Dưới tác động của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin (CNTT), công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá, công nghệ năng lượng v.v.. Kinh tế- xã hội trên thế giới nói chung và ở Việt nam nói riêng đang biến đổi rất sâu sắc về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Việc ứng dụng CNTT trong các hoạt động thực tiễn đã góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người dân
Ứng dụng CNTT trong quản lý hành chính nhà nước nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính điện tử giúp cho việc xử lý thông tin nhanh, chính xác, đầy đủ, phục vụ tốt cho tổ chức, người dân và doanh nghiệp. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ và phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao hiệu quả của cải cách hành chính nhà nước. Trong quá trình ứng dụng CNTT trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đã và đang hình thành một khối lượng tài liệu điện tử khá lớn đòi hỏi phải được quản lý và khai thác sử dụng hiệu quả.
Tài liệu lưu trữ nói chung và tài liệu lưu trữ điện tử nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng và văn hóa xã hội của đất nước, là di sản quốc gia, thuộc Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam, cần được quản lý thống nhất, hiệu quả để phục vụ các hoạt động của Đảng, quản lý của Nhà nước và các nhu cầu xã hội theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Luật Lưu trữ: ” Tài liệu lưu trữ điện tử ” là tài liệu được tạo lập ở dạng thông điệp dữ liệu hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được lựa chọn để lưu trữ hoặc được số hóa từ tài liệu lưu trữ trên các vật mang tin khác. Đây là một loại hình tài liệu mới hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi sử dụng máy vi tính trong quá trình sản sinh và lưu trữ tài liệu. Vì vậy, công tác quản lý, lưu trữ tài liệu điện tử cần phải có phương pháp mới trên cơ sở hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về văn thư, lưu trữ và thông tin truyền thông cùng với sự kết hợp chặt chẽ giữa khoa học lưu trữ và khoa học CNTT.
Để thực hiện tốt công tác lưu trữ tài liệu điện tử trong các cơ quan, tổ chức nhà nước trong thời gian hiện nay, vấn đề cần thiết là phải đánh giá được thực trạng về hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành về văn thư, lưu trữ điện tử, thông tin truyền thông và giao dịch điện tử, thực trạng về ứng dụng CNTT và quản lý tài liệu điện tử trong các cơ quan nhà nước đồng thời phải xác định rõ mục tiêu, yêu cầu của quản lý tài liệu điện tử và lộ trình thực hiện hợp lý.
1. Quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước
Đảng, Nhà nước đã luôn quan tâm đến việc ứng dụng khoa học công nghệ nói chung và CNTT nói riêng trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Trong những năm 90 của thế kỷ XX tại Nghị quyết số 49/CP ngày 04/08/1993 của Chính phủ về phát triển công nghệ thông tin, coi công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại – chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông – nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. Ngày 17/10/2000, Bộ Chính trị khóa VIII đã ban hành Chỉ thị 58-CT/TW, của về đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đây là những quyết sách đúng đắn, kịp thời và là yếu tố quyết định giúp cho CNTT Việt Nam vượt qua khó khăn, thách thức. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001, đã khẳng định phải tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ, đặc biệt là CNTT, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 nêu rõ các nội dung hiện đại hoá hành chính: Đẩy mạnh ứng dụng CNTT – truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên mạng ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau; ứng dụng CNTT – truyền thông trong quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân.
Tiếp đó, ngày 1/7/2014, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW tiếp tục khẳng định sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng đối với công tác ứng dụng, phát triển CNTT, khẳng định vị trí, vai trò của CNTT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Những định hướng, tư tưởng, giải pháp lớn trong Nghị quyết là tiền đề quan trọng để CNTT Việt Nam phát triển mạnh mẽ, sâu rộng hơn, đề ra những định hướng lớn cho sự phát triển ngành CNTT nước ta trong khoảng 10 – 20 năm tới. CNTT phải được ứng dụng rộng rãi và trở thành một ngành kinh tế có tác động lan tỏa trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, chất lượng cuộc sống, chỉ số phát triển con người Việt Nam và nâng cao khả năng phòng thủ quốc gia trong chiến tranh mạng. Đến năm 2030, đưa năng lực nghiên cứu, ứng dụng, phát triển, sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ CNTT đạt trình độ tiên tiến thế giới; Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về CNTT và bằng CNTT. Đồng thời, thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn, an ninh thông tin, nâng cao năng lực quản lý các mạng viễn thông, truyền hình Internet.
