Top 10 # Trình Bày Đối Tượng Chức Năng Của Xã Hội Học Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Bài 1: Đối Tượng Nghiên Cứu Của Xã Hội Học

Tóm tắt lý thuyết

Thuật ngữ Xã hội học được một nhà xã hội học người Pháp – Auguste Comte (1798 – 1857) sử dụng vào năm 1838. Được ghép từ hai chữ, có hai nguồn gốc khác nhau: “Socius”, từ gốc Latinh và “Logos”, từ gốc Hi Lạp.

Xã hội học là môn khoa học xã hội còn rất non trẻ. Mặc dù vậy, khoa học đã và đang trở thành một ngành khoa học có vị trí quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những kết quả nghiên cứu của nó ngày càng trở nên thiết thực và có tác dụng không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Tuy nhiên, xã hội học là gì? Một câu hỏi không dễ trả lời trong một định nghĩa ngắn gọn và đây là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi trong suốt một thời gian dài, song nó cũng tạm lắng xuống bởi các nhà xã hội học cảm thấy rằng “đơn giản là không có một xã hội học duy nhất được thừa nhận và cung cấp được tất cả các câu trả lời, vì không có kiểu phát triển duy nhất của xã hội cho nên sẽ không có quan điểm xã hội học duy nhất”, và họ hướng tới tìm các câu trả lời cho các câu hỏi như xã hội học nghiên cứu ai, nghiên cứu như thế nào, ở đâu, lĩnh vực nào của đời sống xã hội? Nghiên cứu nó để làm gì và để giải quyết vấn đề nào?…

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần tìm hiểu qua một số quan niệm về xã hội học sau: nhà nghiên cứu Arce Alberto (Hà Lan) đã nói “Xã hội học là khoa học nghiên cứu về con người và xã hội”, TS Nguyễn Minh Hoà của thì kết luận “Xã hội học là khoa học nghiên cứu về các quan hệ xã hội thông qua các sự kiện, hiện tượng và quá trình xã hội”. Trong một kết luận khác từ Bruce J Cohen và cộng sự thì “Xã hội học là khoa học nghiên cứu có hệ thống về đời sống của các nhóm người”.

Qua những quan niệm trên chúng ta có thề đi đến kết luận sau: “Xã hội học là khoa học về các quy luật phát triển của các hệ thống xã hội có tính chất tổng thể (toàn xã hội) cũng như bộ phận. Xã hội học nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa các hiện tượng xã hội khác nhau và nghiên cứu những quy luật phổ biến trong hành động xã hội của con người”.

Nói một cách khác, xã hội học là một môn khoa học về các quy luật phổ biến và đặc thù của sự hoạt động và phát triển của các hình thức biểu hiện các quy luật ; trong đó, các hoạt động của các cá nhân, các tập đoàn xã hội, các giai cấp, các dân tộc được thể hiện.

Giống những khoa học khác, xã hội học cũng có nhiều trường phái khác nhau, nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của xã hội học cũng được nhìn nhận khác nhau. Có thể nói trong một thời gian dài, xã hội học bị xem là khủng hoảng về mặt lí luận, bởi những bất đồng về đối tượng nghiên cứu của các trường phái xã hội học. Chúng ta dễ dàng nhận thấy điều đó với các cách tiếp cận sau:

Thứ nhất, tiếp cận vĩ mô : đây là hướng tiếp cận của xã hội học Châu Âu, xác định xã hội học là khoa học về các hệ thống xã hội. Theo trường phái này, hành động xã hội của cá nhân chịu sự chi phối của các cơ chế xã hội mà biểu hiện là các thiết chế xã hội, các giá trị, chuẩn mực xã hội. Các cơ chế này tạo thành những khuôn mẫu, qui tắc xã hội bắt buộc mọi cá nhân trong xã hội phải chấp nhận và tuân theo. Như vậy, đối tượng nghiên cứu xã hội học theo trường phái này là các cơ cấu, các hệ thống xã hội mà biểu hiện của nó là các thiết chế xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, gia đình,…

Cách tiếp cận vĩ mô cho rằng xã hội là một hệ thống thống nhất hành động của cá nhân, cho nên muốn đạt đến sự thống nhất trong xã hội thì chỉ cần hoàn thiện cơ cấu xã hội. Như vậy, cách tiếp cận này đã tin tưởng tuyệt đối vào sự chi phối của xã hội đối với hành động xã hội của cá nhân.

