Top 11 # Những Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Mà Bản Thân Đang Thực Hiện Tại Lớp Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Lớp 2

Bản thân tôi đã nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp hai. Đầu năm tiếp cận với các em tôi thấy các em còn non về nhiều mặt. Đặc biệt có một số em kĩ năng đoc, viết, tính toán cũng như mọi thao tác còn chậm. Có em làm toán còn xòe bàn tay để đếm, có em viết chữ số còn viết ngược ví dụ như chữ số 5, số 7,… Vì vậy học xong lớp một em nào đọc tôt, viết tốt thì em đó sẽ làm bài tốt. Tôi thấy người giáo viên tiếp cận lớp hai bước đầu thật vất vả. Tất cả mọi ý thức , nề nếp cô giáo lại phải hướng dẫn một cách tỉ mỉ từ đầu . Như cách vệ sinh, cách ngồi học , cách cầm bút, và đặc biệt là hướng dẫn cách học, phương pháp học của một số môn ở lớp hai. Vậy bước vào lớp hai các em sẽ gặp muôn vàn khó khăn, chương trình học nặng nề , kĩ năng thao tác các em còn non,…đòi hỏi người giáo viên lớp hai phải làm gì để nâng cao được chất lương dạy học ? Theo tôi, thứ nhất người giáo viên lớp hai phải thực sự làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Rèn cho các em thực hiện tốt nề nếp tự học, xây dựng tốt nề nếp tự quản . Nề nếp lớp học tốt thì hiệu quả giờ học mới cao. Thứ hai người giáo viên lớp hai phải nắm bắt kịp thời những điểm mới của chương trình lớp một. VD. Chương trình công nghệ lớp một có những điểm gì giáo viên cần nắm. Để khi tiếp cận chương trình lớp hai người giáo viên biết vận dụng một cách có hiệu quả nhất. Một vấn đề cũng rất quan trọng nữa là người giáo viên lớp hai phải xây dựng được những động lệnh học tập ngay từ đầu năm học. Để giáo viên hạn chế nói nhiều. Giáo viên chỉ cần chỉ vào các động lệnh đó để học sinh thực hiện một cách nhẹ nhàng hiệu quả. Ngoài ra trong dạy học người giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp cho từng môn học, từng tiết học cụ thể. Nghiên cứu kĩ bài trước khi lên lớp. Kết hợp vận dụng những thành tố tích cực của mô hình trường học mới vào giảng dạy. Ví dụ: Đối với môn Toán phần hình thành kiến thức mới cho học sinh tự tìm tòi thực hiện trên đồ dùng học tập, sau đó giáo viên mới chốt kiến thức. Ví dụ như bài 9 cộng với một số 9 + 5. tôi cho học sinh tự tìm kết quả trên đồ dùng học toán của các em, sau đó giáo viên mời các em nêu kết quả và cách thực hiện, giáo viên chốt lại cách thực hiện và hướng dẫn cho các em xây dựng bảng cộng thực hiện theo nhóm hai, sau đó giáo viên cùng học sinh xây dựng bảng cộng. Từ cách thực hiện các em đã nắm được thì các em sẽ xây dựng bảng cộng một cách dễ dàng và ghi nhớ được bài học. Hoặc môn luyện từ và câu thì hoạt động nào giáo viên tổ chức trò chơi, hoạt động nào là cá nhân hay nhóm,.. Hay môn tập đọc tôi thấy rõ nét hơn, các em có thể lên điều khiển ở một số hoạt động. Rèn cho các em đức kĩ năng tự tin, tạo cho lớp học một không khí vui tươi và các em hứng thú học tập. Ngoài ra tôi luôn chú ý rèn cho các em kĩ năng sống qua các môn học. Ngay từ buổi đầu tiên nhận lớp tôi luôn rèn cho các em kĩ năng tự tin trước mọi hoạt động bằng cách cho từng em lên tự giới thiệu về mình cho các bạn và cô giáo chúng tôi . Tên em là gi? Năm nay em lên mấy tuổi? Em học lớp nào? Trường nào ? Em rất vui khi gặp lại bạn bè và được học với cô giáo mới…Từ cách giới thiệu đó giúp các em, cô giáo thân thiện, gần gũi hơn, làm cho các em thấy vui hơn khi được đến trường, Đối với học sinh lớp hai còn nhỏ tuổi, lại hay tò mò nên khi dạy và sử dụng đồ dùng dạy học môn toán , người giáo viên lớp hai cũng phải có kinh nghiệm cho học sinh sử dụng bộ đò dùng bằng cách học phần nào cho học sinh đưa dồ dùng phần đó ra. Tránh cho các em đưa cả hộp ra các em sẽ ngồi không chú ý mà ngịch phá các đồ dùng khác không phải cho tiết học đó. VD. Học phần xây dựng bảng cộng, trừ học sinh chỉ đưa ra que tính rời và thẻ chục, học giờ đưa đồng hồ, học bảng nhân , chia thì đưa hình chấm tròn,…và giáo viên phải rèn cho các em thực hiện tốt các động lệnh trong giờ học. Việc năng cao chất lượng lớp hai tôi thiết nghĩ không phải một sớm , một chiều, không phải một mình giáo viên có thể làm được. Mà người giáo viên lớp hai phải biết phối hợp tốt với phụ huynh đồng nhất phương pháp để giáo dục có hiệu quả. VD: Hàng năm vào đầu năm học tôi thường nhận được những cuộc điện thoại từ phụ huynh hỏi về một số phương pháp dạy của một số môn học. Như môn luyện từ và câu, hay tập làm văn. Hoặc môn Toán phần cộng trừ có nhớ cách thực hiện như thế nào? Vì thế người giáo viên cũng phải tư vấn nhẹ nhàng cho phụ huynh phần mà họ chưa hiểu để cùng đồng nhất một phương pháp giaó dục. Một vấn đề nữa tôi nghĩ là không thể thiếu để nâng cao chất lượng, đó là người giáo viên lớp hai phải hiểu được tâm lí của trẻ. Các em dễ xúc động, ưa khen, thích động viên. Vì thế người giáo viên lớp hai luôn phải nhẹ nhàng, bình tĩnh không được bức xúc nổi cáu trong dạy học mà phải từng bước giúp đỡ các em những gì có thể để các em có hứng thú trong học tập. Tôi lấy ví dụ có những giáo viên đã từng dạy lớp 4,5 nhiều năm nay xuống dạy lớp hai bước đầu sẽ gặp rất nhiều khó khăn , thao tác các em chậm nếu giáo viên không hiểu mà luôn nổi cáu thì tôi tin rằng giáo dục sẽ không có hiệu quả. Nên người giáo viên luôn phải biết tự kiềm chế trong mọi tình huống. Người giáo viên lớp hai trong dạy học phải biết động viên các em dù chỉ là một tiến bộ nhỏ nhất. Ngoài ra tôi thấy học sinh lớp hai nhỏ tuổi lại thật thà ở trường cô nói gì, làm gì là về nhà kể cho bố mẹ nghe và ngược lại. Vì thế người giáo viên nói chung và người giáo viên lớp hai nói riêng luôn phải có lời nói, hành động chuẩn mực trước học sinh. Luôn xem mỗi ngày đến trường là một ngày vui, bởi ở đó có tiếng cười của trẻ, có những bài học chứa đựng tình người. Xem ngôi trường, lớp học là ngôi nhà thứ hai của mình mà đối tượng giáo dục như những đứa con thân yêu. Có như vậy thì chất lượng giáo dục của lớp mình phụ trách mới nâng cao được. Tôi biết rằng giáo dục không phải như cánh đồng lúa sau thời gian ngắn, ba, bốn tháng để có thu hoạch. Mà là cả một quá trình lâu dài bền bỉ mới thấy được kết quả của nó. Tôi tin rằng mỗi một chúng ta hãy yêu nghề của mình, yêu con đường chúng ta đã chọn . Hãy tận tụy, tận tâm với các em thì ắt sẽ có thành công.