Ngày 15/04/2015, Chính phủ ban hành Nghị quyết 26/NQ-CP về Chương trình hành động nhằm cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 1/7/2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế với 8 nhiệm vụ trọng tâm nhằm đạt được mục tiêu Nghị quyết 36-NQ/TW đề ra gồm: Đổi mới, nâng cao nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin; Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin; Xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia đồng bộ, hiện đại; Ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi, thiết thực, có hiệu quả cao; Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, kinh tế tri thức; Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đạt chuẩn quốc tế, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, tiếp thu, làm chủ và sáng tạo công nghệ mới; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quốc phòng, an ninh; bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, nâng cao năng lực quản lý các mạng viễn thông, truyền hình, Internet; Tăng cường hợp tác quốc tế.
Ngoài ra để cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển ứng dụng CNTT, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, kế hoạch, chương trình ứng dụng CNTT trong các CQNN hết sức cụ thể, thiết thực, như: Luật Công nghệ thông tin, Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN; Luật Giao dịch điện tử năm 2005; Nghị định số 26/2007/NĐ-CPquy định chi tiết về chữ ký số và chứng thư số; việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số; Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt dộng của CQNN giai đoạn 2011-2015; Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định vể việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của CQNN; Nghị quyết số 36a/NQ- CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về CPĐT; Luật An toàn thông tin 2015.
2. Thực trạng ứng dụng CNTT và quản lý văn bản, tài liệu lưu trữ điện tử trong các cơ quan nhà nước hiện nay
2.1. Thực trạng ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước hiện nay
Theo báo cáo tại công văn số 1557/BTTTT-THH ngày 09/5/2017, của Bộ Thông tin và Truyền thông về đánh giá mức độ ứng dụng công nghệ thông tin của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2016. Kết quả cụ thể như sau:
– Về nguồn nhân lực: Trên cả nước, cán bộ, công chức, viên chức sử dụng máy tính để giải quyết công việc đã trở thành thường xuyên. Trình độ cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin của các Bộ, cơ quan ngang Bộ tương đối cao, 89,32% cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin của các Bộ, cơ quan ngang Bộ có trình độ từ đại học trở lên. Tại địa phương trên 90% các cơ quan chuyên môn (Sở, ban, ngành) và Ủy ban nhân dân các quận, huyện đã có cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin. Các tỉnh, thành phố đã chú ý tới việc thu hút cán bộ chuyên trách CNTT, định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo về công nghệ thông tin cho cán bộ.
– Các ứng dụng cơ bản trong hoạt động quản lý đã được hầu hết các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đưa vào sử dụng tại các đơn vị thuộc, trực thuộc như: Ứng dụng quản lý văn bản đi, đến và điều hành được sử dụng rộng rãi (100%, bộ ngành và địa phương; Ứng dụng chữ ký số trong việc gửi/nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan (18/19 Bộ, cơ quan ngang Bộ; 53/ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) đã triển khai sử dụng ở các quy mô khác nhau.
