Top 14 # Vai Trò Và Chức Năng Của Ngân Hàng Nhà Nước Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Ngân Hàng Nhà Nước Là Gì? Chức Năng Của Ngân Hàng Nhà Nước?

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.

Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

Chức năng hoạt động của ngân hàng nhà nước?

Để giúp Quý độc giả phân biệt được ngân hàng nhà nước với các loại hình tổ chức tín dụng khác như ngân hàng, ngoài việc giải đáp ngân hàng nhà nước là gì? chúng tôi sẽ làm rõ chức năng hoạt động của ngân hàng nhà nước. Theo đó, ngân hàng nhà nước có các chức năng sau:

– Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia

Luật Ngân hàng nhà nước Việt nam 2010 quy định: Thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu, chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.

Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dung. Ngân hàng nhà nước quy định và thực hiện việc tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng dưới các hình thức như: cho vay có bảo đảm bẳng cầm cố giấy tờ có giá; chiết khấu giấy tờ có giá;… Ngân hàng sẽ công bố mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống vay nặng lãi.

– Phát hành tiền giấy, tiền kim loại

Phát hành tiền là cung ứng tiền vào lưu thông làm phương tiện thanh toán. Theo quy định của pháp luật, chỉ có Ngân hàng nhà nước Việt Nam mới có quyền phát hành tiền. Mọi hành vi từ chối nhận, lưu hành đồng tiền do Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành đều bị coi là bất hợp pháp.

– Cho vay, Bảo lãnh, Tạm ứng cho Ngân sách

Bảo lãnh được xem là hình thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng nhà nước nhưng chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Tạm ứng cho ngân sách nhà nước là hình thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Cho vay là hình thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng nhà nước. Theo hình thức này, Ngân hàng nhà nước hco các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn. Hoạt động cho vay này thể hiện vai trò của ngân hàng nhà nước là ngân hàng của các ngân hàng.

– Hoạt động thanh toán và Ngân quỹ

Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước giao, Ngân hàng nhà nước được mở tài khoản ở ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế. Ngân hàng nhà nước được mở và quản lý tài khoản, thực hiện các giao dịch cho tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước. Ngoài ra, ngân hàng có thẩm quyền cung cấp các dịch vụ thanh toán cho hệ thống các tổ chức tín dụng, cho các khách hàng khác, thực hiện các hoạt động ngân hàng đối ngoại.

– Quản lý Ngoại hối và Hoạt động Ngoại hối

Thẩm quyền quản lý ngoại hối của Ngân hàng nhà nước thể hiện trên hai phương tiện: Quản lý hành chính nhà nước về ngoại hối và quản lý ngoại hối bằng nghiệp vụ ngân hàng trung ương.

Quản lý hành chính nhà nước thể hiện ở một số hoạt động như: xây dựng các dự án luật, pháp luật về quản lý ngoại hối; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối; kiểm soát hoạt động ngoại hối của các tổ chức tín dụng;…

Quản lý ngoại hối bằng nghiệp vụ ngân hàng là hoạt động của Nhà nước giao cho Ngân hàng nhà nước thực hiện quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối nhà nước.

Tác giả

Phạm Kim Oanh

Bà Oanh hiện đang làm việc tại Bộ phận Sở hữu trí tuệ của Công ty Hoàng Phi phụ trách các vấn đề Đăng ký xác lập quyền cho khách hàng trong lĩnh vực sáng chế, giải pháp hữu ích và kiểu dáng công nghiệp. Đây là một trong những dịch vụ khó, đòi hỏi khả năng chuyên môn cao của người tư vấn.

CHÚNG TÔI LUÔN SẴN SÀNG LẮNG NGHE – TƯ VẤN – GIẢI ĐÁP CÁC THẮC MẮC

1900 6557 – “Một cuộc gọi, mọi vấn đề”

Vai Trò Và Chức Năng Của Ngân Hàng Bán Lẻ

Trong nền kinh tế mở, nhu cầu về dịch vụ ngân hàng ngày càng cao, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ (NHBL). Mục tiêu của dịch vụ NHBL là khách hàng cá nhân, nên các dịch vụ thường đơn giản, dễ thực hiện và thường xuyên, tập trung vào dịch vụ tiền gửi và tài khoản, vay vốn, mở thẻ tín dụng..