Thứ hai, tiếp cận vi mô: đây là hướng tiếp cận của xã hội học Mỹ, theo cách tiếp cận này, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là hành vi xã hội hay hành động xã hội của con người. Các cơ chế hình thành các hành động đó bao gồm các tương tác xã hội giữa các cá nhân, sự hình thành động cơ và các tác nhân hành động của nhóm. Như vậy, chúng ta chỉ cần chuẩn hóa hành động xã hội thì xã hội sẽ đạt được sự thống nhất xã hội. Tiếp cận vi mô đã chỉ ra hành động xã hội của cá nhân trong các tình huống xã hội cụ thể để hướng tới chuẩn hóa nhung không nói rõ được cơ chế chi phối xã hội đối với hành động xã hội.

Thứ ba, cách tiếp cận tích hợp: cách tiếp cận này cho rằng, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là cả xã hội loài người và hành vi xã hội của con người. Có thể thấy, đây là sự tổng hợp của trường phái xã hội học Châu Âu (vĩ mô) và trường phái xã hội học Mỹ (vi mô).

Qua ba cách tiếp cận trên, chúng ta có thể thấy được vấn đề gây tranh cãi: với hướng tiếp cận thứ nhất, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là cơ cấu xã hội, hệ thống xã hội thì xã hội học đã bị triết học lấn át. Tiếp cận vi mô, là nghiên cứu hành vi, hành động xã hội của cá nhân, hướng này tâm lý học sẽ lấn át và với cách tiếp cận thứ ba, xã hội bị cho là có đối tượng nghiên cứu không rõ ràng, do con người và xã hội còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác, không riêng gì xã hội học.

Tuy nhiên, những phân tích trên có khả năng mở ra hướng thoát cho đối tượng nghiên cứu xã hội học khỏi sự khủng hoảng và bị biến mất. Thực vậy, có thể thấy rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học không phải ở chỗ hoặc nghiên cứu về con người hoặc nghiên cứu về xã hội hay nghiên cứu cả hai: con người và xã hội. Mà nghiên cứu mối quan hệ hữu cơ, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa một bên là con người và một bên là xã hội.

Xã hội học có tính độc lập tương đối của nó trong mối quan hệ với các khoa học khác. Nó có đối tượng, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu cụ thể. Dù vậy, xã hội học với một số khoa học khác vẫn có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau.

Quan hệ giữa xã hội học với triết học.

Triết học nghiên cứu các quy luật chung về sự hình thành và phát triển xã hội. Quan hệ giữa triết học và xã hội học là quan hệ giữa khoa học cụ thể với thế giới quan khoa học. Các nhà xã hội học Mácxít vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật làm công cụ lý luận sắc bén để nghiên cứu và cải thiện mối quan hệ giữa con người và xã hội.

Trong quan hệ với triết học, các nhà xã hội học tránh hai quan niệm cản trở sự phát triển của xã hội học.

Quan niệm thứ nhất: Cho rằng xã hội học là một bộ phận của triết học, quan niệm này đã đồng nhất việc nghiên cứu lý luận xã hội học với chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc giải thích đời sống xã hội. Thực tế, quan niệm này trong một thời gian đã làm ngưng trệ quá trình hình thành xã hội học như là một khoa học độc lập ở một số nước.