Tác giả bài viết: Lê Thị Hương trường tiểu học Đại Nài TP Hà Tĩnh

Một Số Giải Pháp Để Thực Hiện Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Địa Lý Lớp 9

PHÒNG GD&ĐT HÒA BÌNH TRƯỜNG THCS VĨNH THỊNH

TỔ: ĐỊA-HÓA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY- HỌC ĐỊA LÝ LỚP 9 Ở TRƯỜNG THCS VĨNH THỊNH GV: PHẠM NGỌC TRINH

NĂM HỌC: 2013- 2014

MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY- HỌC ĐỊA LÝ LỚP 9 A. PHẦN MỞ ĐẦU

Như chúng ta đã biết giáo dục được coi là lĩnh vực quan trọng. Nó luôn đi trước sự phát triển của Đất nước, nên vấn đề chất lượng giáo dục hiện nay đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của xã hội. Vì vậy để nâng cao chất lượng giáo dục đòi hỏi Giáo viên phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực sư phạm, có sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy, có như vậy thì sản phẩm của quá trình dạy học mới đạt kết quả cao. Trong thời qua, việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa đòi hỏi phải có sự đổi mới phương pháp dạy và phương pháp học với sách giáo khoa mới, trong quá trình dạy học giáo viên phải biết lựa chọn các hình thức để tổ chức, hướng dẫn học sinh theo nội dung của từng bài, còn học sinh phải nổ lực tìm tòi kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên trong quá trình học tập của mình. Với mục tiêu cần đạt được trong quá trình dạy học là hình thành cho học sinh phương pháp học tập để chiếm lĩnh tri thức và tạo cho bản thân một phương pháp học tập phù hợp để nắm vững kiến thức, xử lý những thông tin thu thập trong quá trình học tập. Muốn vậy, Giáo viên tích cực chủ động trong việc đổi mới phương pháp và đa dạng hóa các hình thức dạy học để giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức một cách hiệu quả nhất. Chính vì những yêu cầu quan trọng trên, trong quá trình thực hiện giảng dạy trên lớp bản thân tôi đã: ” Vận dụng một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học môn Địa lý 9″, phần công việc mà tôi được đảm nhận trong nhiều năm học qua,

bước đầu đã có những kết quả nhất định. B. PHẦN NỘI DUNG

2.4. Tổ chức lông ghép nội dung thành trò chơi. * Xếp hình và ghép tên: Ví dụ: Bài 19: Thực hành: Đọc bản đồ, phân tích và đánh giá ảnh hưởng của tài nguyên khoáng sản đối với phát triển công nghiệp ở Trung du miền núi phía Bắc.

