Top 9 # Vai Trò Chức Năng Của Văn Hóa Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Đặc Trưng, Chức Năng Và Vai Trò Của Văn Hóa Là Gì?

Tính tới thời điểm hiện tại, có rất nhiều nghiên cứu về văn hóa đã được thực hiện nhưng có vẻ như vẫn chưa có một câu trả lời thích đáng cho câu hỏi văn hóa là gì. Để định nghĩa một khái niệm khó nhằn như vậy, trước hết ta cần làm rõ những đặc trưng nổi bật, chức năng cùng vai trò của văn hóa.

1. Bản chất của văn hóa là gì?

Văn hóa là gì ? Thực tế văn hóa có rất nhiều nghĩa khác nhau, có thể định nghĩa văn hóa theo nhiều góc độ. Xét theo mặt ngữ nghĩa thông thường, văn hóa là từ dùng để chỉ học thức, trình độ học vấn, lối sống, đạo đức… Gắn những yếu tố ấy với thời gian, văn hóa lại được dùng để chỉ trình độ phát triển, nét độc đáo, phong tục tập quán của một giai đoạn, một thời kỳ như văn hóa Phục Hưng, văn hóa Đông Sơn.

Mở rộng theo chiều không gian, văn hóa bao gồm tất cả những sản phẩm từ đơn giản đến phức tạp, cổ điển hay hiện đại, từ tín ngưỡng đến phong tục, từ lối sống, nếp nghĩ, cách làm đến cư xử, giao tiếp, lao động…

Tóm lại, văn hóa là tất cả những gì mà con người sáng tạo ra, được hình thành từ thuở sơ khai nhất, được soi chiếu dưới lăng kính của không gian và thời gian. Bản chất của văn hóa là những giá trị tinh thần, vật chất mà con người trong quá trình tiến hóa, phát triển tạo ra để thích nghi với cuộc sống, với xã hội.

2. Đặc trưng của văn hóa là gì?

2.1. Văn hóa có tính hệ thống

Cần phải phân biệt rạch ròi giữa tính hệ thống với tính tập hợp. Tính hệ thống của văn hóa có “xương sống” là mối liên hệ mật thiết giữa các thành tố với nhau, các thành tố có thể bao gồm hàng loạt các sự kiện, nó kết nối những hiện tượng, quy luật lại với nhau trong quá trình phát triển.

Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có thể thực hiện được các chức năng của xã hội. Lý do là bởi văn hóa bao trùm lên tất cả các hoạt động, các lĩnh vực. Từ đó có thể làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp và trang bị cho xã hội những phương tiện cần thiết để ứng biến với môi trường tự nhiên.

Nói cách khác, văn hóa xây lên nền tảng vững chắc cho sự phát triển tiến bộ của xã hội. Có lẽ chính vì thế mà người ta thường gắn văn hóa với loại từ “nền” để tạo thành cụm từ thông dụng “nền văn hóa”.

2.2. Văn hóa có tính giá trị

Văn hóa khi được hiểu theo khía cạnh của một tính từ sẽ mang nghĩa là tốt đẹp, là có giá trị. Người có văn hóa cũng chính là một người có giá trị. Do đó mà văn hóa trở thành thước đo chuẩn mực cho con người và xã hội.

Văn hóa tự chính bản thân nó cũng mang trong mình những giá trị riêng bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Xét về mặt ý nghĩa thì văn hóa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức. Đứng trên góc độ thời gian lại có thể chia văn hóa thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời.

Với mỗi góc độ khác nhau gắn với một sự vật, hiện tượng, sự kiện khác nhau ta lại có thể có cái nhìn khác nhau. Từ những cái nhìn này, ta có thể đánh giá văn hóa dưới những góc độ khách quan quan khác nhau.

2.3. Văn hóa có tính nhân sinh

Tính nhân sinh của văn hóa có nghĩa rằng văn hóa được coi như một hiện tượng xã hội. Hiện tượng xã hội được hiểu là những hiện tượng do con người sáng tạo ra hay còn gọi là nhân tạo, khác với các giá trị tự nhiên hay còn gọi là thiên tạo. Chính vì là một thực thể có tính nhân sinh nên văn hóa chịu tác động của cả vật chất lẫn tinh thần của con người.

Đồng thời, vì có tính nhân sinh nên văn hóa vô tình trở thành sợi dây liên kết giữa người với người, vật với vật và cả vật với người. Đó chính là ý nghĩa nhân sinh sâu sắc nhất mà văn hóa hàm chứa.

2.4. Văn hóa có tính lịch sử

Văn hóa phản ánh quá trình sáng tạo của con người trong một không gian và thời gian nhất định. Chính vì thế mà văn hóa cũng gắn liền với chiều dài lịch sử, thậm chí là văn hóa hàm chứa lịch sử. Tính lịch sử khiến cho văn hóa mang đặc trưng có bề dày, có chiều sâu, có hệ giá trị. Nhờ có tính lịch sử mà văn hóa cũng cần được duy trì, nói một cách khác đó là biến văn hóa trở thành truyền thống văn hóa.

Văn hóa có tính lịch sử cao cần phải được tích lũy, được gìn giữ và không ngừng tái tạo, chắt lọc những tinh hoa, không ngừng sản sinh và phát triển để hoàn thiện dưới dạng ngôn ngữ, phong tục,…

3. Chức năng của văn hóa là gì?

3.1. Chức năng tổ chức xã hội

Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có thể thực hiện chức năng tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội cho phép con người tổ chức, tụ họp thành những đơn vị làng, xã, thành phố đến quốc gia, khu vực.

Cụ thể, văn hóa gia đình chính là yếu tố giúp con người hình thành nhận thức và hành động duy trì, phát triển các mối quan hệ trong gia tộc, dòng họ. Chính sự duy trì và bảo tồn này cũng giúp lưu giữ nguyên vẹn những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp dẫu trải qua hàng ngàn năm đổi thay.

3.2. Chức năng điều chỉnh xã hội

Chức năng này xuất phát từ đặc trưng mang tính giá trị của văn hóa. Mỗi một nền văn hóa đều có những giá trị riêng, những giá trị này được hình thành thông qua quá trình con người điều chỉnh thói quen, nhận thức và hành động để có thể thích nghi với sự thay đổi từ môi trường.