+ nguyên nhân gây mưa axit

Vai trò của ngân hàng bán lẻ

Từ giác độ kinh tế – xã hội, dịch vụ NHBL có tác dụng đẩy nhanh quá trình luân chuyển tiền tệ, tận dụng tiềm năng to lớn về vốn để phát triển kinh tế, đồng thời giúp cải thiện đời sống dân cư, hạn chế thanh toán tiền mặt, góp phần tiết kiệm chi phí và thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng.

Xét trên giác độ tài chính và quản trị ngân hàng, NHBL mang lại nguồn thu ổn định, chắc chắn, hạn chế rủi ro tạo bởi các nhân tố bên ngoài vì đây là lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế. Ngoài ra, NHBL giữ vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo nguồn vốn trung và dài hạn chủ đạo cho ngân hàng, góp phần đa dạng hóa hoạt động ngân hàng.

– Đối với khách hàng, dịch vụ NHBL đem đến sự thuận tiện, an toàn, tiết kiệm cho khách hàng trong quá trình thanh toán và sử dụng nguồn thu nhập của mình.

Tạp chí Stephen Timewell cũng nhận định: xu hướng ngày nay thể hiện rõ rằng, ngân hàng nào nắm được cơ hội mở rộng việc cung cấp dịch vụ NHBL cho một lượng dân cư khổng lồ đang “đói” các dịch vụ tài chính tại các nền kinh tế mới nổi, sẽ trở thành những gã khổng lồ toàn cầu trong tương lai.

Chức năng của ngân hàng bán lẻ

– Hoạt động NHBL ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các NHTM trên thế giới, các NHBL toàn cầu sẽ đóng vai trò chủ đạo trong danh sách 20 ngân hàng toàn cầu hàng đầu theo xếp hạng của tạp chí The Banker vào năm 2015.

Tại Việt Nam các Ngân hàng đã và đang phát triển dịch vụ NHBL, đây là xu thế tất yếu, phù hợp với xu hướng chung của các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, phục vụ đối tượng khách hàng cá nhân và hộ kinh doanh nhỏ, đảm bảo cho các ngân hàng quản lý rủi ro hữu hiệu, cung ứng dịch vụ chất lượng cao cho khách hàng, định hướng kinh doanh, thị trường sản phẩm mục tiêu, giúp ngân hàng đạt hiệu quả kinh doanh tối ưu.

Vai Trò Của Ngân Hàng Nhà Nước Trong Duy Trì Ổn Định Ngân Hàng Tại Việt Nam

(thitruongtaichinhtiente.vn) – Bài viết phân tích về vai trò của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với ổn định ngân hàng ở Việt Nam.

Tóm tắt: Bài viết phân tích về vai trò của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với ổn định ngân hàng ở Việt Nam. Dựa trên thực trạng về điều hành, bài viết có những đánh giá và một số đề xuất để nâng cao vai trò của NHNN trong việc duy trì ổn định ngân hàng gồm (i) tiếp tục thực hiện đề án tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD); (ii) tiếp tục quy định các tỷ lệ an toàn trong hoạt động đối với các NHTM; (iii) một số đề xuất trong việc thực hiện chính sách giám sát an toàn vĩ mô để giảm thiểu rủi ro hệ thống; (iv) sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan bộ ngành để duy trì ổn định ngân hàng nước ta.

Role of the State Bank of Viet Nam in bank stability

Abtract: The paper analyzes the role of the State Bank of Viet Nam (SBV) in bank stability. Based on the current state of management, the article has some assessments and recommendations to enhance the role of the SBV in maintaining bank stability including (i) continue to implement the project of restructuring the credit institutions; (ii) continue to regulate prudential ratios for commercial banks; (iii) some recommendations in implementing macroprudential policies to minimize systemic risk; (iv) synchronized coordination between the ministries and agencies to maintain the bank stability.