Chuẩn bị: Lược đồ Trung du miền núi Bắc Bộ câm, mảnh giấy ghi dữ liệu, băng dính 2 mặt. Yêu cầu: Thi gắn các điểm mỏ khoáng sản của vùng, thời gian 5-7 phút.( bài tập 2, phần C)

Bài 31: Vùng Đông Nam Bộ Chuẩn bị: Lược đồ vùng có gắn tên các tỉnh thành, nam châm. Yêu cầu: Gắn sai tên các tỉnh,thành của Đông Nam Bộ. Hãy sửa lại cho đúng các tỉnh thành, thời gian 5 phút.

2.5. Sử dụng phương tiện dạy học: – Lựa chọn và sử dụng tốt các thiết bị dạy học trong quá trình lên lớp vì đây là những đồ dùng không thể thiếu trong quá trình dạy và học Địa lý nói chung, vì nó hình thành học sinh những biểu tượng và khái niệm Địa lý, giúp học sinh dễ dàng nhận thức về mối quan hệ không gian của các sự vật và hiện tượng địa lý. Việc sử dụng hợp lý các thiết bị dạy học đặc biệt là bản đồ, lược đồ, sách giáo khoa giúp rèn luyện kĩ năng địa lý cho học sinh, phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh trong học tập. Sử dụng tốt bản đồ giúp học sinh xác định vị trí, hình dạng lãnh thổ, biết được các sự vật và hiện tượng địa lý mà các em không có điều kiện quan sát trực tiếp. Bởi vì đây vừa là nguồn tri thức quan trọng, vừa bổ sung khắc sâu những kiến thức ở kênh chữ của sách giáo khoa, về đặc điểm đặc trưng của một môi trường, lãnh thổ, vì vậy việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ để lĩnh hội kiến thức là rất quan trọng bởi nó giúp học sinh ghi nhớ những kiến thức nhanh chóng và lâu bền. Nên nhất thiết trong giảng dạy địa lý không thể không dùng bản đồ trong việc hình thành kiến thức cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài 17: Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ, giáo viên không sử dụng bản đồ thì học sinh không thể nắm được đặc điểm vị trí địa lí và giới hạn lãnh thổ của vùng, không biết hình dạng của lãnh thổ đó như thế nào, tiếp giáp với những quốc gia, khu vực nào Khi dạy bài 23: Vùng Bắc Trung Bộ, giáo viên sử dụng bản đồ thì học sinh có thể nắm được đặc điểm vị trí địa lí và giới hạn lãnh thổ của vùng (phía bắc giáp Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ, Đồng bằng sông Hồng, phía nam giáp Duyên hải Nam Trung Bộ, phía tây giáp Lào, phía đông giáp Biển Đông), biết lãnh thổ kéo dài từ dãy Tam Điệp ở phía bắc tới dãy Bạch Mã ở phía Nam, lãnh thổ hẹp chiều ngang. Ngoài ra học sinh còn nắm được địa hình của vùng từ Tây sang Đông đều có núi, gò đồi, đồng bằng, biển và hải đảo. -Tuy nhiên, chúng ta không nên sử dụng quá nhiều bản đố cho một tiết dạy, phải lựa chọn bản đồ nào phù hợp nhất, sử dụng trong những thời điểm thích hợp nhất mới đạt được hiệu quả cao.

III. KẾT QUẢ: Qua thời gian áp dụng các giải pháp trên, bước đầu học sinh thực sự quen với cách học mới, chủ động hơn trong việc tự mình khám phá, xây dựng và chiếm lĩnh tri thức và không còn coi môn Địa lý là môn học không cần trí tuệ như trước đây nữa. Bên cạnh việc ý thức, tự giác trong học tập, học sinh cũng đã tự trang bị cho mình nhiều phưong tiện học tập, đầu tư thời gian học tập thích hợp cho việc học Địa lý do vậy chất lượng học tập bộ môn có bước chuyển biến rõ rệt. Năm học 2012-2013, bản thân tôi phụ trách dạy lớp 9A , cụ thể chất lượng đạt kết quả như sau:

Loại Chất lượng HKI Chất lượng cuối năm Giỏi 23,3% 25,8% Khá 30,6% 36,3% Trung bình 37,1% 34,9% Yếu 9,0% 3,0%