– Về hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin: Các Bộ ngành và địa phương đã trang bị tương đối đầy đủ máy tính cho các cán bộ, công chức để phục vụ việc xử lý công việc. Tại địa phương, khoảng cách về hạ tầng công nghệ thông tin giữa các tỉnh, thành phố lớn và các tỉnh còn khó khăn đã giảm mạnh. Việc xây dựng mạng diện rộng (WAN) và kết nối các cơ quan vào mạng WAN tại các Bộ, ngành và địa phương ngày càng cao. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nội bộ của các cơ quan ngày càng mang lại hiệu quả cho công tác quản lý, điều hành của lãnh đạo, rút ngắn thời gian trao đổi hồ sơ công việc của cơ quan và giữa các đơn vị. Hiện nay, trang/cổng thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước đã trở thành một trong các kênh cung cấp thông tin và giao tiếp chính giữa cơ quan với người dân và doanh nghiệp. Các Bộ, ngành và địa phương càng ngày càng cung cấp nhiều thông tin, số liệu về hoạt động của cơ quan lên Website/Portal và cập nhật kịp thời. Điều này đã góp phần nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Từng bước tạo tiền đề cho việc đẩy mạnh sự tham gia của người dân vào hoạt động của cơ quan nhà nước thông qua việc cơ quan nhà nước cung cấp thông tin, có giải trình, người dân có đầy đủ thông tin từ đó thúc đẩy việc phản biện, hiến kế cho cơ quan nhà nước.
2.2. Thực trạng quản lý văn bản, tài liệu lưu trữ điện tử tại các cơ quan nhà nước.
Hầu hết các cơ quan nhà nước đều có chương trình, kế hoạch, lộ trình ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý điều hành nói chung và công tác văn thư, lưu trữ nói riêng. Ứng dụng công nghệ thông tin đã giúp công tác quản lý văn bản đi đến và điều hành hoạt động của các cơ quan tổ chức khá hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí hành chính. Mức độ ứng dụng CNTT của các cơ quan tổ chức phụ thuộc vào nhiều yếu tố như hạ tầng kỹ thuật, trình độ về công nghệ thông tin, có đơn vị chỉ sử dụng hộp thư điện tử của cơ quan để thông tin, trao đổi công việc, gửi bản sao văn bản, có đơn vị đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xây dựng phần mềm quản lý và điều hành và liên thông văn bản trong nội bộ.
Mặc dù nguồn nhân lực và hạ tầng kỹ thuật CNTT khá tốt, tuy nhiên việc ứng dụng CNTT để quản lý văn bản, tài liệu lưu trữ điện tử trong các cơ quan nhà nước hiện nay còn một số hạn chế sau:
– Nguồn nhân lực về CNTT và CC, VC chưa được trang bị những kiến thức cơ bản về văn thư, lưu trữ, quản lý văn bản và tài liệu điện tử.
– Hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin vẫn cần phải tiếp tục được đầu tư, đẩy mạnh để đảm bảo việc trao đổi, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan nhà nước được thuận lợi và nâng cao khả năng bảo vệ an toàn cho việc trao đổi thông tin. Việc cung cấp thông tin, số liệu thống kê vẫn còn nhiều hạn chế. Vẫn còn có sự chênh lệch lớn về mức độ ứng dụng công nghệ thông tin giữa các tỉnh dẫn đầu và các tỉnh phía dưới, số lượng tỉnh được đánh giá ở mức độ trung bình vẫn cao, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin thấp vẫn tập trung tại các tỉnh còn khó khăn.
