Top 7 # Tác Dụng Của Biện Pháp So Sánh Liệt Kê Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Liệt Kê Là Gì? Tác Dụng Của Liệt Kê

Để các bạn học sinh nắm vững thêm về phép liệt kê, mời các bạn tham khảo tài liệu Liệt kê là gì? Tác dụng của liệt kê do chúng tôi sưu tầm và đăng tải sau đây. Mời các bạn tham khảo để học tập tốt môn Ngữ Văn 7 hơn. A. KIẾN THỨC CẦN NHỚ

1. Liệt kê là sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hay cụm từ cùng loại để diễn tả được đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực tế hay của tư tưởng, tình cảm.

Ví dụ: phần I trang 104 SGK.

2. Các kiểu liệt kê:

a) Xét theo cấu tạo, có thể phân biệt kiểu liệt kê theo từng cặp với kiểu liệt kê không theo từng cặp.

Ví dụ: mục 1, phần II trang 105 SGK.

– Câu a: liệt kê không theo từng cặp.

– Câu b: liệt kê theo từng cặp (với quan hệ từ “và”).

b) Xét theo ý nghĩa, có thể phân biệt kiểu liệt kê tăng tiến với kiểu liệt kê không tăng tiến.

Ví dụ: mục 2, phần II trang 105 SGK.

– Câu a: có thể đảo thứ tự các bộ phận trong phép liệt kê.

– Câu b: không thể đảo thứ tự bởi các bộ phận liệt kê được sắp xếp theo mức độ tăng tiến.

B. HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI I. Thế nào là phép liệt kê?

Liệt kê là sắp xếp nối tiếp hàng loạt, từ hay cụm từ cùng loại để diễn được đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực tế hay của tư tưởng, tình cảm.

Liệt kê ở đây được coi là biện pháp tu từ, được sử dụng để làm tăng hiệu quả biểu đạt, diễn đạt, chứ không phải là sự kể lể dài dòng, rườm rà, trùng lặp thường thấy trong cách nói, cách viết của một số người. Cần phân biệt hai hiện tượng này để:

+ Một mặt, học tập cách diễn đạt có hiệu quả cao theo phép liệt kê.

+ Mặt khác, khắc phục lỗi kể rườm rà, trùng lặp trong cách nói, cách viết.

Ví dụ:

– Thường là chở chè vối, và thỉnh thoảng củng có những chuyến chở cánh kiến trắng, cánh kiến đỏ, sợi móc, da trâu sống, xương và sừng nai hươu, xương gấu, xương hổ.

(Nguyễn Tuân)

Các cụm danh từ chè vối, cánh kiến trắng, cánh kiến đỏ, sợi móc, da trâu sống, xươìig và sừng nai hươu, xương gấu, xương hổ cùng làm thành tố phụ cho cụm động từ có động từ trung tâm là chở nhằm gây ấn tượng mạnh cho người tiếp nhận và sự đa dạng của các sản vật vùng biên.

– Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông, đất nước ta.

Các cụm danh từ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta cùng làm chủ ngữ của câu nhằm biểu hiện cảm xúc và suy nghĩ của ngưòi viết về lòng biết ơn vô hạn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta với vị cha già của dân tộc.

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn!

(Tố Hữu)

Các cụm động từ khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm và các cụm danh từ cơm vắt được sắp xếp đặt cạnh nhau nhằm làm cho sự miêu tả thêm đậm nét về những khó khăn, vất vả mà các chiến sĩ Điện Biên phải trải qua, đồng thời việc sắp đặt này cũng gây ấn tượng mạnh đối với người tiếp nhận.

Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, đê trong khay khảm, khói bay nghi ngút; tráp đồi mồi chữ nhât để mở, trong ngăn bac đầy những’trầu vàng, cau đâu, rễ tía, hai bên nào ông thuốc bac, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai… ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt.(…) Ngoài kia, tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm (…).

(Phạm Duy Tốn)

Các cụm danh từ trên cùng làm chủ ngữ của câu.