C. KẾT LUẬN

Thực tế đã chứng minh, khi học sinh có nhận thức đúng về giá trị của việc học của môn Địa lí, thì các em mới có lòng ham mê học tập, có ý thức tìm tòi học hỏi thì năng lực tư duy của học sinh sẽ phát triển và nâng cao. Do vậy người giáo viên phải không ngừng học hỏi, tự bồi dưỡng để hoàn thiện mình, để không ngừng đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, kết hợp với bồi dưỡng phương pháp học cho học sinh giúp học sinh tham gia tích cực vào việc học, như vậy hiệu quả dạy và học sẽ không ngừng nâng cao. Sau một thời gian thực hiện một số giải pháp nâng cao chất lượng trong dạy học Địa lí, tôi đã thu được một vài kết quả tuy chưa được nhiều nhưng bước đầu đã có tính tích cực nhất định trong dạy học Địa lí. Tuy nhiên do năng lực và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế nên bài viết của tôi có thể chưa trở thành một sáng kiến kinh nghiệm hoàn thiện.Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp chân tình của các bạn đồng nghiệp. Tôi xin trân thành cảm ơn!

Người viết

Phạm Ngọc Trinh

Tọa Đàm Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Lớp Ghép

Dự buổi tọa đàm có ông Nguyễn Tiến Phúc- Chuyên viên chính vụ Giáo dục dân tộc cùng đoàn công tác, ông Đào Thái Lai- Trưởng Phòng Giáo dục tiểu học, Sở Giáo dục và Đào tạo, cán bộ chuyên môn, cán bộ quản lý và đại diện giáo viên dạy lớp ghép của huyện Điện Biên.

Mở đầu buổi tọa đàm đại diện Phòng Giáo dục và Đào tạo báo cáo khái quát thực trạng dạy lớp ghép tại huyện Điện Biên, theo đó năm Phòng Giáo dục và Đào tạo triển khai đầy đủ kịp thời các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về dạy học lớp ghép tới các nhà trường. Chỉ đạo các trường thực hiện nghiêm túc Công văn số 9548/BGDĐT-GDTH ngày 13/10/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, công văn số 6664/BGDĐT-GDTH ngày 6/8/2020 ngày 6/8/2009, Quyết định số 15/2010/QĐ-TTg ngày 3/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phụ cấp dạy lớp ghép đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy học sinh tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập, công văn số 550/UBND-VXKG ngày 9/3/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên về tổ chức các giải pháp tinh giản biên chế ngành giáo dục. Thực hiện nghiêm túc việc giao chỉ tiêu, biên chế sự nghiệp giáo dục hàng năm của Ủy ban nhân dân huyện, chỉ đạo dạy học lớp ghép.

lồng ghép với hướng dẫn nhiệm vụ năm học và kế hoạch sinh hoạt hoạt chuyên môn hàng năm đảm bảo phù hợp hiệu quả với quy mô phát triển của các nhà trường. Năm học 2019-2020 có 26 trường TH, PTDTBT TH, 02 trường TH&THCS với 383 lớp 9469 học sinh, trong đó có 10 trường có lớp ghép với tổng số 24 lớp và 356 học sinh. Các lớp ghép cơ bản thuộc lớp ghép 1+ 2 với hai trình độ, 100% các lớp ghép thuộc những điểm trường xa trung tâm, đi lại khó khăn.

Trong những năm qua Phòng Giáo dục và Đào tạo luôn theo dõi, chỉ đạo sát sao các trường dạy học lớp ghép nâng cao chất lượng giáo dục chuyên môn tại các điểm trường. Tăng cường việc dạy học đảm bảo số lượng chất lượng học sinh, tích cực tăng cường dạy học tiếng Việt, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để học sinh các điểm trường mạnh dạn tự tin học tập tiếp thu kiến thức và nhanh chóng hòa nhập với các lớp học trên.

Ông Nguyễn Tiến Phúc- CVC Vụ Giáo dục dân tộc, Bộ GD&ĐT

ác môn học đánh giá bằng nhận xét cần coi trọng động viên sự tiến bộ của học sinh, khơi dậy hứng thú học tập để tất cả học sinh lớp ghép đều có thể đạt loại Hoàn thành vào cuối năm học. ựa chọn những giáo viên có năng lực trình độ chuyên môn vững vàng, ưu tiên những giáo viên được tập huấn về bồi dưỡng phương pháp dạy học lớp ghép để dạy học (năm học 2019 – 2020 có 24/24 giáo viên được bồi dưỡng dạy học lớp ghép).

Chỉ đạo các trường xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên môn cấp cụm trường, cấp huyện nhằm bồi dưỡng năng lực dạy học lớp ghép và giải quyết những khó khăn vướng mắc trong quá trình dạy học lớp ghép tại các nhà trường.

Chỉ đạo các trường thực hiện việc kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm giờ dạy lớp ghép của giáo viên, linh hoạt về thời gian và hình thức tổ chức , chú ý đến yêu cầu về kỹ năng dạy học của giáo viên dạy lớp ghép.