Quan niệm thứ hai: Cho rằng xã hội học biệt lập hay đối lập với triết học. Những người theo quan niệm này lập luận rằng, xã hội học ra đời với tư cách là một khoa học cụ thể, đối lập với triết học tư biện, kinh viện, giáo điều, bất lực trước các vấn đề mới mẻ nảy sinh từ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội Châu Âu thế kỷ XIX. Nói cách khác, xã hội học không có mối liên hệ gì đáng kể so với triết học.

Quan niệm này cố tình làm ngơ hoặc không nhìn thấy một thực tế là xã hội học bao giờ cũng có tính triết học và tính tư tưởng. Tính triết học của xã hội học thể hiện ở chỗ xã hội học tìm hiểu bản chất của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội, nhận thức quy luật chung của sự vận động, phát triển của con người và xã hội.

Trong xã hội học, tính triết học của xã hội học gắn liền với thế giới quan, hệ tư tưởng và tính giai cấp. Các nhà xã hội học Mácxít xây dựng học thuyết xã hội học trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng về lịch sử, xã hội và con người, luôn coi triết học Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận, là vũ khí tư tưởng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội công bằng, văn minh.

Vì vậy, có thể nói giữa xã hội học và triết học có mối quan hệ biện chứng. Các nghiên cứu xã hội học cung cấp những thông tin và phát hiện các vấn đề, bằng chứng mới làm phong phú kho tàng tri thức và phương pháp luận triết học. Trên cơ sở nắm vững tri thức xã hội học ta có thể vận dụng một cách sáng tạo tri thức triết học vào thực tiễn.

Quan hệ xã hội học và tâm lý học.

Chúng ta có thể khó phân biệt ranh giới giữa tâm lý học và xã hội học, chúng đều nghiên cứu về con người (đặc biệt khó phân biệt giữa tâm lý học xã hội và xã hội học).

Ở giai đoạn đầu phát triển, xã hội học Châu Âu không chấp nhận vai trò của tâm lý học trong việc giải quyết các vấn đề xã hội học. Trong khi đó ở xã hội học Mỹ, một số tác giả như G.Homans cho rằng cần sử dụng tâm lý học để giải thích các hiện tượng xã hội học, bởi hành động con người, tương tác giữa các cá nhân là nền tảng của các quá trình xã hội, cơ cấu xã hội mà hành động cá nhân được coi là kết quả của tâm lý cá nhân. Do vậy, các quy luật tâm lý cá nhân phải là những nguyên lý nghiên cứu cơ bản của xã hội học.

Cuộc giằng co lý luận giữa xã hội học và tâm lý học vẫn còn tiếp diễn, không phân thắng bại. Kết quả là tâm lý học xã hội trở thành một chuyên ngành của cả tâm lý học và xã hội học.

Tuy nhiên, giữa xã hội học và tâm lý học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, các nhà xã hội học có thể vận dụng cách tiếp cận của tâm lý học để xem xét hành động xã hội với tư cách là hoạt động cảm tính, có đối tượng, có mục đích.

Như vậy, xã hội học không bị tâm lý học lấn át vì xã hội học không tập trung nghiên cứu về cá nhân, về hành vi xã hội, về hoạt động tâm lý của con người. Xã hội học cũng không phải là “khoa học nửa nọ nửa kia” vì không nghiên cứu theo kiểu “mỗi thứ một ít”, tức là vừa nghiên cứu con người vừa nghiên cứu xã hội một cách biệt lập với nhau.

Như vậy, xã hội học có thể vận dụng cách tiếp cận tâm lý học để xem xét hành động xã hội với tư cách là hoạt động cảm tính, có đối tượng, mục đích.

Quan hệ giữa xã hội học và kinh tế học.

Xã hội học và kinh tế học có mối quan hệ gắn kết. Kinh tế học nghiên cứu quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng của cải vật chất xã hội. Nó cũng nghiên cứu những vấn đề như việc làm, thất nghiệp, lạm phát… Trong các lĩnh vực như vậy, xã hội học nghiên cứu về tương tác giữa con người với con người trong kinh tế (sản xuất, phân phối, lưu thông), nghiên cứu những mô hình tương tác trong quan hệ kinh tế.