2. Việc tác giả nêu ra hàng loạt các sự việc tương tự với kết cấu như trên có tác dụng làm cho sự miêu tả thêm đậm nét nhằm giúp người tiếp nhận thấy được sự giàu sang vô lối của tên quan phụ mẫu.

II. Các kiểu liệt kê

– Xét theo cấu tạo, có thể phân biệt:

+ Kiểu liệt kê theo từng cặp.

+ Kiểu liệt kê không theo từng cặp.

– Xét theo ý nghĩa, có thể phân biệt:

+ Kiểu liệt kê tăng tiến.

+ Kiểu liệt kê không tăng tiến.

Tác Dụng Của Biện Pháp So Sánh Trong Bài Tôi Đi Học

“Tôi đi học” là một truyện ngắn mang màu sắc hoài niệm của Thanh Tịnh. Ngoài cảm xúc dào dạt, tác giả đã sáng tạo nên một số hình ánh so sánh rất đẹp.

Tác giả đã so sánh và nhân hóa để viết nên những câu văn giàu hình tượng và biếu cảm: Những cảm giác trong sáng ấy là những kỉ niệm mơn man nao nức của buổi tựu trường ngày xưa không hề bị thời gian vùi lấp, trái lại, cứ mỗi dạ thu về, nó lại “nảy nở trong lòng” đem đến bao cảm xúc vui sướng, bổi hồi, tâm hồn như tươi trẻ lại, trong sáng hơn tựa như “mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bâu trời quang đãng”.

Câu văn thứ hai có hình ảnh so sánh:

“Tôi có ngay cái ý nghĩ vừa non nớt vừa ngây thơ này. Ý nghĩ ấy thoáng qua trong tâm trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngừng trên ngọn núi”.

Buổi tựu trường, chú chỉ cầm hai quyển vở mới thế mà vẫn cảm thấy nặng “bàn tay ghì chặt” mà một quyển sách vẫn xệch vì chú quá hồi hộp. Mấy cậu học sinh khác ôm sách vở nhiều lại kèm cả bút thước nữa, trong lúc đó, mẹ chú lại cầm hộ bút thước cho chú. Cái ý nghĩ “chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước” được so sánh với “làn mây lướt ngang trên ngọn núi” đã làm nổi bật ý nghĩ non nớt và ngây thơ, trong sáng và hồn nhiên cùa nhân vật “tôi”.

Câu văn thứ ba: “Trước mắt tôi trường Mĩ Lí trông vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hòa Áp”.

Nhân vật “tôi” đã từng đi bẫy chim quyên, từng ghé lại trường một lần; lần ấy chú thấy trường “là một nơi xa lạ” “cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng”. Nhưng lần này trường Mĩ Lí đã trở thành trường của chú nên chú mới cảm thấy “xinh xắn”. Tâm trạng một học trò mới “lo sợ vẩn vơ” và bỡ ngỡ nên mới cảm thấy trường Mì Lí “oai nghiêm như cái đình làng Hòa Ấp”. Hình ảnh so sánh này cũng thể hiện sự ngây thơ, hồn nhiên của nhân vật “tôi” trong buổi tựu trường.

Hình ảnh so sánh thứ tư là đặc sắc nhất. Tác giả đã lấy hình ảnh “con chim con đứng bên bở” so sánh với cậu học trò mới “bỡ ngỡ” nép bên người thân để làm nổi bật tâm lí của tuổi thơ trong buổi tựu trường vừa “ngập ngừng e sợ” vừa khao khát học hành, mơ ước bay tới những chân trời xa, chân trời ước mơ và hi vọng.

Hơn 60 năm đã trôi qua, những so sánh mà Thanh Tịnh đã sử dụng vẫn không bị sáo mòn, trái lại hình tượng và cảm xúc của những so sánh ấy vẫn còn duyên dáng, nhã thú.

Biện Pháp Liệt Kê Là Gì?