Chỉ đạo các trường ưu tiên bố trí thiết bị dạy cho các lớp ghép nhất là các lớp ghép tại điểm bản. Đảm bảo 100% các lớp ghép được bố trí thiết bị dạy học của giáo viên và học sinh được đầy đủ, mỗi nhóm trình độ có một bảng riêng, bàn ghế có thể sắp xếp cơ động để phục vụ việc học riêng cho từng nhóm trình độ

Chỉ đạo các trường tăng cường hoạt động sưu tầm và làm đồ dùng dạy học từ nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương; giáo viên ở các điểm trường chính chia sẻ, hỗ trợ làm đồ dùng dạy học cho các lớp ghép

Phòng Giáo dục và Đào tạo tham mưu với UBND huyện ban hành Quyết định giao dạy học lớp ghép cho giáo viên tại các nhà trường. Chỉ đạo các trường thực hiện nghiêm túc Quyết định QĐ-TTg ngày 3/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ, đảm bảo chi trả đầy đủ kịp thời chế độ chính sách cho giáo viên dạy học lớp ghép.

Sau thời gian tọa đàm trao đổi về những thuận lợi, khó khăn trong việc dạy học lớp ghép, ông Nguyễn Tiến Phúc – CVC vụ giáo dục dân tộc, Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá cao về triển khai công tác dạy học lớp ghép của tỉnh Điện Biên nói chung và huyện Điện Biên nói riêng, theo đó công tác dạy học lớp ghép được UBND tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo và các nhà trường quan tâm, thực hiện nghiêm túc văn bản chỉ đạo của Trung ương, tổ chức bồi dưỡng tập huấn cấp cụm trường, cấp huyện nâng cao năng lực dạy học lớp ghép cho giáo viên các nhà trường. Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương quản lý và huy động con em đồng bào nhân dân các dân tộc ra lớp, đảm bảo quyền lợi cho giáo viên dạy học lớp ghép. Thực hiện đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho các điểm bản và huy động các tổ chức cá nhân cùng chăm lo cho công tác giáo dục tại các nhà trường./.

Một Số Biện Pháp Xây Dựng Nề Nếp Lớp Học Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học

Như chúng ta đã biết hoạt động dạy học là một trong những hoạt động cơ bản của nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng. Bậc tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Trong hoạt động giáo dục đã xác định rõ mục tiêu của giáo dục tiểu học là ” Giáo dục tiểu học nhằm giáo dục học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam – Xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học bậc trung học cơ sở”.

Muốn đáp ứng được mục tiêu trên, người giáo viên phải có một vai trò rất quan trọng. Nhất là giáo viên chủ nhiệm lớp. Bởi chương trình đã đổi mới và ngày càng đổi mới hơn về nội dung chương trình dạy học, với phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn học sinh. Vậy muốn học sinh tìm ra nội dung kiến thức bài học dưới sự hướng dẫn của giáo viên thì điều trước tiên người giáo viên phải làm đó là phải xây dựng tốt nề nếp lớp học. Muốn học sinh có nề nếp học tập có chất lượng cao là một việc làm hết sức khó khăn.

Trong tình hình như vậy thì điều quan trọng đầu tiên là người giáo viên phải yêu nghề, mến trẻ, phải đến với học sinh bằng tình yêu của một người mẹ ” yêu thương nhưng phải nghiêm khắc”. Hơn nữa là giáo viên phải mẫu mực về nhân cách và hành vi, phải thật sự tôn trọng các em không gò ép các em vào một khuôn mẫu cứng nhắc. Phải giúp các em có lòng tin vào bản thân mình. Nhất là học sinh ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, học sinh dân tộc thiểu số nhiều nên khâu vệ sinh cá nhân, nề nếp, thói quen sinh hoạt còn chưa tốt. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của các em.

Để khắc phục được nội dung đó tôi đã suy nghĩ và tìm tòi ra những phương pháp tốt nhất trong việc xây dựng nề nếp lớp học nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Có như vậy mới đáp ứng được mục tiêu đổi mới về nội dung và chương trình giáo dục ở bậc tiều học.

Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:

Căn cứ vào lý luận và thực trạng với chức năng của mình đã nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở bậc tiểu học, tôi trực tiếp khảo sát toàn trường đầu năm và đã tìm ra một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp nhằm nâng cao chất lượng dạy học như sau:

*Những biện pháp xây dựng nề nếp lớp:

1.Tiến hành điều tra xếp loại đầu năm:

– Vào đầu năm học sau khi nhận lớp khoảng 10 ngày chúng ta kiểm tra nề nếp của học sinh, ý thức học tập của các em. Đa số học sinh nhút nhát thiếu mạnh dạn vì học sinh dân tộc nhiều, một số em còn nói tự do trong lớp, một số em không có đầy đủ đồ dung học tập, đi học muộn, một số em ý thức chưa tốt nói năng với cô giáo thiếu lễ phép, một số em hay ăn quà vặt trong lớp, nghỉ học không có lý do, một số em chưa hoàn thành cộng việc hằng ngày như lười học, không làm bài tập.

*Thống kê kết quả cho thấy:

Tổng số học sinh: 263 em. Trong đó:

+ Ý thức học tập mức tốt: 170 em.

+Ý thức học tập mức trung bình: 87 em.