1. Đặt vấn đề

Trước đây, khi điều hành chính sách tiền tệ (CSTT), Ngân hàng Nhà nước (NHNN) luôn đề ra mục tiêu chính sách là ổn định giá trị đồng tiền, được biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát (Luật NHNN, 2010). Tuy nhiên, từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã chứng minh, ổn định giá trị đồng tiền, hay ổn định giá không đủ để duy trì ổn định hệ thống tài chính, một cú sốc dường như không quá nghiêm trọng phát sinh từ một tổ chức tài chính đơn lẻ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống tài chính một quốc gia, thậm chí toàn cầu. Do đó, ngân hàng trung ương (NHTW) các quốc gia đã đề ra mục tiêu ổn định hệ thống tài chính bên cạnh mục tiêu ổn định giá cả để duy trì ổn định hoạt động tài chính và đảm bảo an toàn trong hoạt động của nền kinh tế. Tại Việt Nam,  NHNN có vai trò gì trong việc duy trì ổn định ngân hàng? Bài viết phân tích khung lý thuyết về ổn định ngân hàng, vai trò của NHNN trong việc duy trì ổn định ngân hàng. Từ đó gợi ý một số giải pháp phù hợp để nâng cao vai trò của NHNN trong việc duy trì ổn định ngân hàng trong thời gian tới.

2. Cơ sở lý thuyết về ổn định ngân hàng

2.1. Khái niệm về ổn định ngân hàng

Goodhart (2006) cho rằng, ổn định tài chính là sự thiếu vắng của khủng hoảng tài chính, trong đó khủng hoảng tài chính được coi là một chuỗi các sự kiện hoặc rủi ro làm suy yếu hệ thống trung gian tín dụng và ảnh hưởng đến nguồn phân bổ vốn. Allen and Wood (2006) đưa ra một số đặc trưng của ổn định tài chính bao gồm: (i) tình trạng có lợi cho công chúng, (ii) trạng thái có thể quan sát được; (iii) chịu sự kiểm soát bởi các cơ quan nhà nước; (iv) tài sản của một thực thể trong nhiều trường hợp là tài sản của quốc gia; (v) không nên cho rằng bất kỳ sự thay đổi nào cũng là bằng chứng của bất ổn tài chính vì các nền kinh tế và hệ thống tài chính cần thay đổi để tăng trưởng. Trong khi đó, Mishkin (1992) lại định nghĩa ổn định tài chính là sự phổ biến của một hệ thống tài chính, có thể đảm bảo một cách lâu dài và không có sự gián đoạn lớn, việc phân bổ tiết kiệm hiệu quả cho các cơ hội đầu tư.

Khi nghiên cứu về bất ổn ngân hàng, Ngalawa, Tchana, and Viegi (2016) cho rằng sự bất ổn ngân hàng xảy ra là khi một lượng khách hàng lớn của ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính khác rút tiền gửi vì lo ngại về khả năng thanh toán của ngân hàng, do đó buộc ngân hàng phải thanh lý tài sản của mình ở trạng thái thua lỗ. Ngoài ra, bất ổn ngân hàng còn có thể xuất hiện thông qua tình trạng mất khả năng thanh toán thường được đặc trưng bởi một lượng lớn các khoản nợ xấu không có khả năng thu hồi.

Theo Lai (2002), nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng bất ổn ngân hàng là do khủng hoảng thanh toán, bắt nguồn từ nhu cầu về thanh toán ngắn hạn vượt quá dự trữ tài sản thanh khoản cao, phát sinh tình trạng mất cân đối giữa nguồn vốn và tài sản của bảng cân đối ngân hàng khi tài sản nợ có xu hướng ngắn hạn trong khi tài sản có có xu hướng dài hạn và thanh khoản thấp.