Nhờ có chức năng này mà ta có thể thấy được sự đa dạng giữa các nền văn hóa với nhau, đồng thời cũng có thể tìm thấy những nét tương đồng đáng ngạc nhiên giữa các nền văn hóa. Đó chính là mục tiêu và động lực trong sự phát triển của nhân loại.

Tính nhân sinh của văn hóa tạo ra chức năng giao tiếp. Chính vì là một sợi dây vô hình kết nối con người với con người nên văn hóa có khả năng “giao tiếp”. Đó là lý do mà văn hóa chỉ được dùng với xã hội loài người, vì chỉ có con người mới có thể giao tiếp với nhau thông qua hệ thống ngôn ngữ và ký hiệu. Trong đó, hệ thống ngôn ngữ và ký hiệu chính là các sản phẩm của văn hóa.

Nói cách khác, văn hóa tạo ra môi trường giao tiếp cho con người. Nhờ có văn hóa mà con người có thể giao tiếp với nhau bằng lời nói, cử chỉ, hành động,… để truyền đạt thông tin cho nhau.

Văn hóa có tính lịch sử, vì thế mà nó có chức năng giáo dục. Lý do là bởi văn hóa có năng lực thông tin hoàn hảo. Sự truyền đạt thông tin này được thể hiện thông qua sự quan sát và bắt chước hành vi. Thế hệ sau quan sát và bắt chước hành vi của thế hệ trước, sự tích lũy này diễn ra từng ngày, sự chuyển giao cứ thế được thực hiện.

Chính vì thế mà văn hóa luôn gắn liền với những chuẩn mực đạo đức, người có văn hóa tức là người được tiếp nhận giáo dục, biến những giá trị mình thu nạp trở thành giá trị của riêng bản thân, văn hóa khi ấy được nâng cấp lên trở thành bản sắc của mỗi con người.

4. Vai trò của văn hóa là gì?

4.1. Văn hóa là cơ sở xã hội hóa các cá nhân

Văn hóa được thể hiện là những nhận thức của mỗi người nhằm đảm bảo sự hòa đồng của các cá nhân vào xã hội chung cũng như năng lực lao động của các cá nhân để đảm bảo đời sống của chính họ.

4.2. Văn hóa là cơ sở phát triển kinh tế

Văn hóa trong lĩnh vực kinh tế được hiểu là cơ sở vật chất cũng như năng lực lao động của con người. Điều này đồng nghĩa với việc nền văn hóa phát triển cao thì người lao động cũng sẽ có năng lực tốt.

4.3. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội

Các giá trị văn hóa tạo nên nền tảng vững chắc của xã hội, đó là nền tảng tinh thần nếp nghĩ, từ truyền thống, từ tình cảm, từ vốn hiểu biết, tất cả tích tụ lại trở thành sức mạnh ghê gớm của một cộng đồng, giúp dân tộc vượt qua thách thức.

4.4. Văn hóa hoàn thiện cá nhân

Văn hóa là cơ sở hình thành nhân cách cá nhân thông qua quá trình tiếp nhận văn hóa, từ đó làm đầy kiến thức, kỹ năng và cảm xúc để làm chủ mình trong mọi tình huống.

Nếu bạn vẫn còn bất cứ thắc mắc, băn khoăn nào hãy liên hệ ngay với Tri Thức Cộng Đồng thông qua SĐT: 0946 88 33 50 hoặc Email: ttcd.group@gmail.com để được hỗ trợ.

Nguồn: trithuccongdong.net

Vai Trò Của Văn Hóa Chính Trị

Hướng tới một nền chính trị dân chủ và nhân văn, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tới khía cạnh đạo đức, văn hóa đạo đức trong chính trị. Quan niệm nổi tiếng của Người về chính trị cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, tính tư tưởng và giá trị nhân văn chủ nghĩa sâu sắc. Người cho rằng, chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết, thanh khiết từ việc nhở đến việc lớn.

Đoàn kết để tập hợp lực lượng, tạo thành sức mạnh mà sức mạnh bền bỉ nhất là lòng dân, ý chí của dân, sự đồng tâm hiệp lực của dân, là sự hòa hợp dân tộc và đồng thuận xã hội. Muôn đoàn kết thì phải có sự chân thành, sự thành thật và tin cậy lẫn nhau, sự tôn trọng và tinh thần bao dung, khoan dung, độ lượng và nhân ái. Đó là cơ sở đạo đức của lãnh đạo, cầm quyền, là cái gốc của việc dùng người. Văn hóa thấm sâu vào hoạt động chính trị, nâng chính trị lên tầm của văn hóa chính trị. Văn hóa chính trị dựa trên hai nền tảng: khoa học và đạo đức. Con người trong hoạt động chính trị, muôn thực sự làm đúng sự ủy thác của xã hội và dân chúng phải có những phẩm chất và năng lực cần thiết, đó là tôn trọng chân lý khách quan và thực hành đạo lý nhân nghĩa. Người nắm giữ cương vị, chức vụ trong khi thực thi quyền lực được dân ủy quyển, thực thi công vụ vừa phải trọng dân vừa phải trọng pháp, gắn liền trọng dân với trọng pháp.

Văn hóa chính trị bảo đảm cho con người và hành vi chính trị của con người cũng như thể chê chính trị nói chung được trong sạch, minh bạch, phòng chống được những tệ quan liêu và tham nhũng, nghĩa là có sức vượt qua những nguy cơ tha hóa, biến chất khi cầm quyển. Liêm khiết, thanh khiết trong nền chính trị truyền thống của ông cha ta đặt ra những yêu cầu nghiêm ngặt của người làm quan, phải luôn trau dồi chữ tâm và chữ tài, ngay thẳng, chính trực không có gì khuất tất, mờ ám. Trong nền chính trị hiện đại của giai cấp công nhân cách mạng, đạo đức cách mạng. Các chuẩn mực giá trị: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là đòi hởi không thể thiểu đối với mỗi cán bộ là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ, công bộc của dân.

Không có văn hóa chính trị, trong đó có văn hóa đạo đức, việc nắm giữ quyền lực và thực thi quyên lực có nguy cơ thoái hóa, sai lệch, hư hởng. Lúc đó, dân chủ biến thành quan chủ, người cách mạng không còn là đày tớ trung thành, công bộc tận tụy của dân nữa mà là khuônmặt quan cách mạng”.