+ Ý thức học tập mức thấp: 6 em

– Về tổ chức kỷ luật:

+ Có ý thức thực hiện giờ giấc học tập, đi học đầy đủ, đúng giờ, không nói chuyện riêng trong giờ học: 230 em

+Nghỉ học không có lý do, hay nói chuyện: 33 em

-Về thể dục vệ sinh:

+Biết giữ vệ sinh thân thể, có ý thức vệ sinh lớp học, tham gia thể dục đầy đủ: 223 em

+Vệ sinh cá nhân chưa sạch sẽ, lười tập thể dục: 40 em

+Nói năng có lễ phép với thầy, cô giáo: 243 em

+Nói năng thiếu lễ phép với thầy, cô giáo: 20 em

2.Qua khảo sát đầu năm, tôi đã đề ra một số nội quy và nề nếp của lớp để học sinh thực hiện:

*Cho học sinh thực hiện 5 nhiệm vụ của học sinh tiểu học.

+Học sinh thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch của nhà trường.

+Biết kính trọng cha mẹ, thầy giáo ,cô giáo, cán bộ , nhân viên của nhà trường và những người lớn tuổi; thực hiện điều lệ, nội quy của nhà trường; chấp hành pháp luật của Nhà nước. Biết đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, rèn luyện.

+Thực hiện tốt rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân.

+Tham gia đầy đủ các hoạt động tập thể của nhà trường, của lớp, của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; giúp đỡ gia đình và tham gia các công tác xã hội như hoạt động bảo vệ môi trường, thực hiện trật tự an toàn xã hội.

+Biết giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường, nơi công cộng; góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy truyền thống của nhà trường.

-Tôi đã đề ra một số nội quy của lớp như sau:

+Đến lớp trước 15 phút trước lúc vào học.

+Đến lớp phải có ý thức học tập, ngồi trong lớp phải giữ trật tự, chăm chú nghe cô giáo giảng bài, làm bài tập đầy đủ.

+Đi học đầy đủ, đúng giờ, nghỉ học phải có giấy xin phép.

+Ra vào lớp phải xin phép cô giáo.

+Vệ sinh cá nhân sạch sẽ, mặc quần áo gọn gàng trước khi đến lớp.

+Biết giữ gìn trường lớp sạch sẽ.

+Đi học phải có đủ giầy, dép, mũ, nón.

+Phải có đầy đủ đồ dùng học tập: Sách vở, cặp thước ,bút….

+Sách vở phải bao bọc cẩn thận, có nhãn, không được làm quăn mép, không vẽ bậy lên sách vở, bàn ghế, lớp học.

+Biết bảo vệ và chăm sóc cây xanh.

+Có ý thức trong mọi hoạt động tập thể.

Sau khi cho học sinh đọc nội quy của học sinh tôi cho giáo viên thường xuyên theo dõi các em và nắm được tâm lý từng học sinh. Trong giờ học thì giáo viên phải nghiêm khắc còn trong giờ chơi giáo viên phải gần gũi với các em để tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và sở thích từng em. Nhất là trong các giờ sinh hoạt lớp. Hằng tuần giáo viên phát động thi đua noi gương tốt trong lớp, em nào làm được việc tốt thì tuyên dương trong lớp, em nào làm được nhiều việc tốt thì giáo viên đề nghị Tổng phụ trách đội tuyên dương dưới cờ vào thứ 2 hằng tuần.

Để thực hiện được tốt nội quy các nề nếp của lớp giáo viên phải thường xuyên gần gũi các em, giúp các em vượt qua những khó khăn trong học tập. Động viên khuyến khích các em khi các em làm nhanh, viết đep, trình bày bài khoa học,…Em nào thực hiện tốt điều gì trong buổi học thì cuối buổi học giáo viên khen, tuyên dương em đó luôn để tạo động lực cho các em khác. Em nào làm bài sai hay mắc khuyết điểm thì giáo viên động viên, nhắc nhở nhẹ nhàng, nhất là những em đi học muộn hoặc lên lớp có biểu hiện không vui giáo viên nên gần gũi và tìm hiểu nguyên nhân ( do bố, mẹ đi làm xa hay bị ốm,…). Đối với học sinh lớp 1 giáo viên nên giành thời gian bọc sách vở, làm nhãn cho học sinh. Có nhiều em còn hay nói tự do trong lớp giáo viên phải nhẹ nhàng nhắc nhở, những em còn rụt rè trong học tập thì giáo viên nên động viên mỗi khi các em phát biểu ý kiến, đọc to, viết chữ đẹp,… Không những trong giờ học mà trong giờ chơi giáo viên nên cùng tham gia chơi với các em để tạo sự gần gũi giữa cô và trò.

3.Xây dựng mạng lưới ban cán sự lớp:

Để có được mạng lưới ban cán sự lớp có năng lực quản lớp giúp đỡ giáo viên quản lý mọi nề nếp của lớp học thì giáo viên cần gặp gỡ trao đổi với giáo viên lớp dưới của năm học trước, sau đó qua sự tìm hiểu và theo dõi thường xuyên để tìm ra được một số em có khả năng quán lý lớp tốt. Việc đầu tiên là chọn mỗi lớp: 1 em làm lớp trưởng phụ trách chung, 1 em làm lớp phó phụ trách học tập, 1 em lớp phó văn nghệ, thể dục vệ sinh, 1 em lớp phó lao động. Giáo viên chia lớp thành các tổ, mỗi tổ chọn 1 em nhanh nhẹn, học giỏi làm tổ trưởng. Các em này có nhiệm vụ theo dõi mọi hoạt động trong tổ mình như kiểm tra các thành viên trong tổ về làm bài tập ở nhà, nề nếp học tập, …Hằng ngày ngoài sự kiểm tra của giáo viên còn có sự kiểm tra, đôn đốc của ban cán sự lớp nên lớp học cũng có tiến bộ hẳn lên.