Như vậy, qua các cách tiếp cận trên, có thể hiểu, ổn định ngân hàng là trạng thái mà các ngân hàng hoạt động trơn tru, hiệu quả, có thể thực hiện tốt các chức năng của mình bao gồm trung gian thanh toán và tín dụng, đồng thời có khả năng chịu được các cú sốc từ môi trường bên ngoài và bản thân các ngân hàng không gây ra các cú sốc ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.

2.2. Vai trò của ổn định ngân hàng

Ngoài ra, ổn định ngân hàng cũng là tiền đề để các trung gian tài chính phát huy sức mạnh, giảm thiểu rủi ro hệ thống và giúp hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, ít biến động và có khả năng hấp thụ các cú sốc của nền kinh tế. Khi làm được điều này, ổn định ngân hàng sẽ góp phần củng cố niềm tin của người dân đối với hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung; khuyến khích người dân gửi tiền tại ngân hàng và gia tăng sử dụng các giao dịch ngân hàng.

Như vậy, có thể thấy rằng, khi ngân hàng ổn định, không chỉ hoạt động của ngân hàng mà hoạt động của tất cả các chủ thể khác trong nền kinh tế đều có thể diễn ra trơn tru, hiệu quả. Nhà nước dễ dàng điều tiết nền kinh tế, lạm phát duy trì ở mức thấp, nền kinh tế quốc gia được cải thiện, đời sống người dân được nâng cao. Kết quả là nâng cao sức cạnh tranh quốc gia trên trường quốc tế.

3. Thực trạng về vai trò của NHNN đối với sự ổn định ngân hàng

3.1. Chính sách tiền tệ với ổn định ngân hàng

Trong những năm gần đây, Chính phủ và NHNN luôn quan tâm chú trọng đến công tác ổn định tài chính trong quản lý kinh tế vĩ mô và ổn định ngân hàng. Công tác điều hành CSTT ở nước ta đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Về ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, NHNN đã điều hành CSTT chủ động, linh hoạt phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, thanh khoản của hệ thống ngân hàng được đảm bảo, từ đó góp phần quan trọng để duy trì ổn định ngân hàng.

Hình 1: Lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2014-2019

Nguồn: ADB và IMF

Nhìn vào hình 1, có thể thấy trong giai đoạn từ 2014-2019, lạm phát của nước ta luôn ở mức một con số, đặc biệt trong giai đoạn 2015-2019, lạm phát luôn dưới 4%, đạt chỉ tiêu Quốc hội đã đề ra. Lạm phát được kiểm soát là nhờ NHNN thực hiện tốt, đồng bộ các giải pháp về tiền tệ, tín dụng. Bên cạnh việc lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, mặt bằng lãi suất trong thời gian qua cũng được NHNN duy trì ổn định trong bối cảnh lãi suất trên thế giới có xu hướng gia tăng. Đến cuối năm 2018, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD) phổ biến mức 6-9%/năm đối với các khoản ngắn hạn và 9-11%/năm đối với các khoản vay trung dài hạn (NHNN, 2018).

Hình 2: Biểu đồ mức biến động tỷ giá VND/USD giai đoạn 2014-2018

Nguồn: ADB

Ngoài ra, trong những năm vừa qua, cách điều hành tỷ giá của NHNN cũng có nhiều chuyển biến, NHNN đã sử dụng các công cụ mang tính thị trường nhiều hơn là các công cụ mang tính áp đặt hành chính,  thể hiện quyết tâm theo đuổi cơ chế tỷ giá trung tâm linh hoạt và định hướng thị trường. Điều này đã tác động làm tỷ giá Việt Nam được duy trì tương đối ổn định. Hình 2 cho thấy tỷ giá VND/USD trong giai đoạn 2014-2018 có xu hướng tăng nhẹ để kích thích hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá năm 2014 ở mức 21.149 đồng, đến năm 2018, tỷ giá tăng lên nhẹ ở mức 22.603 đồng, tương đương tăng mức 6,9% / 4 năm, điều đó cho thấy mức độ ổn định cao của VND so với một số đồng tiền khác trên thế giới.