Đề Tài Về Cấu Trúc, Vai Trò Và Chức Năng Của Văn Hóa Pháp Luật

VỀ CẤU TRÚC, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA PHÁP LUẬT NGỌ VĂN NHÂN (*) Trong bài viết này, tác giả đã đi sâu phân tích cấu trúc của văn hoá pháp luật, bao gồm ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp luật, hành vi và lối sống theo pháp luật; đồng thời, làm rõ vai trò của văn hoá pháp luật trong việc tạo dựng môi trường xã hội – pháp lý lành mạnh cũng như định hướng hành vi của con người trong xã hội phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Theo tác giả, văn hoá pháp luật có những chức năng quan trọng, đó là chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng thực tiễn. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Do đó, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu văn hóa nói chung và văn hoá pháp luật nói riêng là vấn đề có ý nghĩa thời sự cấp bách. Văn hóa pháp luật là một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền văn hóa dân tộc. Trong những năm qua, vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa pháp luật ở nước ta đã và đang đạt được những kết quả nhất định. Trong phạm vi bài viết này, tác giả góp một tiếng nói, luận bàn về cấu trúc, vai trò và chức năng của văn hóa pháp luật. I. Cấu trúc của văn hóa pháp luật Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt đời sống của con người, của cộng đồng xã hội trong quá khứ và hiện tại, tạo nên một hệ thống các giá trị truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó, từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình. Theo cách hiểu đó, văn hóa là một lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể của mỗi dân tộc, được thể hiện qua ba yếu tố cốt lõi: các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ (yếu tố ý thức); các giá trị vật chất – kỹ thuật do con người lao động, sáng tạo ra trong lĩnh vực đó (hiện thực hóa yếu tố ý thức); năng lực, cách thức sử dụng các giá trị đã sáng tạo ra để đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của con người (yếu tố hành vi, lối sống). Các yếu tố này được giữ gìn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, phản ánh bản sắc riêng của mỗi dân tộc trong từng lĩnh vực hoạt động. Theo các căn cứ trên, văn hóa pháp luật được cấu thành từ các yếu tố: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp luật, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật.(*) 1. Ý thức pháp luật Ý thức pháp luật bao gồm hai bộ phận: tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật. Tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng, cảm xúc của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật biểu hiện cấp độ nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp luật truyền thống, kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Ở cấp độ này, ý thức pháp luật mới chỉ thể hiện sự thừa nhận, tiếp thu và xử sự theo sự thừa nhận, tiếp thu đó: điều hay, lẽ phải, việc nên làm, điều nên tránh… theo tình cảm hướng thiện. Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có tính chất lý luận và khoa học về pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các phạm trù khoa học. Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao, có hệ thống về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Nó là cơ sở để sáng tạo các giá trị pháp luật, phổ biến các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn trong xã hội. Là thành tố cơ bản của văn hóa pháp luật, ý thức pháp luật tích cực, tiến bộ là cơ sở, tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội, đảm bảo cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật. Việc củng cố và nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội hiện nay cần đảm bảo tính tiên tiến và bản sắc dân tộc. Tính tiên tiến và bản sắc dân tộc của ý thức pháp luật Việt Nam được quy định bởi những tư tưởng, quan niệm, học thuyết pháp lý tiến bộ, nhân đạo của nhân loại, của lý tưởng xã hội chủ nghĩa kết hợp với tình cảm pháp luật truyền thống của dân tộc Việt từ ngàn đời nay: sự coi trọng và giữ gìn truyền thống, sống có kỷ cương, tuân theo chuẩn mực; yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, đạo lý; thật thà và lương thiện… Tình cảm pháp luật đó hoàn toàn phù hợp với quy luật của cuộc sống hướng tới chân – thiện – mỹ. 2. Hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp luật Nếu xét văn hóa theo phương diện hoạt động thực tiễn xã hội thì hoạt động văn hóa pháp luật chính là quá trình hiện thực hóa yếu tố ý thức pháp luật, là quá trình con người sáng tạo ra các giá trị pháp luật. Đến lượt mình, các giá trị pháp luật lại nhằm đáp ứng và thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích về vật chất hay tinh thần của con người và xã hội. Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do Nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức nhất định. Có thể nói, hệ thống pháp luật là một biểu hiện rất cao của văn hóa pháp luật, có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành và phát triển của một nền văn hóa pháp luật. Các giá trị văn hóa pháp luật phải được kết tinh từ tính cụ thể, chặt chẽ và chính xác của từng quy phạm pháp luật, từ sự xác định rõ ràng giới hạn và nội dung của các chế định pháp luật cũng như từ tính hoàn chỉnh và thống nhất của mỗi ngành luật. Mỗi bộ luật, đạo luật được xây dựng và ban hành đều là kết quả của trí tuệ tập thể và phải được nhìn nhận như một sản phẩm văn hóa pháp luật. Hệ thống pháp luật, ở chừng mực nhất định, được coi là thước đo để đánh giá trình độ phát triển nền văn hóa pháp luật của một quốc gia. Bởi vậy, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật vừa là đòi hỏi khách quan của xã hội và của nền văn hóa pháp luật, vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển văn hóa pháp luật. Muốn có hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện thì cần xuất phát từ những tiêu chuẩn cơ bản của nó: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp dựa trên nền tảng trình độ kỹ thuật pháp lý cao; đồng thời, mang tính tiên tiến và thấm đượm bản sắc văn hóa dân tộc. Các thiết chế pháp luật là tổng thể các tổ chức, cơ quan nhà nước được trang bị những phương tiện vật chất nhất định và được giao những quyền hạn, trách nhiệm nhất định nhằm thực hiện các chức năng soạn thảo, phê chuẩn và ban hành pháp luật, thực hiện hoạt động giám sát, xét xử và bảo vệ pháp luật cũng như đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội. Các thiết chế pháp luật được xây dựng dựa trên các nguyên tắc, quy định của pháp luật, chịu sự chi phối của pháp luật và là công cụ quan trọng để thực hiện và bảo vệ pháp luật. Chúng là phương tiện để các chủ thể sử dụng nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình. Điều đó tạo ra các ưu thế của thiết chế pháp luật trong việc thúc đẩy sự sáng tạo các giá trị văn hóa pháp luật và sử dụng các giá trị đó trong đời sống xã hội. Ở nước ta hiện nay, “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(1). Theo đó, một cách tương đối, thiết chế pháp luật được chia làm ba loại: thiết chế lập pháp, thiết chế tư pháp và thiết chế hành pháp. Mỗi loại thiết chế pháp luật đó, theo tính năng của nó, đã và đang tham gia một cách tích cực vào sự phát triển của văn hóa pháp luật Việt Nam. Chẳng hạn, theo thiết chế hành pháp, các chủ thể quản lý nhà nước và xã hội sử dụng các quy phạm pháp luật, các phương tiện pháp luật và quyền hạn được trao để quản lý các mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Như vậy, các thiết chế pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nền văn hóa pháp luật, đối với sự sáng tạo các giá trị pháp luật; bởi lẽ, các thiết chế pháp luật có đầy đủ sức mạnh vật chất và tinh thần để xúc tiến sự sáng tạo, giáo dục và cổ vũ cho sự phát triển văn hóa pháp luật. 3. Hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật Hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật là thành tố thứ ba của văn hóa pháp luật; thể hiện cách thức, khả năng và trình độ sử dụng các công cụ pháp luật của từng cá nhân, cộng đồng xã hội và Nhà nước trong quá trình đấu tranh vì công lý, bình đẳng và tiến bộ xã hội theo định hướng chân – thiện – mỹ.