Trong các tiết hoạt động ngoại khóa, giáo viên tổ chức cho các em sinh hoạt tập thể, vui chơi, giải trí cho các em tạo không khí phấn khởi, vui tươi trong học tập. Để các giờ hoạt động ngoại khoá có hiệu quả, có chất lượng, gây được hứng thú cho học sinh, giáo viên chia lớp thành các sao, mỗi tổ trưởng là một sao trưởng của tổ đó và kiểm tra sinh hoạt tập thể của sao mình. Mỗi sao giáo viên ghi một danh sách cụ thể nếu sao nào thực hiện tốt nếu sao nào thực hiện tốt thì được đánh dấu cộng, nếu sao nào vi phạm khuyết điểm bị đánh dấu trừ. Cuối tuần lớp trưởng lấy sổ theo dõi cùng với phụ trách sao bình xét danh hiệu thi đua.

Nhờ có đội ngũ ban cán sự lớp năng nổ, nhiệt tình làm việc có hiệu quả mà chỉ sau vài tuần lớp học sẽ đi vào ổn định mọi nề nếp.

4.Phát động thi đua hằng tuần, tháng:

Phong trào thi đua tuần, tháng là việc nên làm không thể thiếu được của những người làm giáo viên chủ nhiệm lớp. Bởi học sinh tiểu học vẫn thích được khen nếu hôm nay làm tốt điều gì, điều gì được khen thì ngày mai các em sẽ làm được tốt hơn. Nắm được tâm sinh lý đó nên hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng tôi đều phát động thi đua. Trên bảng lớp hàng ngày giáo viên ghi điểm thi đua cho từng tổ. Hàng tuần tôi đều lên kế hoạch thi đua cho các em. Để cán bộ lớp tiên theo dõi tôi chuẩn bị cho các em một cuốn sổ kẻ sẵn nội dung một cách cụ thể theo từng tuần. Nếu cuối tuần tổ nào làm tốt được 10 điểm, tổ nào khá được 9 điểm, tổ trung bình được 8 điểm. Tổ dẫn đầu trong tuần được nhận một bông hoa màu đỏ, tổ xếp thứ 2 được nhận bông hoa màu vàng, tổ về thứ 3 nhận được bông hoa màu xanh. Cuối tháng tổ nào nhận được nhiều bông hoa màu đỏ sẽ sẽ được xếp giải nhất. Và giáo viên phát phần thưởng cho học sinh, mỗi lần thưởng một món quà khác nhau để gây hứng thú cho học sinh. Khi phát động thi đua hàng tuần, tháng cho các em tôi vẫn không quên bám chủ điểm thi đua của trường. Không những phát động thi đua trong tổ mà hàng ngày mỗi giờ học trên lớp tôi thường động viên tuy chỉ là một lời khen: “Em rất giỏi!” hay chỉ là một tràng vỗ tay của cả lớp nhưng cũng tạo sự phấn khởi cho các em. Khi phát động phong trào thi đua tôi nghiêm túc và công bằng. Cuối mỗi tuần tôi cho các em tự do phát biểu nhận xét và tự xếp hạng lẫn nhau. Giáo viên là người trọng tài ra quyết định cuối cùng. Vì thế các em rất vui khi thấy cô công bằng không thiên vị hay trù dập ai.

Qua các đợt thi đua tôi thấy lớp nào cũng có nề nếp tốt hẳn lên, “học ra học, chơi ra chơi”. Đặc biệt các em tự giác chấp hành tốt các nội qui, qui chế của lớp. Chất lượng giờ học được nâng lên rõ rệt.

Việc nêu gương tốt, nhắc nhở những em chưa tiến bộ có tác dụng rõ nét trong mỗi tiết học. Nếu được khen ngợi đúng nơi, đúng lúc thì các em càng tiến bộ hơn. Bên cạnh những lời khen giáo viên cũng phải dùng những lời nhắc nhở thật nghiêm túc đối với những em chậm tiến. Hàng ngày trong các tiết học giáo viên thường nêu gương những em tốt như: có ý thức học tập, hăng say phát biểu xây dựng bài, đến trường cũng gọn gàng, sạch sẽ, đi học sớm đôn đốc các bạn trong lớp vệ sinh sạch sẽ,…

Từ những tấm gương đó các em đã học tập lẫn nhau, các em hàng ngày có ý thức hơn trong mọi hoạt động của lớp. Ngoài những tấm gương trong lớp học giáo viên cần nêu gương tốt trong các bài tập đọc đạo đức cho các em học tập noi theo. Giáo viên cần chú trọng nhất vào những em học sinh dân tộc thiểu số, nếu em nào tiến bộ, ngoan thì sẽ khen ngợi, động viên kịp thời.

