tạo chuyển biến về nhận thức và hành động

Theo Sở Lao động – thương binh và xã hội, tuy đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp và đạt được một số kết quả đáng ghi nhận trong cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động cho NLĐ nhưng hiện nay việc chấp hành pháp luật về an toàn vệ sinh lao động tại một số DN, nhất là DN nhỏ và vừa vẫn chưa tốt.

Đoàn kiểm tra liên ngành của tỉnh kiểm tra công tác an toàn vệ sinh lao động tại Nhà máy cơ khí Hòa Hiệp (Khu công nghiệp Nhơn Trạch 2, huyện Nhơn Trạch). Ảnh: H.Dung

Năm 2019, chiến dịch sẽ tập trung vào khoảng 50 DN mục tiêu. Sau khi tổng kết chiến dịch, Sở sẽ phối hợp với các cơ quan truyền thông tuyên truyền, giới thiệu những điển hình tốt và phản ánh những doanh nghiệp chưa tốt trong việc thực hiện, tuân thủ pháp luật lao động trong ngành.

Trong khi đó, nhằm khắc phục những hạn chế, tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức và hành động trong thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động tại các cấp Công đoàn, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam vừa ban hành kế hoạch về triển khai các nhiệm vụ Công đoàn tham gia cải thiện điều kiện và môi trường làm việc, giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp giai đoạn 2019-2023. Mục tiêu sẽ góp phần nâng cao một bước vai trò, trách nhiệm của các cấp Công đoàn trong giám sát, bảo vệ quyền lợi của NLĐ trên lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động; thiết thực cải thiện điều kiện và môi trường làm việc, giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho NLĐ.

Hồ Thảo