(1) Hành vi pháp luật là hành động có ý thức của con người (công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội…) diễn ra trong môi trường điều chỉnh của pháp luật. Hành vi pháp luật có thể mang tính tích cực hay tiêu cực, trong mọi trường hợp, nó chỉ có thể là hành vi hợp pháp hoặc là hành vi bất hợp pháp. Cố nhiên, với tư cách yếu tố cấu thành hữu cơ của văn hóa pháp luật, hành vi pháp luật được hiểu với nghĩa là hành vi xử sự tích cực đối với pháp luật, dựa trên cơ sở những tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Hành vi pháp luật tích cực (hành vi hợp pháp) có ý nghĩa xã hội và văn hóa rất lớn. Nó, một mặt, nói lên mục đích, động cơ trong hành vi của chủ thể; mặt khác, phản ánh nhu cầu của tiến bộ xã hội, nói lên sự hài hòa ở những mức độ khác nhau giữa lợi ích xã hội (được phản ánh trong pháp luật) với lợi ích cá nhân, giữa nhu cầu của Nhà nước và nhu cầu của công dân, góp phần giữ gìn sự ổn định, đồng thuận xã hội và tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật. Lối sống theo pháp luật luôn gắn liền với hành vi pháp luật và là thành tố không thể thiếu tạo nên văn hóa pháp luật. Lối sống là tổng hòa những nét cơ bản đặc trưng cho phương thức hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của các giai cấp, các dân tộc, các nhóm xã hội trong những điều kiện xã hội nhất định. Lối sống theo pháp luật là một loại hình của lối sống, trong đó, dựa trên nền tảng ý thức pháp luật tiên tiến, các cộng đồng xã hội tổ chức các hoạt động sống, sản xuất, sinh hoạt sao cho phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật. Lối sống theo pháp luật là sự biểu hiện cao của lối sống có văn hóa. Do mang tính cộng đồng nên lối sống theo pháp luật có tác dụng tạo ra môi trường tích cực cho quá trình xã hội hóa hành vi pháp luật của các cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội. Sự tích lũy và phát triển các giá trị văn hóa là kết quả bền vững nhất, mang tính nền tảng nhất của tiến bộ xã hội. Lối sống theo pháp luật vừa có tác dụng đóng góp vào quá trình sáng tạo ra các giá trị pháp luật, vừa là quá trình tiếp nhận và phát huy các giá trị pháp luật trong thực tiễn cuộc sống của con người, mà đỉnh cao của nó là “sống, làm việc theo pháp luật”. Xây dựng lối sống theo pháp luật là mục tiêu và nhiệm vụ cấp bách của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay. Với tư cách một bộ phận cấu thành văn hóa pháp luật, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật phải được thẩm thấu vào trong hành vi tự giác chấp hành pháp luật, trở thành thói quen, lối sống của mỗi công dân. II. Vai trò của văn hóa pháp luật Văn hóa pháp luật là một bộ phận trọng yếu của đời sống tinh thần xã hội. Đời sống tinh thần của con người phát triển đa dạng, phong phú chính là nhờ sự kết hợp hài hòa và ngày càng hoàn thiện các giá trị chân – thiện – mỹ. Văn hóa pháp luật là sự định hướng hoạt động pháp luật tuân theo cái chân, củng cố và xác lập ý thức pháp luật theo quy luật hướng thiện, từ đó mà vươn tới cái mỹ. Sự phát triển của văn hóa pháp luật đánh dấu sự tiến bộ mang tính nhân văn trong đời sống của một cộng đồng xã hội, một thời đại. Các thế hệ con người sinh ra và lớn lên, muốn thích ứng được với đời sống cộng đồng, phải được giáo hóa bằng chính nền văn hóa của cộng đồng, của dân tộc, trong đó có văn hóa pháp luật. Nếu văn hóa là môi trường nuôi dưỡng con người lớn lên về tinh thần, trí tuệ và nhân cách, thì văn hóa pháp luật đã và đang góp phần tạo dựng môi trường xã hội – pháp lý lành mạnh, mang tính nhân văn sâu sắc để các thế hệ dựa trên công lý mà vươn tới hạnh phúc, tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Văn hóa pháp luật củng cố và xác lập một hệ thống các giá trị pháp luật cho xã hội với các khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực hành vi sao cho phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, văn hóa pháp luật định hướng cho các thành viên xã hội vươn tới tiếp thu, vận dụng các giá trị đó vào cuộc sống; đồng thời, sáng tạo nên những giá trị pháp luật mới, tiến bộ, phù hợp với thực tiễn các quan hệ xã hội. Đường lối lãnh đạo, quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với nhu cầu, lợi ích của nhân dân lao động và truyền thống pháp luật của cộng đồng, của dân tộc. Văn hóa pháp luật tác động tích cực tới đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước với yêu cầu hệ thống pháp luật phải ngày càng phù hợp, hoàn thiện hơn, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy phạm pháp luật, đáp ứng giá trị, lợi ích cho nhân dân, đem lại sự phồn vinh, thịnh vượng cho đất nước. Nó đòi hỏi Đảng và Nhà nước không chỉ đề ra chính sách pháp luật đúng đắn, kịp thời, mà còn phải tổ chức thực hiện tốt các chính sách pháp luật đó nhằm mang lại hiệu quả quản lý xã hội cao hơn trên cơ sở các biện pháp mang tính nhân văn. Phát triển văn hóa pháp luật là cơ sở, nền tảng quan trọng để xây dựng và phát triển lối sống có văn hóa, lối sống theo pháp luật. III. Các chức năng cơ bản của văn hóa pháp luật 1. Chức năng nhận thức Đây là chức năng không thể thiếu của bất kỳ hoạt động nào trong lĩnh vực văn hóa, trong đó có văn hóa pháp luật. Nếu thiếu chức năng nhận thức thì không thể nói đến bất kỳ một chức năng nào khác; bởi lẽ, một bộ luật, đạo luật nào đó, với tư cách một sản phẩm văn hóa pháp luật, trước khi có thể đi vào thực tiễn cuộc sống, phát huy vai trò, hiệu lực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì phải được mọi người nhận thức, nắm bắt nội dung, tinh thần của bộ luật, đạo luật đó. Trước hết, các tác phẩm, công trình nghiên cứu về văn hóa pháp luật cung cấp và trang bị cho con người những tri thức, thông tin lý luận cần thiết, những hiểu biết đầy đủ, cụ thể hơn về văn hóa pháp luật; tạo cơ sở khoa học để nhận thức văn hóa pháp luật như là hệ thống các giá trị mà con người đã sáng tạo ra trong quá trình hoạt động pháp luật, được kết tinh thành những giá trị pháp luật, thể hiện trong hệ thống các quy phạm pháp luật được ban hành qua các thời kỳ lịch sử, trong các tư tưởng, quan điểm pháp luật, trong các tác phẩm văn hóa pháp luật… Văn hóa pháp luật mang lại cho chúng ta sự nhận thức rõ ràng về mối quan hệ giữa văn hóa và pháp luật. Văn hóa, xét dưới góc độ nền tảng tinh thần của xã hội, là một mặt cơ bản của đời sống xã hội; chủ nhân của văn hóa chính là yếu tố đầu tiên khơi nguồn cho mọi giá trị. Nhà nước – một sản phẩm cao nhất của tư duy con người – là sản phẩm cao nhất của những giá trị văn hóa pháp luật. Quá trình lao động, ứng xử của con người với tự nhiên, với các vấn đề xã hội nảy sinh, như sự bất bình đẳng về vị thế xã hội, phân phối của cải, phân chia quyền lực… đã đưa con người đến nhận thức cần phải kiến tạo một thiết chế quyền lực nào đó nhằm điều hòa các mối quan hệ – đó là nhà nước. Pháp luật là phương tiện để giữ gìn thiết chế nói trên. Với ý nghĩa đó, pháp luật cũng là sản phẩm cao của tư duy văn hóa pháp luật, được thể hiện ra thành các quy tắc mà con người sử dụng để định hướng cho sự sáng tạo những giá trị văn hóa khác, như văn hóa nghệ thuật… Nghiên cứu văn hóa pháp luật đòi hỏi chúng ta phải luôn đặt nó trong sự liên hệ với các lĩnh vực khác của văn hóa nói chung, với từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội nói riêng. Sự phát triển của văn hóa pháp luật cũng gắn bó mật thiết với trình độ, kỹ năng lập pháp. Trình độ lập pháp là một biểu hiện của văn hóa pháp luật. Các chuẩn mực, quy phạm pháp luật quan trọng chỉ có thể có được khi các nhà làm luật nhận thức sâu sắc các quy luật của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Những quan hệ xã hội nào mới phát sinh? Có cần các quy phạm pháp luật điều chỉnh không? Điều chỉnh ở mức độ nào và bằng những quy phạm pháp luật cụ thể nào? Văn hóa pháp luật, với chức năng nhận thức, giúp các nhà làm luật nhận thức, nắm bắt và biết cách xử lý tốt những tình huống mà thực tiễn cuộc sống đặt ra. Văn hóa nói chung và văn hóa pháp luật luôn mang đậm tính nhân văn. Cơ sở của mọi hoạt động trong lĩnh vực văn hóa pháp luật cũng là khát vọng hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ – ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa. Trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, dĩ nhiên, cần chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa pháp luật. Phát triển văn hóa pháp luật mang lại một sự nhận thức mới mẻ về các quy tắc, chuẩn mực, quan điểm pháp luật theo định hướng chân – thiện – mỹ như những giá trị pháp luật chứ không chỉ thuần túy là pháp luật. Giá trị pháp luật là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với hành vi của cá nhân, là tiêu chuẩn pháp lý để đánh giá hành động của người khác, để xác định lợi ích xã hội của các thành viên, là nền tảng cho cuộc sống chung. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… đang đòi hỏi phát huy chức năng nhận thức của văn hóa pháp luật. Đó sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa pháp luật, tạo ra sự nhận thức sâu sắc về vai trò và các giá trị xã hội của pháp luật. 2. Chức năng giáo dục Văn hóa pháp luật là sản phẩm hoạt động pháp luật của con người. Trong môi trường xã hội có sự điều chỉnh của pháp luật, toàn bộ các hành vi của con người được thể hiện ra qua các tình huống ứng xử; ở đó, con người tiếp xúc với nhau, tác động đến nhau, trao đổi với nhau, yêu cầu và tiếp nhận ở nhau một điều gì đó trong khuôn khổ luật định. Văn hóa pháp luật định hướng cho các thành viên xã hội lựa chọn cách xử sự hợp lý để tránh xung đột với các cá nhân khác, cách giải quyết hài hòa các lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân mà không vi phạm pháp luật. Các cách xử sự đó được chọn lọc, kiểm nghiệm qua thời gian và trở thành khuôn mẫu hành vi, thẩm thấu vào ý thức pháp luật của mỗi người, biểu hiện ở tư tưởng, quan điểm về pháp luật, ở thái độ, tình cảm đối với pháp luật. Như vậy, văn hóa pháp luật là môi trường giáo dục, nuôi dưỡng ý thức pháp luật của con người. Nói đến chức năng giáo dục của văn hóa pháp luật là nói tới sự định hướng văn hóa cho hành vi pháp luật của con người. Tuy nhiên, ý nghĩa giáo dục từ định hướng văn hóa cho hành vi pháp luật nổi bật ở chỗ, nó giáo dục cách xử sự tích cực đối với pháp luật dựa trên tri thức và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với các giá trị văn hóa pháp luật. Bản thân mỗi cá nhân, theo quy luật hướng thiện, không muốn thực hiện các hành vi vi phạm, phá vỡ các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực pháp luật. Để đạt được điều này, bên cạnh ý thức tự giác, tích cực của mỗi người, còn cần đến chức năng giáo dục. Định hướng giá trị văn hóa pháp luật là xu hướng con người muốn vươn lên chiếm lĩnh hoặc tiếp cận với các giá trị đích thực của pháp luật; từ đó, dần dần hoàn thiện nhân cách của mình. Định hướng giá trị đó xác định thái độ lựa chọn hành vi của con người trước mỗi sự kiện pháp lý, quy định hành vi pháp luật của cá nhân, khuynh hướng và tính tích cực xã hội của nó. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, do những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình, đều có truyền thống văn hóa pháp luật riêng phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo đức, pháp luật, phong tục, tập quán của mình. Các công trình nghiên cứu văn hóa pháp luật phải mang tính lịch sử, tính kế thừa, nghĩa là hướng vào các di sản văn hóa pháp luật mà cha ông ta đã sáng tạo ra qua các thời kỳ lịch sử; tìm tòi, tiếp thu những giá trị văn hóa pháp luật và phát huy chúng trong xã hội hiện tại. Điều đó cho thấy, văn hóa pháp luật góp phần quan trọng vào việc giáo dục lòng tự hào dân tộc, thái độ tôn trọng, giữ gìn các giá trị văn hóa pháp luật của dân tộc. Sức mạnh và hiệu quả giáo dục của văn hóa pháp luật thể hiện ở chỗ, nó huy động được toàn bộ các năng lực tinh thần của con người. Ở nước ta hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, bên cạnh những thành tựu rất quan trọng đã đạt được, còn nhiều vấn đề bức xúc đang đặt ra, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, đặc biệt là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hóa còn nhiều sơ hở, yếu kém. Đấu tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa được chú ý đầy đủ, còn nhiều khuyết điểm, bất cập”(2). Bởi vậy, việc đề cao và phát huy chức năng giáo dục của văn hóa pháp luật đang là một vấn đề cấp thiết. Trong các hoạt động văn hóa pháp luật cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật một cách sâu rộng trong các tầng lớp xã hội nhằm nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật, giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống có văn hóa trên cơ sở các nguyên tắc, quy định của pháp luật. 3. Chức năng thực tiễn Chức năng thực tiễn của văn hóa pháp luật thể hiện trước hết ở sự vận dụng và phát huy các kết quả nghiên cứu văn hóa pháp luật vào hoạt động thực tiễn hoạch định, xây dựng chính sách pháp luật của Nhà nước. Chính sách pháp luật là khâu quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới ý thức con người; góp phần hình thành ý thức pháp luật của cá nhân và các nhóm xã hội. Dưới tác động của văn hóa pháp luật, việc hoạch định và xây dựng chính sách pháp luật đúng đắn là định hướng quan trọng cho việc phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Văn hóa pháp luật đòi hỏi phải có sự phù hợp giữa nội dung hệ thống pháp luật thực định với những đòi hỏi khách quan của thực tiễn đời sống xã hội trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, trong tính thống nhất của hình thức văn bản pháp luật, trong tính dân chủ và khoa học của quy trình soạn thảo và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Một khía cạnh quan trọng trong chức năng thực tiễn là dự báo tình hình và xu hướng phát triển của pháp luật. Cơ sở của dự báo pháp luật là sự nhận thức sâu sắc các quy luật phát triển của đời sống kinh tế – xã hội, là sự hiểu biết đầy đủ các yếu tố, điều kiện làm phát sinh các quan hệ xã hội mới, Khi văn hóa pháp luật đạt tới trình độ phát triển cao và các nhà làm luật nêu ra được các chuẩn mực pháp luật cơ bản thì khả năng dự liệu các quy tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh cũng sẽ đạt tới một trình độ cao nhất định. Đến lượt mình, dự báo tình hình và xu hướng phát triển của pháp luật lại là cơ sở để định hướng chính sách pháp luật. Chức năng thực tiễn của văn hóa pháp luật cũng gắn liền với sự tham gia của các nhà nghiên cứu văn hóa pháp luật trong việc tham mưu, tư vấn cho Nhà nước xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật nhằm tác động và đảm bảo cho văn hóa phát triển phù hợp với sự phát triển của xã hội. Để văn hóa có thể phát triển và không ngừng hoàn thiện, Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật về bảo vệ, tôn tạo và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc. “Xây dựng các đạo luật, pháp lệnh, các văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động trên lĩnh vực văn hóa. Bổ sung những luật đã ban hành cho phù hợp với tình hình mới”(3). Với chủ trương bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, chúng ta đã từng bước khắc phục được tình trạng “văn hóa mà không mang các giá trị văn hóa”; phần nào ngăn chặn được xu hướng chạy theo lối sống thực dụng, phản văn hóa. Điều đó cũng tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta xây dựng và phát triển văn hóa pháp luật. (*) Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.26. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.172 – 173. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.72.