Bên cạnh những em ngoan có ý thức chấp hành nề nếp của lớp còn có một số em chậm tiến như em: vệ sinh cá nhân chưa tốt, đi học muộn, chưa lễ phép với cô giáo. Vì các em này là dân tộc thiểu số, hàng ngày giáo viên nhắc nhở các em thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật nghiêm túc cho các em thực hiện như: “Nếu không nghe cô giáo giảng bài thì sẽ không hiểu bài, không làm được bài.”, “Hay đi học muộn ảnh hưởng đến việc học của các em và các bạn, bị trừ điểm thi đua của lớp”, “Không lễ phép với cô giáo thì bị hạ hạnh kiểm”.

Trong mỗi buổi sinh hoạt Đội-sao nhi đồng các em được giao lưu, học hỏi nhiều điều hay, kỹ năng giao tiếp từ đó các em tự tin, mạnh dạn hơn trong học tập cũng như trong các hoạt động.

Hoạt động Đội-sao tốt cũng góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng lớp học. Vì các hoạt động của Đội đều mang tính thi đua, đưa vào xếp loại nó phát huy được tính tự giác của các em.

Giáo viên chủ nhiệm với vai trò là anh chị phụ trách phải luôn gần gũi, thân thiện với các em trong mọi hoạt động, trò chơi và có sự áp dụng các kiến thức đã học lồng ghép vào trò chơi. Trong các hoạt động Đội phải đánh giá công bằng, vô tư, khen, động viên kịp thời những thành viên tốt và nhắc nhở các thành viên chưa tích cực.

Nhà trường phải huy động các lực lượng tham gia sinh hoạt Đội-sao, xây dựng kế hoạch cụ thể rõ rang, triển khai đồng loạt và trở thành việc làm thường xuyên để có hiệu quả cao. Trong các buổi sinh hoạt Đội-sao Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với GV tổng phụ trách khen ngợi những chi đội, sao có nề nếp lớp học tốt, những đội viên, sao có gương việc làm tốt,… và đưa vào xếp thi đua hàng tháng, kỳ và xếp loại thi đua giữa các chi đội-sao trong năm học.

Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nề nếp lớp học và chất lượng học tập của các em, vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm lớp và gia đình phụ huynh. Nắm được tầm quan trọng đó ngay từ đầu năm học giáo viên tổ chức họp phụ huynh với nội dung thông báo về nhiệm vụ, kế hoạch, chỉ tiêu phấn đấu của năm học, thông báo nội quy của học sinh tiểu học, một số quy định về xây dựng nề nếp cho học sinh từng lớp . Nêu quy định về các loại sách vở, quy định về việc học của lớp, ở nhà của học sinh. Sau khi trao đổi yêu cầu của việc giảng dạy, học tập, xây dựng nề nếp lớp, tôi đã cùng phụ huynh phối hợp chặt chẽ để giáo dục cho các em. Hàng ngày giáo viên gặp gỡ các bậc phụ huynh (vì nhà xa trường họ thường xuyên chở con em đi học).

Có một số em có biểu hiện không chấp hành tốt nội quy của lớp thì giáo viên trực tiếp mời phụ huynh đến để có biện pháp kết hợp giúp đỡ. Sau 2 tháng giáo viên thông báo kết quả học tập cũng như việc chấp hành nội quy nề nếp của lớp (qua sổ liên lạc) để gia đình rõ. Cuối học kì I giáo viên tổ chức họp phụ huynh để thông báo kết quẩ học tập và nhận xét về việc thực hiện nội quy nề nếp của các em. Và đề ra những nhiệm vụ cho thời gian tới. Bằng những việc làm đó tôi thấy có hiệu quả rõ rệt, phụ huynh ngày càng tin tưởng tôi hơn, đồng tình với tôi để phối hợp giáo dục con em họ.

III.1.Kết luận: Đất nước ta đang bước vào thời kỳ “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, cần có những con người phát triển toàn diện, có tri thức khoa học để xây dựng tổ quốc giàu mạnh. Muốn đào tạo được những con người đó thì ngay bây giờ từ bậc học đầu tiên – bậc học nền tảng, chúng ta phải giáo dục cho các em có ý thức học tập, xây dựng tốt nề nếp lớp học cũng như mọi hoạt động khác nhằm giáo dục các em trở thành con người phát triển toàn diện. Vì thế nhiệm vụ của người giáo viên hết sức quan trọng, bản thân tôi sẽ luôn phấn đấu, nghiên cứu, tìm tòi, tu dưỡng đạo đức, làm tốt mọi nhiệm vụ của mình để xứng đáng một “tấm gương sáng cho học sinh noi theo”, “người mẹ hiền thứ hai”. Là một nhà quản lý đã nhiều năm trực tiếp giảng dạy bậc tiểu học tôi luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra những biện pháp, giải pháp để ngày càng nâng cao chất lượng dạy học của trường mình.