Trong ngữ pháp Việt Nam có nhiều biện pháp tu từ khác nhau như so sánh, ẩn dụ, rút gọn câu … Một trong những biện pháp từ thường được sử dụng trong văn thơ là liệt kê. Trong seri hướng dẫn ngữ văn 7 này mình sẽ giới thiệu cách sử dụng và các khái niệm cơ bản về liệt kê từ, cụm từ.

Liệt kê là gì?

Liệt kê là cách sắp xếp nhiều từ, cụm từ khác nhau, có thể là từ đồng âm hoặc không nhưng phải có chung một nghĩa. Hay nói cách khác thì liệt kê là cách dùng nhiều từ khác nhau để diễn tả một hành động, sự vật, sự việc.. Mục đích nhằm diễn tả các khía cạnh hoặc tư tưởng, tình cảm được đầy đủ, rõ ràng, chi tiết hơn đến với người đọc, người nghe.

Các phương pháp liệt kê phổ biến

Dựa theo cấu tạo và ý nghĩa trong câu, có 4 kiểu liệt kê chính gồm:

1 Liệt kê theo từng cặp

Mỗi cặp từ được liệt kê thường liên kết bằng những từ như và, với, cùng..Những cặp từ này thường có một vài điểm chung để phân biệt với các từ khác.

Ví dụ: Kệ sách của Trâm Anh có nhiều loại sách hay như sách toán với hình học, sách văn và thơ, sách tiếng anh với tiếng Nhật, truyện tranh với truyện chữ….

2 Liệt kê không theo từng cặp

Chỉ cần thỏa điều kiện các từ cùng mô tả một điểm chung nào đó như sự vật, con người, mối quan hệ, thiên nhiên… đều được. Giữa các từ cách nhau bởi dấu phẩy, chấm phẩy.

Ví dụ: Trên kệ sách của Hồng Ảnh có nhiều loại sách gồm sách văn học, sách ngoại ngữ, sách toán, sách hóa, sách lịch sử.

3 Liệt kê tăng tiến

Tăng tiến có nghĩa là phải theo đúng một thứ tự, trình tự theo tự nhiên hoặc hợp quy luật nhất định. Thường thì ta liệt kê từ thấp đến cao, từ địa vị nhỏ đến lớn….

Ví dụ: Trong công ty Minh gồm có những người là nhân viên Minh, Tiến Lan, phó phòng là anh Hải và trưởng phòng là anh Phúc.

Ta thấy chức vụ các nhân viên được liệt kê từ thấp đến cao, theo đúng cấp bậc trong một phòng.

4 Liệt kê không tăng tiến

Không quan trọng vị trí các từ cần liệt kê, câu vẫn có nghĩa và người đọc vẫn hiểu ý nghĩa toàn bộ câu.

Ví dụ: Gia đình An đang sống có các thành viên gồm: cha mẹ An, anh trai An, ông bà nội An, em gái An và An.

Những lưu ý khi sử dụng biện pháp liệt kê

Đây là một trong các phép tu từ đơn giản, dễ nhận biết và sử dụng nhất. Tuy nhiên để sử dụng hợp lý, đúng cách cần lưu ý những điều sau:

Với phương pháp liệt kê tăng tiến, cần xác định đúng thứ tự theo vị trí thấp đến cao.

Giữa các từ cần liệt kê cách nhau bởi dấu phẩy, chấm phẩy hoặc các từ kết hợp như ” với, và”.

Phép liệt kê xuất hiện nhiều trong văn xuôi, tiểu thuyết, truyện ngắn… hầu như hiếm khi xuất hiện trong thơ ca.

Kết luận: Phép liệt kê giúp mô tả, nhấn mạnh một sự vật, sự việc cần diễn tả, đây là biện pháp tu từ bạn nên biết để phân tích và viết tập làm văn.