Vai Trò Của Văn Hóa Kinh Doanh Đối Với Doanh Nghiệp

Thị trường kinh doanh trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã và đang có những biến đổi to lớn và sâu sắc, một trong những biến đổi hết sức quan trọng đó là sự xích lại ngày một gần nhau của các quốc gia trên thế giới hơn. Hơn lúc nào hết, các hoạt động giao lưu trên mọi lĩnh vực , đặc biệt là giao lưu kinh tế đang trở nên sôi động nhằm hướng tới hình thành ra một nền kinh tế thế giới thông nhất.

Ngày nay không có gì là lạ khi các doanh nghiệp đang ngày càng tìm kiếm các cơ hội làm ăn trong nền kinh tế đang phát triển hiện nay để tối ưu hóa lợi nhuận của doanh nghiệp mình . Đặc biệt. trong bối cảnh nền kinh tế phát triển ấy đôi khi có những diễn biến phức tạp, sự cạnh tranh để giành giật cơ hội thị trường, cơ hội kinh doanh ngày một gay gắt thì các yếu tố văn hóa thể hiện rõ trong kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng chứng tỏ vai trò hết sức quan trọng của nó. Sự thông hiểu văn hóa của các doanh nghiệp đối tác hoặc đối thủ cạnh tranh sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới thành công của một cuộc giao dịch hoặc đàm phán – vốn là bước đầu quyết định tới việc hợp đồng kinh doanh hay bán hàng có được thành lập hay không.

Các nội dung chính [hide]

1. Khái niệm văn hóa

Văn hóa là một khái niệm trìu tượng và ngày ngay được coi là tổng thể những nét tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội, từ đó chi phối suy nghĩ và hành động của con người trong xã hội đó.

2. Các yếu tố cấu thành văn hóa

Ngôn ngữ là hệ thống các âm thanh, từ ngữ,…được con người sử dụng để truyền đạt những suy nghĩ và cảm. xúc của mình. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất cấu thành nên văn hóa. Nhờ ngôn ngữ mà chúng ta có thể xây dựng và duy trì văn hóa của mình.

Giao tiếp ngôn ngữ thành công là chìa khóa qaun trọng trong giao dịch thương mại đạt được mục tiêu đề ra. Chính vì thế, ngôn ngữ ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh doanh thông qua vấn đề giao tiếp.

Tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến thói quen, cách nhìn nhận sự việc và hành động của con người trong mọi lĩnh vực của đồi sống xã hội trong đó có kinh doanh.

2.3. Giá trị và thái độ

Giá trị là những niềm tin và chuẩn mực chung cho một tập thể người mà được các thành viên chấp nhận. Thái độ là sự đánh giá những giải pháp khác nhau dựa trên những giá trị này.

Văn hóa mang tính năng động cùng những xu hướng thay đổi mới cho nên các nhà kinh doanh cần phải nghiên cứu tỉ mỉ, khoanh vùng tiếp cận và có chiến lược kinh doanh phù hợp.

2.4. Phong tục tập quán và chuẩn mực đạo đức

Phong tục tập quán là những quy ước thông thường của cuộc sống hàng ngày. Phong tục tập quán nói chung là những hành động ít mang tính đạo đức. Tuy nhiên, chuẩn mực đạo đức là những quy tắc được coi trọng tâm trong việc thực hiện các chức năng xã hội và xây dựng nên đời sống xã hội.

2.5. Đời sống vật chất

2.6. Nghệ thuật thẩm mỹ

Nghệ thuật là phương tiện để truyền tải cái đẹp trong một nền văn hóa đến mọi đối tượng. Một nền văn hóa có thể định ra một quan niệm riêng về cái đẹp.

Giáo dục là một yếu tố hết sức quan trọng của văn hóa. Hệ thống giáo dục khác nhau của mỗi quốc gia cũng góp phần duy trì và tạo nên sự khác biệt về văn hóa giữa các quốc gia.

Giáo dục có ảnh hưởng sâu sắc đến trình độ văn hóa, nhận thức, tinh thần, ý thức và năng lực làm việc của mỗi cá nhân trong xã hội

2.8. Cấu trúc xã hội

Cuối cùng là cấu trúc xã hội đã góp phần cấu thành nên một nền văn hóa lớn mạnh. Cấu trúc xã hội của một xã hội là cách thức tổ chức xã hội cơ bản của nó. Cấu trúc xã hội gồm nhiều khía cạnh song nó vẫn có những sự khác biệt riêng của nó.

3. Mối liên hệ giữa văn hóa và kinh doanh

– Kinh doanh là tất cả những hoạt động hợp pháp nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con người thông qua các hoạt động trao đổi bằng tiền tệ có vốn ứng trước nhằm thu được lợi nhuận.

– Văn hóa và kinh doanh là hai hoạt đông có mục đích hoàn toàn khác nhau. Văn hóa là những kết tinh của đời sống tinh thần của con người nhằm hướng tới cái đẹp, cái thiện trong xã hội. Kinh doanh là nhằm mục đích thu lợi nhuận, mà lợi nhuận không thể đồng nghĩa với cái đẹp. Tuy nhiên, văn hóa và kinh doanh lại có mỗi liên hệ chặt chẽ với nhau

– Kinh doanh có văn hóa tạo cơ sở phát triển bền vững. Mục tiêu cuối cùng của kinh doanh hiện nay không phải hoặc không nên chỉ là thu lợi nhuận và kiếm tiền mà kinh doanh phải phát triển theo hướng lấy mục tiêu đa dạng văn hóa và ổn định môi trường làm động cơ và hoạt động của nó.

– Văn hóa đơn giản cũng là một ngành kinh doanh. Khi các giá trị văn hóa trở thành đối tượng kinh doanh, doanh nghiệp sẽ vừa thu được lợi nhuận vừa có thể quảng bá bản sắc văn hóa của dân tộc mình ra ngoài thế giới.

– Cuối cùng, văn hóa và kinh doanh đều là những ngành chuyên biệt phục vụ mục đích cho nhau.

4. Khái niệm văn hóa kinh doanh

Văn hóa dùng để diễn tả những hành vi, tư duy, tình cảm, các sản phẩm vật chất của cộng đồng hoặc tập thể người riêng biêt, được đúc kết, lan truyền và chia sẻ từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nơi này sang nơi khác.

Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của xã hội. Hoạt động này xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hóa. Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.

Văn hóa kinh doanh hình thành trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp

Đặc điểm của kinh doanh:

– Các yếu tố cấu thành nên hoạt động kinh doanh:

+ Chủ thể kinh doanh là những người làm kinh doanh gồm các cấp độ như cá nhân, nhóm và tổ chức,..

+ Khách thể kinh doanh là khách hàng của chủ thể bao gồm người tiêu dùng, các nhà kinh doanh khác

+ Đối tượng kinh doanh tùy thuộc vào lĩnh vực kinh doanh, hình thức kinh doanh,… mà có thể khác nhau.

– Mục đích chính của hoạt động kinh doanh thường là đạt được, đem lại lợi nhuận cho chủ thể kinh doanh.

– Bản chất của quan hệ kinh doanh được thể hiện trong quan hệ trao đổi, ràng buộc lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể.

– Nguyên tắc cơ bản của kinh doanh là đôi bên (chủ thể và khách thể) cùng có lợi.

Như vậy, văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kinh doanh ổn định và đắc thù của họ.