Một số khái niệm và lý thuyết kinh tế học đã được vận dụng để nghiên cứu về xã hội học như khái niệm thị trường, giá trị, lý thuyết trao đổi xã hội… Ngược lại, một số khái niệm, phương pháp và thành tựu nghiên cứu xã hội học được các nhà kinh tế học hết sức quan tâm. Sự giao thoa này cho ra đời ngành Kinh tế học xã hội.

Quan hệ giữa xã hội học và nhân chủng học.

Như đã nói, Xã hội học và Nhân chủng học có nhiều mối tương đồng về đối tượng nghiên cứu, nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau để phân chia chúng thành hai môn khoa học độc lập. Nhân chủng học thường có đối tượng nghiên cứu là các xã hội, dân tộc phát triển chậm. Còn xã hội học thường định hướng vào các xã hội hiện đại, các xã hội phát triển, các xã hội công nghiệp.

Nhiều khái niệm và phương pháp nghiên cứu của xã hội học bắt nguồn từ nhân chủng học. Chẳng hạn khái niệm “văn hóa” được sử dụng lần đầu tiên trong công trình nghiên cứu của nhà nhân chủng học Tylor người Anh.

Xã hội học cũng có tác động trở lại với nhân chủng học về mặt phương pháp nghiên cứu. Ví dụ: việc vận dụng lý thuyết của Durkhiem về vai trò của cơ cấu xã hội, chức năng của các thiết chế xã hội, nhà nhân chủng học người Anh Radcliffe Brown đã lý giải sự sống và khác nhau giữa các xã hội cụ thể đặc thù.

Quan hệ giữa xã hội học với luật học.

Pháp luật là hệ thống các chuẩn mực và quy tắc hành động do cơ quan có thẩm quyền chính thức ban hành, có tác dụng quy định và kiểm soát xã hội đối với hành động và các quan hệ xã hội nên từ lâu các nhà xã hội học rất quan tâm nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu có thể vận dụng lý thuyết xã hội học để phân tích sự phát triển của hệ thống pháp luật cũng như mối liên hệ giữa pháp luật với cơ cấu, hệ thống xã hội. Từ đó hình thành một lĩnh vực giáp ranh giữa luật và xã hội học. Các nhà xã hội học trước đây như K.Marx, Durkheim, Weber đều chú ý phân tích xã hội học về tổ chức và thiết chế pháp luật.

Các nhà nghiên cứu có thể vận dụng lý thuyết xã hội học để phân tích sự phát triển của hệ thống pháp luật, cũng như mối liên hệ giữa pháp luật và cơ cấu xã hội. Khi nghiên cứu về nhà nước và pháp luật, chúng tôi đã đưa ra nhiều ý tưởng khái quát rất quan trọng đối với xã hội học về luật.

Ví dụ: Theo quan điểm của K.Marx, hệ thống pháp luật tư sản là một bộ phận của nhà nước tư sản, là công cụ áp bức giai cấp, chúng tôi nhận định tư tưởng thống trị là tư tưởng của giai cấp thống trị.

Các nhà xã hội học rất quan tâm tới vai trò của luật pháp đổi với xã hội. Ví dụ: Weber cho rằng luật pháp là một lực lượng đoàn kết, tập hợp và biến đổi xã hội. Weber đã phân tích tầm quan trọng của luật pháp với tư cách là một nhân tố của quá trình duy lí góp phần hình thành và phát triển xã hội hiện đại và chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.

Ngày nay các nhà xã hội học thường quan tâm xem xét, đánh giá ảnh hưởng qua lại giữa hệ thống luật pháp và hệ thống xã hội.