Bên cạnh chính sách tỷ giá, trong những năm qua để hoạt động của ngân hàng được ổn định, NHNN còn thực thi chính sách ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB). Cụ thể, tỷ lệ DTBB đối với khoản tiền gửi VND được duy trì ở mức 3% đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, 1% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Đối với các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ, tỷ lệ DTBB được duy trì ở mức 8% đối với tiền gửi không kỳ hạn hoặc kỳ hạn dưới 12 tháng, 6% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên (Đến cuối năm 2019, NHNN đã ban hành Thông tư 30/2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2020 trong đó, điều chỉnh giảm 50% tỷ lệ DTBB đối với các TCTD hỗ trợ được quy định tại khoản 40 điều 4 Luật các TCTD; đồng thời quy định 3 nhóm TCTD không thực hiện DTBB).

Như vậy, kiểm soát được lạm phát, giá trị đồng tiền ổn định là các nhân tố giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh có lợi hơn, điều này có lợi cho người tiêu dùng. Đồng thời, lạm phát thấp sẽ thúc đẩy doanh nghiệp đẩy mạnh kinh doanh, giảm chi phí đầu vào, nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó giúp ổn định kinh tế vĩ mô. Ngoài ra, duy trì ổn định DTBB cũng là một trong những tiền đề giúp gia tăng ổn định ngân hàng. Ngoài ra, việc từng bước thực thi chính sách giám sát an toàn vĩ mô cũng giúp hệ thống ngân hàng Việt Nam giảm bớt các rủi ro hệ thống.

3.2. Ngân hàng Nhà nước từng bước triển khai chính sách giám sát an toàn vĩ mô

Theo hội đồng Ổn định tài chính (FSB), Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), chính sách an toàn vĩ mô là chính sách sử dụng các công cụ an toàn để hạn chế các rủi ro hệ thống hoặc rủi ro tài chính mang tính hệ thống nhằm giảm thiểu khả năng đổ vỡ của hệ thống tài chính thông qua giảm tình trạng mất cân đối tài chính và giải quyết các rủi ro phổ biến nhằm ngăn ngừa các dịch vụ tài chính có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế thực (FSB, IMF, & BIS, 2011).

Tại Việt Nam,  theo điều 2, điểm 20 Nghị định 16/2017/NĐ-CP  về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN, NHNN có nhiệm vụ ổn định hệ thống tiền tệ – tài chính bao gồm tóm tắt, phân tích và dự báo tình hình tài chính tiền tệ; đề xuất các biện pháp phòng ngừa rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và phát triển các chính sách, biện pháp ứng phó với khủng hoảng, đảm bảo sự ổn định của hệ thống tiền tệ, ngân hàng và tài chính. Đồng thời, tại Điều 3 Nghị định này, NHNN được bổ sung Vụ Ổn định tiền tệ tài chính. Với các quy định nêu trên, nước ta đã bắt đầu triển khai thực hiện chính sách giám sát an toàn vĩ mô.

Bên cạnh các công cụ được đề cập tại Thông tư 36/2014/TT-NHNN, để hoạt động ngân hàng được ổn định, trong giai đoạn 2016-2017, NHNN còn yêu cầu các NHTM thực thi công cụ trần tăng trưởng tín dụng để kiểm soát tăng trưởng tín dụng.

Theo IMF (2018), ngoài các công cụ nêu trên, NHNN Việt Nam còn thực thi chính sách giám sát an toàn vĩ mô bằng công cụ giới hạn đầu tư vào trái phiếu Chính phủ được quy định tại Thông tư 09/2017/TT-NHNN và Thông tư 06/2016/TT-NHNN thay thế và bổ sung một số điều của Thông tư 36/2014/TT-NHNN. Theo Thông tư này, các TCTD có thể được mua và đầu tư trái phiếu Chính phủ so với các quỹ ngắn hạn trung bình của tháng trước đó, cụ thể các giới hạn này như sau: (1) NHTM nhà nước: 25%; (2) NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài: 30%; (3) Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: 30%; (4) TCTD phi ngân hàng: 10%; (5) Ngân hàng hợp tác: 35%.