– Theo quy định của pháp luật về lưu trữ: Tài liệu lưu trữ điện tử hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức phải được lập hồ sơ, lựa chọn và bảo quản theo nghiệp vụ lưu trữ và kỹ thuật công nghệ thông tin trong hệ thống quản lý tài liệu điện tử; Hệ thống quản lý tài liệu điện tử phải bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật để tài liệu lưu trữ điện tử có tính xác thực, toàn vẹn, nhất quán, an toàn thông tin, có khả năng truy cập ngay từ khi tài liệu được tạo lập. Tuy nhiên, theo đánh giá tại Chỉ thị số 35/2017/CT-TTg ngày 07/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác văn thư, lưu trữ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác văn thư, lưu trữ trong việc quản lý văn bản, giải quyết công việc, lập và nộp lưu hồ sơ điện tử về lưu trữ. Ứng dụng CNTT của các cơ quan tổ chức còn mang tính tự phát theo nhu cầu quản lý của từng đơn vị, chưa có sự thống nhất về tiêu chuẩn, quy trình, chưa phù hợp với yêu cầu và quy định của pháp luật về văn thư, lưu trữ. Qua công tác kiểm tra, khảo sát về ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác văn thư, lưu trữ tại các bộ ngành và các địa phương cho thấy hầu hết 100% các đơn vị được kiểm tra, khảo sát đều chưa thực hiện được việc lập và quản lý hồ sơ điện tử. Vì vậy khối lượng tài liệu điện tử khá lớn hình thành trong hoạt động của các cơ quan nhà nước khá lớn nhưng chưa được xử lý, lựa chọn để bảo quản và khai thác sử dụng hiệu quả. Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến quản lý điều hành trong các cơ quan nhà nước và phục vụ nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
2.4. Nguyên nhân
– Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về quản lý, lưu trữ văn bản, tài liệu điện tử trong các cơ quan quản lý nhà nước chưa được hoàn thiện, nhiều nội dung chưa được quy định, chưa đầy đủ, hoặc chưa được sửa đổi bổ sung để đồng bộ với các quy phạm pháp luật về thông tin truyền thông và giao dịch điện tử, chưa bám sát với hoạt động quản lý thực tiễn trong các cơ quan nhà nước. Cụ thể:
+ Về lĩnh vực văn thư: Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư; Nghị định số 09/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ về công tác văn thư; Thông tư số 01/2011/TT-BNV hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính và bản sao văn bản; Thông tư số 07/2012/TT-BNV hướng dẫn quản lý văn bản, lập hồ sơ và nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào Lưu trữ cơ quan. Hệ thống văn bản này quy định các nội dung về quản lý văn bản đi, đến, sử dụng con dấu trong công tác văn thư; lập và nộp hồ sơ vào lưu trữ cơ quan; thể thức kỹ thuật trình bày văn bản hành chính đối với văn bản tài liệu giấy và con dấu truyền thống trong các cơ quan nhà nước. Các văn bản này chưa quy định việc quản lý văn bản đi, đến, sử dụng con dấu trong công tác văn thư; lập và nộp hồ sơ vào lưu trữ cơ quan; thể thức kỹ thuật trình bày văn bản hành chính đối với văn bản và tài liệu điện tử; chữ ký điện tử của người có thẩm quyền và chữ ký điện tử của cơ quan tổ chức trong văn bản tài liệu điện tử. Hơn nữa, Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư; Nghị định số 09/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ về công tác văn thư được ban hành căn cứ theo Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia số 34/2001/PL-UBTVQH10 đã hết hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2012.
+ Về lĩnh vực lưu trữ: Luật Lưu trữ năm 2011; Nghị định số 01/2013/NĐ-CP Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật lưu trữ và một số thông tư quy định về công tác thu thập, chỉnh lý, xác định giá trị, bảo quản, thống kê, sử dụng tài liệu lưu trữ nói chung. Đối với tài liệu lưu trữ điện tử, các quy định hiện nay mới chỉ quy định trên những nguyên tắc cơ bản về quản lý tài liệu điện tử như thu thập, xác định giá trị, bảo quản, sử dụng tài liệu lưu trữ. Chưa quy định chi tiết cụ thể: các chức năng cơ bản; quy trình trao đổi, lưu trữ, xử lý tài liệu điện tử; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình xử lý công việc trong hệ thống quản lý tài liệu điện tử; tiêu chuẩn dữ liệu thông tin đầu vào của tài liệu lưu trữ điện tử; yêu cầu bảo quản tài liệu lưu trữ điện tử.
– Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin cần được bổ sung hoàn thiện về kết nối, liên thông, định dạng dữ liệu gói tin, an toàn thông tin, các quy định về chữ ký điện tử phục vụ kết nối các hệ thống quản lý văn bản để gửi, nhận văn bản và tài liệu điện tử.