Đối Tượng Và Chức Năng Của Bảo Hiểm Xã Hội

Đối tượng BHXH

Chức năng của BHXH

Chức năng là sự khái quát các nhiệm vụ cơ bản. Cũng như các thành phần khác của nền kinh tế bảo hiểm, BHXH có hai chức năng cơ bản là phân phối và giám đốc. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của mình BHXH không những có tính kinh tế mà còn có tính xã hội rất cao. Vì vậy, BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, BHXH bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động.

BHXH thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐtham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động BHXH.

Thứ hai, BHXH góp phần phân phối lại thu nhập

BHXH tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có NLĐ mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số NLĐ tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những NLĐ có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm đau phải nghỉ việc… Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.

Thứ ba, BHXH kích thích, khuyến khích người lao động hăng hái lao động sản xuất

Đối với NLĐ khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, NLĐ được chủ SDLĐ trả lương hoặc tiền công. Khi ốm đai, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, NLĐ yên tâm làm việc và tích cực lao động sản xuất làm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích NLĐ nâng cao năng suất lao động vá nhân và kéo theo là năng xuất lao động xã hội tăng lên.

Thứ tư, BHXH phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội

Vị Trí, Đối Tượng, Phương Pháp, Chức Năng Của Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học

CHƯƠNG I a. Khái niệm: Chủ nghĩa xã hội khoa học là một ý nghĩa về – mặt lý luận nằm trong khái niệm CNXH, là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu sự vận động của xã hội tư bản, đặc biệt là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ được thay thế bằng xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.

b. Đặc điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học:

+ Trước hết, về nhận thức: thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội khoa học” nó chỉ là một ý nghĩa lý luận nằm trong khái niệm “chủ nghĩa xã hội”, giai đoạn hình thành phát triển của “chủ nghĩa xã hội khoa học” là đỉnh cao nhất của sự phát triển tư tưởng “chủ nghĩa xã hội”. + Hai là, “chủ nghĩa xã hội khoa học” khác với chủ nghĩa xã hội không tưởng là ở chỗ nó đã chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức thủ tiêu tình trạng người bóc lột người mà những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng hằng mơ ước. + Ba là, lý luận của “chủ nghĩa xã hội khoa học” được xây dựng là dựa trên cơ sở đúc kết của triết học Mác – Lênin và của kinh tế học chính trị học Mác – Lênin.

+ Bốn là, chủ nghĩa xã hội khoa học là thế giới quan, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, nó biểu hiện không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà của toàn thể nhân dân lao động trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới .

+ Năm là, lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học là sự tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động chống lại sự áp bức bóc lột, bất công và từ những kinh nghiệm trong xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa . Lưu ý:

Trước Mác, Pie Lơ Rút người Pháp, là người đầu tiên đưa ra danh từ “Chủ nghĩa xã hội” ( tức xu hướng xã hội hóa sản xuất) và tính từ “xã hội chủ nghĩa”.

2 Vị trí của chủ nghĩa xã hội khoa học

Theo nghĩa hẹp: CNXH KH là một trong ba bộ phận của chủ nghĩa Mác – Lênin ( Gồm có: triết học Mác – Lênin, kinh tế học chính trị Mác – Lênin và CN XHKH ) CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNINTRIẾT HỌC MÁC- LÊNINKINH TẾ- CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNINCNXH KH VỀ CM XHCN VỀ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CSCN– VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂNMÔ HÌNH: 01+ Theo nghĩa rộng: chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa Mác-Lênin

CNXH KH tức là chủ nghĩa Mác-Lênin bởi vì, suy cho cùng cả triết học Mác lẫn kinh tế học chính trị Mác đều luận giải dẫn đến tính tất yếu của lịch sử là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa, tức CNXHKH.