Như vậy, với việc thực hiện chính sách giám sát an toàn vĩ mô, các ngân hàng sẽ giảm thiểu rủi ro hệ thống, tránh được các cú sốc bất ngờ từ nền kinh tế đồng thời sẽ duy trì và gia tăng ổn định.

3.3. Thực hiện các quy định khác trong việc duy trì ổn định ngân hàng

Bên cạnh việc thực hiện CSTT và từng bước thực thi chính sách an toàn vĩ mô, NHNN còn ban hành nhiều quy định khác, bao gồm:

Một là, xây dựng trình Chính phủ ban hành Đề án tái cơ cấu hệ thống TCTD giai đoạn 1 và giai đoạn 2, thành lập Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam. Thực tiễn đã cho thấy khi triển khai thực hiện các đề án trên, các TCTD nói chung và hệ thống NHTM nói riêng đã có nhiều cải thiện về quy mô, chất lượng, hiệu quả hoạt động, mức độ an toàn và gia tăng khả năng cạnh tranh. Trong đó, sự ra đời của Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) là một nỗ lực trong xử lý nợ xấu, hướng đến hoạt động ổn định cho ngân hàng. Ngoài ra, khi thực hiện tái cơ cấu các TCTD, NHNN đã thực hiện kiểm soát hoạt động của một số ngân hàng yếu kém, thực hiện mua lại một số NHTM với giá 0 đồng và khuyến khích hoạt động M&A ngân hàng đảm bảo an toàn cho hệ thống.

Hai là, trong những năm gần đây, NHNN luôn chú trọng đến công tác thanh tra, giám sát. Bản chất hoạt động ngân hàng ẩn chứa nhiều rủi ro, do đó, bên cạnh việc hỗ trợ cho hệ thống các TCTD hoạt động, NHNN cũng quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát. Theo Điều 23, Nghị định 26/2014/NĐ-CP về tổ chức thanh tra và hoạt động của thanh tra giám sát ngành ngân hàng, hoạt động giám ngân hàng cần phải xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng. Các hình thức thực hiện bao gồm giám sát an toàn vi mô (là việc giám an toàn đối với từng đối tượng giám riêng lẻ) và giám sát an toàn vĩ mô (là hình thức giám sát an toàn trên toàn bộ hệ thống các TCTD, chi nhánh NHNNg trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu phản ánh mức độ lành mạnh tài chính và an toàn hoạt động). Chính hoạt động này sẽ giúp cho hệ thống NHTM lành mạnh, ổn định hơn.

4. Đánh giá vai trò của NHNN đối với ổn định ngân hàng

4.1. Các kết quả đạt được

Nhờ kiểm soát tốt lạm phát và giữ vững giá trị đồng tiền trong thời gian qua, lãi suất các NHTM luôn ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để khách hàng thực hiện các giao dịch với ngân hàng. Đồng thời, lạm phát ở mức thấp và tỷ giá ổn định là điều kiện để các doanh nghiệp trong nước kinh doanh, tạo tiền đề tốt hoàn trả nợ ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng giảm thiểu nợ xấu, duy trì ổn định. Trong những năm gần đây, vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu toàn hệ thống ngân hàng được cải thiện. Đồng thời các chỉ tiêu an toàn vốn, thanh khoản vẫn ở mức đảm bảo. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều chuyển biến và luôn tồn tại các cú sốc, điều này sẽ giúp các ngân hàng phòng tránh các cú sốc trong quá trình hoạt động, duy trì lợi nhuận và duy trì ổn định.

Bên cạnh điều hành CSTT, chính sách giám sát an toàn vĩ mô, NHNN còn thực hiện nhiều biện pháp tái cơ cấu khác như: kiểm soát đặc biệt các ngân hàng có vấn đề, mua lại các ngân hàng yếu kém với giá 0 đồng, triển khai các hoạt động M&A.