Skkn Dạy Biện Pháp So Sánh Lớp 3

MỘT VÀI KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌCBIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH Ở LỚP 3

PHẦN MỘT: LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

I. Cơ sở lý luậnVới phương châm coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, tại đại hội Đảng lần thứ IX một lần nữa nhấn mạnh: “…Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá – hiện đại hoá – xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh… đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn”. Mục tiêu của cấp Tiểu học là giáo dục phổ cập cho trẻ em từ 6 đến 11 – 12 tuổi phát triển toàn diện về trí tuệ, tình cảm và sức khoẻ. Chính vì vậy mỗi môn học trong trường Tiểu học đều có một mục tiêu riêng và chính những mục tiêu riêng ấy hợp lại thành mục tiêu chung của cấp học.Trước những yêu cầu thực tế đó, chất lượng dạy học trong mỗi nhà trường tiểu học là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Chất lượng dạy học ấy phải được thể hiện bằng chất lượng toàn diện của các môn học: Toán, Tiếng Việt, Thể dục,Môn Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm rèn cho học sinh 4 kỹ năng: “Nghe – nói- đọc – viết” là một môn học gồm nhiều phân môn. Ở mỗi phân môn cụ thể có nội dung phương pháp cách thức dạy học khác nhau nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau theo một lôgíc nhất định. Những kỹ năng của phân môn này hỗ trợ cho phân môn khác nhằm đạt mục tiêu của môn Tiếng Việt.Phân môn luyện từ và câu lớp 3 nhằm mở rộng vốn từ theo chủ điểm, củng cố hiểu biết về các kiểu câu và thành phần câu đã học ở lớp 2. Cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về các phép tu từ so sánh và nhân hoá thông qua các bài tập thực hành. Việc nhận biết biện pháp tu từ so sánh và bước đầu sử dụng vào việc dùng từ đặt câu là một trong những nội dung yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3. Cơ sở ban đầu của việc dạy biện pháp tu từ so sánh được bắt đầu từ việc: tìm các từ ngữ chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm của sự vật trong câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ; tìm những sự vật hay hoạt động, đặc điểm của sự vật được so sánh với nhau. Từ đó học sinh nhận biết được hình ảnh so sánh, dấu hiệu của sự so sánh và các kiểu so sánh. Thông qua các bài tập thực hành, học sinh sẽ nhận biết được: hình ảnh so sánh; các kiểu so sánh; các sự vật hay các đặc điểm, âm thanh, hoạt động của sự vật được so sánh với nhau; các từ chỉ sự so sánh (dấu hiệu so sánh). Từ đó giúp các em vận dụng vào việc nói, viết để đặt câu có hình ảnh so sánh; viết tiếp vào chỗ trống để tạo thành hình ảnh so sánh; chỉ ra được các hình ảnh so sánh mình thích và giải thích đơn giản vì sao mình thích hình ảnh đó. Đây chính là cơ sở ban đầu, là công cụ để giúp các em viết văn miêu tả, kể chuyện… và học tiếp lên các lớp trên.

II. Cơ sở thực tiễn. Thông qua quá trình dạy học, qua dự giờ, trao đổi với đồng nghiệp, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn ở trường, ở huyện; đặc biệt là qua việc chấm các bài kiểm tra định kỳ của học sinh, tôi thấy:* Về phía giáo viên:– Việc nắm nội dung, chương trình, phương pháp dạy học, mức độ yêu cầu về kiến thức, kỹ năng cũng như kinh nghiệm giảng dạy của giáo viên còn hạn chế. Một số giáo viên qua quá trình dạy chưa thực sự lấy học sinh làm trung tâm, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh dẫn đến chất lượng giảng dạy của thầy và việc tiếp thu bài của trò chưa cao.– Bên cạnh đó khi giảng dạy giáo viên chưa gây hứng thú học tập cho học sinh đối với tiết học. Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, tẻ nhạt, dạy học một cách máy móc khuôn mẫu, sáo mòn. Khi dạy học trên lớp nhiều giáo viên chủ yếu dựa vào sách giáo viên mà không có sự sáng tạo trong mỗi tiết dạy. – Mặt khác do sự thiếu thốn về cơ sở vật chất cũng như phương tiện dạy học khiến giáo viên chưa có điều kiện để đa dạng hoá các phương pháp dạy học. * Về phía học sinh:– Bản thân các em chưa có niềm say mê, hứng thú với môn học.– Trong dạng bài tập