1. Triết học và kinh tế chính trị Mác-Lênin là cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học

MÔ HÌNH: 02CNXH KHCƠ SỞ LÝ LUẬNTRIẾT HỌCMÁC- LÊNINKINH TẾ- CHÍNH TRỊ MÁC LÊNINĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU LÀ NHỮNG QUY LUẬT CHUNG NHẤT CỦA TỰ NHIÊN, XÃ HỘI, TƯ DUY.+ LÀ THẾ GIỚI QUAN, NHÂN SINH QUAN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN ĐẠI+ LÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG CHO CNXH KHNGHIÊN CỨU NHỮNG QL CỦA NHỮNG QUAN HỆ XH HÌNH THÀNH TRONG QUÁ TRÌNH SX VÀ TÁI SX CỦA CẢI VẬT CHẤT, PHÂN PHỐI, TRAO ĐỔI, TIÊU DÙNG CỦA CẢI ĐÓ TRONG NHỮNG TRÌNH ĐỘ NHẤT ĐỊNH CỦA SỰ PHÁT TRIỂN XH LOÀI NGƯỜI, ĐẶC BIỆT LÀ NHỮNG QL TRONG CHẾ ĐỘ TBCN VÀ QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TẤT YẾU LÊN CNXH 2. Đối tượng nghiên cứu của CNXH KHCNXH KHOA HỌCNHỮNG QUY LUẬTNHỮNG PHẠM TRÙ, KHÁI NIỆM, VẤN ĐỀQuá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản”.Có tính quy luậtMÔ HÌNH: 04

3. Phạm vi khảo sát và vận dụng của CNXH KHNhững vấn đề chính trị – xã hộiKhảo sát, phân tích thực tiễn, thực tế trong và ngoài nướcLý luận chủ nghĩa Mác-LêninMÔ HÌNH:04Phương pháp luận khoa học: CNDV BC & CNDV LS Phương pháp kết hợp lịch sử và logicPhương pháp có tính liên ngànhPhương pháp khảo sát và phân tích về chính trị xã hộiPhương pháp tổng kết lý luận từ thực tiễn Mô hình:05 Thứ ba, định hướng về chính trị – xã hội cho mọi hoạt động của giai cấp công nhân, của Đảng cộng sản, của Nhà nước và của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực, nhằm mục tiêu đi tới xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa.

Thứ hai, trang bị quan điểm lập trường cộng sản chủ nghĩa cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

2.Ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập CNXH KH

Về mặt lý luận: việc nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin phải chú ý nghiên cứu cả ba bộ phận hợp thành của nó.

Về mặt thực tiễn: phải thấy được khoảng cách giữa lý luận và thực tế của quá trình xây dựng CNXH.

Vị Trí, Đối Tượng, Phương Pháp, Chức Năng Của Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học Chuong1 Ppt

CHƯƠNG I a. Khái niệm: Chủ nghĩa xã hội khoa học là một ý nghĩa về – mặt lý luận nằm trong khái niệm CNXH, là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu sự vận động của xã hội tư bản, đặc biệt là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ được thay thế bằng xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.

b. Đặc điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học:

+ Trước hết, về nhận thức: thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội khoa học” nó chỉ là một ý nghĩa lý luận nằm trong khái niệm “chủ nghĩa xã hội”, giai đoạn hình thành phát triển của “chủ nghĩa xã hội khoa học” là đỉnh cao nhất của sự phát triển tư tưởng “chủ nghĩa xã hội”. + Hai là, “chủ nghĩa xã hội khoa học” khác với chủ nghĩa xã hội không tưởng là ở chỗ nó đã chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức thủ tiêu tình trạng người bóc lột người mà những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng hằng mơ ước. + Ba là, lý luận của “chủ nghĩa xã hội khoa học” được xây dựng là dựa trên cơ sở đúc kết của triết học Mác – Lênin và của kinh tế học chính trị học Mác – Lênin.

+ Bốn là, chủ nghĩa xã hội khoa học là thế giới quan, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, nó biểu hiện không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà của toàn thể nhân dân lao động trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới .

+ Năm là, lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học là sự tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động chống lại sự áp bức bóc lột, bất công và từ những kinh nghiệm trong xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa . Lưu ý:

Trước Mác, Pie Lơ Rút người Pháp, là người đầu tiên đưa ra danh từ “Chủ nghĩa xã hội” ( tức xu hướng xã hội hóa sản xuất) và tính từ “xã hội chủ nghĩa”.

2 Vị trí của chủ nghĩa xã hội khoa học

Theo nghĩa hẹp: CNXH KH là một trong ba bộ phận của chủ nghĩa Mác – Lênin ( Gồm có: triết học Mác – Lênin, kinh tế học chính trị Mác – Lênin và CN XHKH ) CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNINTRIẾT HỌC MÁC- LÊNINKINH TẾ- CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNINCNXH KH VỀ CM XHCN VỀ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CSCN– VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂNMÔ HÌNH: 01+ Theo nghĩa rộng: chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa Mác-Lênin

CNXH KH tức là chủ nghĩa Mác-Lênin bởi vì, suy cho cùng cả triết học Mác lẫn kinh tế học chính trị Mác đều luận giải dẫn đến tính tất yếu của lịch sử là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa, tức CNXHKH.

1. Triết học và kinh tế chính trị Mác-Lênin là cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học

MÔ HÌNH: 02CNXH KHCƠ SỞ LÝ LUẬNTRIẾT HỌCMÁC- LÊNINKINH TẾ- CHÍNH TRỊ MÁC LÊNINĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU LÀ NHỮNG QUY LUẬT CHUNG NHẤT CỦA TỰ NHIÊN, XÃ HỘI, TƯ DUY.+ LÀ THẾ GIỚI QUAN, NHÂN SINH QUAN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN ĐẠI+ LÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG CHO CNXH KHNGHIÊN CỨU NHỮNG QL CỦA NHỮNG QUAN HỆ XH HÌNH THÀNH TRONG QUÁ TRÌNH SX VÀ TÁI SX CỦA CẢI VẬT CHẤT, PHÂN PHỐI, TRAO ĐỔI, TIÊU DÙNG CỦA CẢI ĐÓ TRONG NHỮNG TRÌNH ĐỘ NHẤT ĐỊNH CỦA SỰ PHÁT TRIỂN XH LOÀI NGƯỜI, ĐẶC BIỆT LÀ NHỮNG QL TRONG CHẾ ĐỘ TBCN VÀ QUÁ TRÌNH CHUYỂN BIẾN TẤT YẾU LÊN CNXH 2. Đối tượng nghiên cứu của CNXH KHCNXH KHOA HỌCNHỮNG QUY LUẬTNHỮNG PHẠM TRÙ, KHÁI NIỆM, VẤN ĐỀQuá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản”.Có tính quy luậtMÔ HÌNH: 04

3. Phạm vi khảo sát và vận dụng của CNXH KHNhững vấn đề chính trị – xã hộiKhảo sát, phân tích thực tiễn, thực tế trong và ngoài nướcLý luận chủ nghĩa Mác-LêninMÔ HÌNH:04Phương pháp luận khoa học: CNDV BC & CNDV LS Phương pháp kết hợp lịch sử và logicPhương pháp có tính liên ngànhPhương pháp khảo sát và phân tích về chính trị xã hộiPhương pháp tổng kết lý luận từ thực tiễn Mô hình:05 Thứ ba, định hướng về chính trị – xã hội cho mọi hoạt động của giai cấp công nhân, của Đảng cộng sản, của Nhà nước và của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực, nhằm mục tiêu đi tới xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa.

Thứ hai, trang bị quan điểm lập trường cộng sản chủ nghĩa cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

2.Ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập CNXH KH

Về mặt lý luận: việc nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin phải chú ý nghiên cứu cả ba bộ phận hợp thành của nó.

Về mặt thực tiễn: phải thấy được khoảng cách giữa lý luận và thực tế của quá trình xây dựng CNXH.