4.2. Một số điểm còn tồn tại

Bên cạnh các kết quả đạt được như đã phân tích, việc điều hành của NHNN hướng đến mục tiêu ổn định ngân hàng còn một số điểm cần phải bàn:

Một là, dù kiểm soát được lạm phát, giá trị đồng tiền ổn định và thực hiện việc bán nợ xấu cho VAMC, nhưng do một phần nợ xấu tồn đọng trước đó chưa giải quyết triệt để, đòi hỏi các ngân hàng tiếp tục tập trung xử lý bên cạnh việc kiểm soát tốt tín dụng nhằm hạn chế tối đa nợ xấu phát sinh để gia tăng ổn định ngân hàng.

Hai là, mặc dù đã triển khai chính sách giám sát an toàn vĩ mô, song cho đến nay chính sách này ở nước ta vẫn chưa hoàn thiện, các công cụ thực hiện vẫn còn nhiều khác biệt so với các quốc gia trên thế giới. Điều đó cũng khiến cho chính sách chưa phát huy được hết tác dụng và không thể ngăn ngừa hết các cú sốc tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Ba là, có sự chồng chéo trong quản lý giữa các cơ quan giám sát ngân hàng. Cụ thể, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia là một cơ quan ngang bộ có chức năng giám sát chung thị trường tài chính và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động giám sát của cơ quan thanh tra – giám sát chuyên ngành trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. NHNN là cơ quan chủ quản của các NHTM, trong đó Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng, Vụ Chính sách tiền tệ, Vụ Ổn định tiền tệ tài chính thực hiện các nhiệm vụ, chức năng riêng lẻ nhằm đảm bảo an toàn cho quá trình hoạt động của các ngân hàng. Như vậy, trong trường hợp không có sự phối hợp giữa các cơ quan trên, có thể gây ra khó khăn trong quá trình hoạt động của NHTM.

5. Giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước đối với ổn định ngân hàng

Để có thể gia tăng ổn định ngân hàng, một số định hướng chính sách và giải pháp NHNN cần thực hiện trong thời gian tới gồm:

Một là, NHNN tiếp tục thực hiện đề án cơ cấu lại các TCTD, kiểm soát hoạt động các ngân hàng có vấn đề, thực hiện mua lại các ngân hàng yếu kém, cho phép các ngân hàng yếu được sáp nhập với ngân hàng lớn. Từng bước xử lý các khoản nợ xấu để ngân hàng hoạt động ngày một ổn định.

Hai là, tiếp tục quy định các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động đối với NHTM như tỷ lệ an toàn vốn, hệ số thanh khoản, mức tăng trưởng tín dụng,… nhất là trong bối cảnh áp lực hoàn thiện quy định Basel II cận kề. Có như vậy, các NHTM nước ta mới gia tăng ổn định, gia tăng sức cạnh tranh trên trường quốc tế.

Về khuôn khổ pháp lý: cần ban hành luật về chính sách giám sát an toàn vĩ mô như là một chính sách song song với CSTT, các nghị định, thông tư hướng dẫn về việc thực hiện chính sách này. Trong đó, phải quy định rõ mục tiêu, nhiệm vụ của chính sách, cân nhắc việc đặt mục tiêu cụ thể với các cơ quan phối hợp như NHNN, Bộ Tài chính, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia để xác định trách nhiệm, tính hiệu quả trong công tác nhằm hướng đến mục tiêu ổn định tài chính, ổn định hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, cần quy định rõ về chức năng và quyền hạn của chính sách này.

Về mô hình cơ cấu tổ chức: Hiện nay, nước ta có nhiều cơ quan giám sát (Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia) do đó, để đảm bảo thực hiện hiệu quả chính sách giám sát an toàn vĩ mô, nước ta có thể xem xét kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc thành lập Hội đồng ổn định Tài chính quốc gia, trong đó, NHNN đóng vai trò là đầu mối, cơ quan thường trực, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan để xây dựng và thực thi hiệu quả chính sách này.