5. Đặc điểm của văn hóa kinh doanh trong doanh nghiệp

– Văn hóa kinh doanh là một bộ phận song lại là đặc thù so với văn hóa chung của doanh nghiệp

Mặc dù văn hóa kinh doanh nằm trong khía niệm văn hóa nhưng khong thể đồng nhất văn hóa kinh doanh so với văn hóa doanh nghiệp tạo ra.

Văn hóa kinh doanh đặc thù riêng cho toàn doanh nghiệp

– Văn hóa kinh doanh xuất hiện cùng sự xuất hiện của hàng hóa trong doanh nghiệp và sự xuất hiện trên thị trường.

– Văn hóa kinh doanh có thể mang tính chất ngoại giao

Đặc điểm này có thể thấy ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngaoif như Honda, Coca Cola,… dù là các công ty xuyên quốc gia có hoạt động trên nhiều nước khác nhau song chúng đều có một nền văn hóa kinh doanh riêng biệt.

– Văn hóa kinh doanh thường được xét trọng một phạm vi hẹp, cụ thể.

6. Yếu tố cấu thành nên văn hóa kinh doanh trong doanh nghiệp

– Hành vi, ứng xử, phong cách và lối hành động (chung) của doanh nghiệp

– Các hoạt động sinh hoạt văn hóa nghệ thuật như ca, nhạc, múa hát,.. của doanh nghiệp.

– Phong tục, tập quán,tâm lý chung của doanh nghiệp.

– Các truyền thuyết, huyền thoại hoặc tín ngưỡng chung của doanh nghiệp.

– Các triết lý, hệ tư tưởng chung của doanh nghiệp.

– Hệ thống các giá trị của doanh nghiệp.

7. Các nhân tố tác động đến văn hóa kinh doanh

7.1. Văn hóa xã hội, quốc gia

Văn hóa xã hội là một yếu tố lớn mạnh và bao trùm, hình thành nên văn hóa kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều có một văn hóa kinh doanh riêng và doanh nghiệp đó đều phải được đặt tỏng một môi trường của văn hóa xã hội trong một quốc gia nhất định.

Mỗi nền văn hóa xã hội đều có những giá trị đặc trưng riêng và có hệ quả đặc thù với hoạt động kinh doanh ngày nay.

7.2. Thể chế và sự phát triển của xã hội

Thể chế xã hội thiết lập những quy tắc, chuẩn mực mà buộc các doanh nghiệp phải thực hiện và tuân theo. Các thể chế xã hội hiện nay là thể chế chính trị, kinh tế, hành chính, chính trị, văn hóa, pháp luật,…là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh và đồng thời cũng ảnh hưởng sâu sắc đến việc phát triển văn hóa kinh doanh

7.3. Toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa đang dần trở thành một xu hướng phổ biến của thế giới. Chính vì thế, doanh nghiệp muốn phát triển cũng không thể bị thu động mà phải nhanh chóng hòa nhập và đổi mới tư duy. Các nền kinh tế giao thoa, hòa nhập tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có cơ hội phát huy năng lực của mình, nâng cao trình độ kinh doanh sao cho phù hợp với yêu cầu của thị trường hiện nay.

7.4. Sự khác biệt và giao lưu văn hóa thế giới

Mỗi doanh nghiệp khi xây dựng và phát triển đều mang một văn hóa riêng biệt và độc đáo của mình. Những để lớn mạnh hơn nữa, việc giao lưu văn hóa kinh doanh là đòi hỏi cần thiết phải có. Một doanh nghiệp không chỉ đơn phương tham gia thị trường mà còn vô vàn doanh nghiệp khác. Vì thế, để phát triển, doanh nghiệp không chỉ dựa vào bản thân chính mình mà còn phải học hỏi, giao lưu, tiếp thu từ các doanh nghiệp khác.

7.5. Khách hàng

Khách hàng là yếu tố chính và quan trọng nhất giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận kinh doanh. Vì thế, với văn hóa kinh doanh trong doanh nghiệp, khách hàng cũng là một yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc. Mỗi đối tượng khách hàng là những cá thể riêng biệt vì thế họ có những đặc điểm mua sắm khác nhau, đều đó thể hiện văn hóa riêng của họ.

Do đó, các nhu cầu và trình độ của khách hàng tác động trực tiếp tới văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp

7.6. Nội bộ trong doanh nghiệp

Trong doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp là yếu tố hay được nhắc đến và là yếu tố mang lại giá trị riêng cho doanh nghiệp. Những văn hóa doanh nghiệp thể hiện những đặc điểm nội bộ trong doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ đến văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp nói chung.

8. Vai trò của văn hóa kinh doanh đối với doanh nghiệp

– Văn hóa doanh nghiệp là phương thức phát triển kinh doanh biền vững cho doanh nghiệp

Hoạt động kinh doanh được thúc đẩy bằng nhiều động cơ khác nhau , trong đó động cơ kiếm được nhiều lợi nhuận là đông cơ quan trọng nhất.

+ Động cơ khiến cho các nhà kinh doanh kiếm lợi không chỉ là các nhu cầu sinh lý và bản năng mà nó còn do các nhu cầu cấp cao hơn.

+ Lợi nhuận dù quan trọng – song không phải là vật chuẩn và vật hướng duy nhất đối với hoạt động kinh doanh, vì ngoài lợi nhuận ra còn có pháp luật và văn hóa điều chỉnh.

Văn hóa kinh doanh giúp doanh nghiệp thúc đẩy phát triển

– Văn hóa là nguồn lực phát triển kinh doanh

+ Thể hiện trong sự lựa chọn phương hướng kinh doanh, sự hiểu biết về sản phẩm, dịch vụ, về những mối quan hệ giữa ngưởi và người trong tổ chức, về việc tuân theo quy tắc và quy luật thị trường.

+ Văn hóa trong giao lưu, giao tiếp kinh doanh nhằm hướng dẫn toàn bộ hoạt động giao lưu, giao tiếp trong kinh doanh

+ Văn hóa trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của chủ thể kinh doanh

– Văn hóa kinh doanh là điều kiện đẩy mạnh kinh doanh quốc tế

Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp đang quan tâm đến những phương pháp quản lý bán hàng tối đa hóa lợi nhuận thì hiện nay chúng tôi đang cung cấp những sản phẩm, dịch vụ về quản lý bán hàng đa kênh, quản lý bán hàng trên Facebook, thiết kế website chuẩn SEO,..