Về công cụ chính sách an toàn vĩ mô: Vẫn chưa có một bộ công cụ tiêu chuẩn nào của chính sách an toàn vĩ mô để áp dụng cho tất cả các quốc gia, tùy vào trình độ phát triển, thể chế, đặc thù kinh tế xã hội từng quốc gia mà áp dụng các công cụ phù hợp. NHNN cần xem xét để đề ra một bộ công cụ chính sách an toàn vĩ mô phù hợp dựa trên các khuyến nghị mà các tổ chức quốc tế (WB, IMF) đã đề xuất cho Việt Nam để vừa đảm bảo an toàn hoạt động cho tổ chức tài chính, vừa duy trì ổn định ngân hàng Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

– Allen, W. A., & Wood, G. (2006). Defining and achieving financial stability. Journal of Financial Stability, 2(2), 152-172.

– Goodhart, C. A. E. (2006). A framework for assessing financial stability? Journal of Banking & Finance, 30(12), 3415-3422.

– Jokipii, T., & Monnin, P. (2013). The impact of banking sector stability on the real economy. Journal of International Money and Finance, 32, 1-16.

– IMF (2018), Vietnam – 2018 Macroprudential

– Lai, A. (2002). Modelling financial instability: a survey of the literature: Citeseer.

– Mishkin, F. S. (1992). Anatomy of a financial crisis. Journal of evolutionary Economics, 2(2), 115-130.

– Morgan, P., & Zhang, Y. (2015). Mortgage lending and financial stability in Asia. The Singapore Economic Review, 63, 1-22.

– Ngalawa, H., Tchana, F. T., & Viegi, N. (2016). Banking Instability and Deposit Insurance: The Role of Moral Hazard. Journal of Applied Economics, 19(2), 323-350.

– NHNN (2018), Báo cáo thường niên năm 2018.

– Rose, P. S. (1996). Commercial bank management: Irwin.

Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 11 năm 2020

Vai Trò Và Chức Năng Kinh Tế Của Nhà Nước

Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Như chúng ta đã biết cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường một cách hiệu quả, tuy nhiên cơ chế đó cũng có một loạt khuyết tật. Vì thế ở tất cả các nước có nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, tuy cới mức độ khác nhau để khắc phục, sửa chữa những ” thất bại của thị trường “. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất khác nhau, vì thế, bên cạnh những điểm giống nhau về phương pháp quản lý, có sự khác nhau về mục tiêu xã hội của quản lý.

Ở tất cả các nước có nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, tuy với mức độ khác nhau, để sửa chữa những “thất bại của thị trường”. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất khác nhau, vì thế, bên cạnh những điểm giống nhau về phương pháp quản lý, có sự khác nhau về mục tiêu xã hội của quản lý.

Nhà nước Việt Nam muốn quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có kết quả trước hết cũng phải dựa trên yêu cầu khách quan của các quy luật của kinh tế thị trường. Do đó phương pháp quản lý của Nhà nước ta về nhiều phương diện cũng có những nét giống như phương pháp quản lý của nhà nước ở các nước tư bản: thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế để họ có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, tự chịu trách nhiệm lỗ lãi; xây dựng hệ thống thị trường có tính cạnh tranh, giá cả chủ yếu do thị trường quyết định; xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm hướng dẫn, giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế, hạn chế những khuyết tật của thị trường; xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ cho hoạt động kinh tế; tôn trọng và thực hiện các thông lệ quốc tế trong quan hệ kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, sự quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự quản lý kinh tế của nhà nước tư sản có sự khác nhau cơ bản. Sự quản lý của nhà nước tư sản đối với nền kinh tế thị trường nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho các tổ chức độc quyền. Nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản quản lý nền kinh tế thị trường nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; bảo đảm cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những chức năng kinh tế sau đây: Một là, Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để bảo đảm cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế – xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát, Nhà nước phải sử dụng chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.

Hai là, Nhà nước bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, vì ổn định chính trị, xã hội là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước còn phải tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ.

Ba là, Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường có thể đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội cố gắng vươn tới, không tự động đưa đến sự phân phối thu nhập công bằng. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ rệt nhất tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Bốn là, Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì lợi ích hẹp hòi của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Vì vậy, Nhà nước phải thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội. Sự xuất hiện độc quyền cũng làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thị trường, vì vậy Nhà nước có nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường.