Top 5 # Vai Trò Và Chức Năng Của Người Lãnh Đạo Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Vai Trò Của Người Lãnh Đạo Trong Thời Đại Mới

Khái quát về lãnh đạo

Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người, để họ cố gắng một cách tự nguyện vì các mục tiêu chung của tổ chức hay doanh nghiệp. Vai trò của người lãnh đạo không phải đứng đằng sau để thúc giục nhân viên mà chính là động viên, khích lệ, định hướng và hỗ trợ nhân viên đạt được mục tiêu đã đề ra.

Người lãnh đạo cần hiểu rõ về động cơ của nhân viên là gì, điều gì khiến họ thỏa mãn và toàn tâm toàn ý hoàn thành công việc. Vai trò của người lãnh đạo là nâng tầm nhìn và đưa việc thực hiện mục tiêu đạt tới tiêu chuẩn cao hơn, phát triển khả năng của nhân viên vượt lên những giới hạn thông thường.

Vai trò của người lãnh đạo

Vai trò thủ lĩnh

Thủ lĩnh là vai trò của người lãnh đạo mà Mindalife muốn đề cập đến đầu tiên. Những tố chất vượt trội của người lãnh đạo được mọi người thừa nhận thông qua khả năng thuyết phục, tính quyết đoán, ý tưởng xuất sắc, khả năng dẫn dắt tập thể, dám chịu trách nhiệm,…

Vai trò của người lãnh đạo được nhìn nhận thông qua việc định hướng hành động cho tổ chức, doanh nghiệp. Người lãnh đạo nhóm cần có quyết định kịp thời, tâm huyết, khả năng thuyết phục, dành thời gian, huy động được nguồn lực bên trong và bên ngoài.

Định hướng chiến lược

Định hướng chiến lược là một trong những vai trò của người lãnh đạo. Để tổ chức hay doanh nghiệp có thể phát triển bền vững thì người lãnh đạo cần có chiến lược phù hợp. Dĩ nhiên, chiến lược mà lãnh đạo đề ra phải là tầm nhìn tương lai trong môi trường mục tiêu mà tổ chức, doanh nghiệp hướng tới.

Thông thường, chiến lược đề ra là dài hạn nhưng do điều kiện xã hội thay đổi liên tục nên trong quá trình thực hiện cần có sự thay đổi cho phù hợp. Dựa trên những phân tích về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức để đưa ra quyết định nhưng cũng cần đến sự quyết đoán và nhạy bén của người lãnh đạo.

Truyền cảm hứng và tập hợp sức mạnh

Truyền cảm hứng để tập hợp sức mạnh vì một mục tiêu chung là vai trò của người lãnh đạo. Người lãnh đạo cần đảm bảo rằng tất cả nhân viên của mình được quan tâm công bằng và đúng mức. Khích lệ tinh thần kịp thời sẽ tạo động lực to lớn cho cấp dưới để họ có thể vượt qua khó khăn và hoàn thành tốt công việc.

Lãnh đạo phải là người thổi hồn và tạo được văn hóa doanh nghiệp, không nhất thiết phải có mặt mọi lúc mọi nơi. Thêm nữa, người lãnh đạo cũng cần định hướng rõ ràng để mục tiêu cá nhân và mục tiêu của tập thể có sự hài hòa. Khi mục tiêu của cá nhân được hoàn thành sẽ đóng góp đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu của cả tổ chức hay doanh nghiệp.

Người lãnh đạo sẽ xuất hiện thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội. Bởi vậy, việc xây dựng hình ảnh người lãnh đạo đặc biệt quan trọng trong vai trò truyền cảm hứng. Hình ảnh người lãnh đạo thể hiện ở ngoại hình, tư tưởng, thần thái và ý chí quyết tâm. Các yếu tố góp phần xây dựng hình ảnh người lãnh đạo bao gồm trang phục, cách nói, cách đi đứng, giao tiếp,…

Hỗ trợ nhân viên kịp thời

Vai trò của người lãnh đạo là hỗ trợ nhân viên đúng lúc đúng chỗ. Hãy xuất hiện kịp thời khi nhân viên của mình gặp khó khăn, cảm thấy chán nản, cần sự hỗ trợ. Người lãnh đạo tốt sẽ biết cách giúp nhân viên của mình tìm ra điểm mấu chốt gây nên khúc mắc. Bởi vì, một hệ thống chỉ có thể vận hành bình thường khi tìm ra giải pháp cho những điểm chặn.

Người lãnh đạo cần biết đặt mình trong cùng hoàn cảnh với người khác để có thể thấu hiểu, chia sẻ, đưa ra lời khuyên chân thành cho mọi người cùng hành động vì mục tiêu chung. Tất cả những điều đó phải được thể hiện tâm huyết từ nhận thức và hành động của người lãnh đạo.

Vai trò khai tâm

Vai trò của người lãnh đạo là tạo sự thay đổi theo hướng tích cực. Sự thay đổi bao gồm các yếu tố mới từ tầm nhìn đến phương thức thực hiện. Đó là việc xác định phương hướng hành động cho đến phát hiện điểm mạnh, điểm yếu của nhân viên để giao trách nhiệm. Người lãnh đạo cần thể hiện vai trò khai tâm và truyền bá cái mới cho nhân viên của mình.

Vai trò của người lãnh đạo còn thể hiện ở việc hướng nhân viên của mình đến với tri thức mới, giá trị mới. Lãnh đạo cũng cần biết cách thuyết phục nhân viên bằng cơ sở thực tiễn, khoa học và hiệu quả thực tế. Họ có khả năng tập hợp, động viên, thúc đẩy nhân viên của mình hướng đến những cái tốt đẹp hơn.

Tối ưu các quyết định quản lý

Vai trò của người lãnh đạo trong quản lý chính là việc tối ưu các quyết định, giúp cho hệ thống hoạt động nhịp nhàng và hiệu quả hơn. Hiện nay, vai trò của người lãnh đạo trong việc quản lý và đưa ra quyết định rất khó khăn bởi sự phức tạp của nền kinh tế thị trường.

Điều hòa các mối quan hệ

Điều hòa các mối quan hệ trong tổ chức, doanh nghiệp là vai trò lãnh đạo của nhà quản trị. Vai trò này trở nên quan trọng khi người lãnh đạo mong muốn và hướng mọi người hành động vì mục tiêu chung. Hành động chỉ mang về kết quả tốt đẹp khi người lãnh đạo có khả năng quản trị và điều hòa các mối quan hệ.

Vai Trò Của Lãnh Đạo

Kết quả

Vai trò của lãnh đạo:

Lãnh đạo là một chức năng cơ bản của quản trị, tất cả các chức năng quản trị sẽ không hoàn thành tốt nếu các nhà quản trị không hiểu được yếu tố con người trong các hoạt động của học và không biết lãnh đạo con người để đạt được kết quả như mong muốn.

Lãnh đạo là quá trình tác động và quan tâm đến con người.

Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người sao cho họ cố gắng một cách tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Người lãnh đạo không đứng đằng sau để thúc đẩy hay thúc giục, họ đặt mình lên trước, động viên mọi người hoàn thành mục tiêu đã đề ra. Bất kể một người quản lý lập kế hoạch, tổ chức và kiểm tra kết quả có tốt đến đâu, người đó vẫn phải hỗ trợ những hoạt động đó bằng cách đưa ra những chỉ dẫn cho mọi người, thông tin đầy đủ và lãnh đạo tốt. Việc lãnh đạo phải dựa trên sự hiểu biết về động cơ của con người là gì và điều gì làm cho họ thỏa mãn khi họ góp sức vào việc hoàn thành các mục tiêu của tổ chức.

“Thuật lãnh đạo không chỉ đơn thuần là khả năng lôi cuốn người khác, vì đôi khi đó chỉ là sự mị dân. Đó cũng không phải là khả năng gây cảm tình và thuyết phục người khác vì đây chỉ là kỹ năng bán hàng. Lãnh đạo là nâng tầm nhìn của con người lên mức cao hơn, đưa việc thực hiện công việc đạt tới một tiêu chuẩn cao hơn, và phát triển tính cách của con người vượt qua những giới hạn thông thường. Để có được khả năng lãnh đạo như thế thì không gì tốt hơn là một môi trường doanh nghiệp được xây dựng trên những quy định chặt chẽ về quy định và trách nhiệm, những tiêu chuẩn cao trong thực hiện công việc, và sự tôn trọng của từng cá nhân cũng như công việc của họ” (Peter.F.Drucker, Cách thức quản lý, Butter-heinemann).

Tạo động lực làm việc cho nhân viên là một vai trò quan trọng của người lãnh đạo. Có thể nói đây là vai trò chính, bởi vì một nhân viên thiếu động lực thúc đẩy sẽ luôn làm việc kém hiệu quả. Ngoài những yếu tố khác, người lãnh đạo phải là:

-Một huấn luyện viên: Khơi gợi những tiềm lực tốt đẹp nhất của nhân viên.

-Người điều phối và hỗ trợ: Giúp phá bỏ những trở ngại để nhóm thực hiện công việc một cách trôi chảy.

Người lãnh đạo muốn tạo động lực làm việc của nhân viên phải tìm hiểu nhân viên của mình, xây dựng môi trường làm việc hợp lý. Môi trường làm việc của doanh nghiệp được xác định bằng các chính sách quản trị và thái độ của mỗi nhân viên. Một môi trường cởi mở và chia sẻ sẽ tạo điều kiện cho nhân viên phát triển kỹ năng và năng lực của mình. Những doanh nghiệp có môi trường làm việc như vậy sẽ quy tụ được nhiều nhân viên đồng lòng với mục tiêu của doanh nghiệp, thực tế những doanh nghiệp như vậy sẽ dễ thành công hơn.

Nguồn: chúng tôi (Biên tập và hệ thống hóa)

Vai Trò Của Người Lãnh Đạo Trong Hệ Thống Quản Lý Xã Hội

Khi nói về hệ thống quản lý xã hội, chúng ta thường phân tích quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý, vai trò và vị trí của chủ thể quản lý trong hệ thống đó. Nhưng trong hệ thống tổ chức hoạt động sản xuất cũng như mọi hoạt động khác, chúng ta không thể không nói đến người lãnh đạo, cơ quan lãnh đạo, vị trí và vai trò của nó trong hệ thống quản lý, quan hệ của nó với chủ thể quản lý. Vấn đề này càng trở nên cấp bách đối với những nước đang trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội như nước ta hiện nay. Vì ở đây, người lãnh đạo luôn đóng vai trò chủ đạo trong quá trình quản lý, và hiệu quả của mọi hoạt động quản lý sẽ phụ thuộc rất lớn vào trình độ thông thạo nghiệp vụ và khả năng biết vận dụng nhưng thành tựu khoa học vào công tác thực tế của người lãnh đạo.

Để hiểu rõ vai trò của lãnh đạo trong công tác quản lý, trước hết ta hãy phân biệt hai khái niệm “quản lý” và “lãnh đạo”, “người lãnh đạo” và “người quản lý”. Như nhiều tác giả đã nhận định, khi xét xã hội như một chỉnh thể, một hệ thống duy nhất hoạt động theo cơ chế nội tại của nó thì nội dung của hai khái niệm này là đồng nhất, bởi chúng đều là sự tác động tự giác của chủ thể xã hội, chủ thể lịch sử lên hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, vấn có của hệ thống xã hội đó. Cả hai đều có chung về phương hướng và mục đích là đảm bảo duy trì cho sự hoạt động bình thường của hệ thống. Hơn nữa, trong thực tế hoạt động của các tổ chức xã hội, giữa hoạt động quản lý và hoạt động lãnh đạo không tách rời nhau và trong rất nhiều tổ chức, người lãnh đạo cung đồng thời là người quản lý hệ thống đó.

Tuy vậy, hai khái niệm này lại có sự khác nhau về nội dung hoạt động và chủ yếu là về hình thức, cách thức tác động lên đối tượng. Nếu xét quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo thì phương thức tác động chủ yếu là các mệnh lệnh và sức lôi cuốn của người lãnh đạo, mà sức lôi cuốn này có được là do tài năng, uy tín và phẩm chất vốn có của người lãnh đạo tạo nên. Còn ở người quản lý chính là ở khâu ra quyết định quản lý và sự giám sát, điều chỉnh kịp thời các quyết định quản lý của mình cho phù hợp với yêu cầu của đối tượng quản lý. Ở đây, hiệu quả của sự tác động lại phụ thuộc chủ yếu vào tài năng của người quản lý, còn các phẩm chất khác tuy có ảnh hưởng đến hiệu quả công việc nhưng không có tính quyết định.

Nếu xét về cấu trúc hệ thống thì khái niệm “lãnh đạo” có nội hàm hẹp hơn khái niệm “quản lý”. Trong hệ thống xã hội hay một tổ chức nào đó, lãnh đạo là dạng cao nhất, chung nhất, là nòng cốt của quản lý. Như vậy, ở xã hội ta, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là cao nhất và chính sách của Đảng khi đã được nhân dân thấu hiểu sẽ trở thành cơ sở sống còn của sự phát triển xã hội. Xét toàn bộ hệ thống xã hội ta, sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố cao nhất, chung nhất và căn bản nhất của quản lý. Đó chính là sự lãnh đạo chính trị do Đảng Cộng sản thực hiện. Với vị trí đó, vai trò của Đảng Cộng sản đối với sự phát triển của đất nước ta hiện nay không có gì cần phải bàn cãi.

Nhưng ở đây, như vấn đề đã đặt ra, khi nói về lãnh đạo, người lãnh đạo là xét từ góc độ quản lý. Vì vậy có thể thấy, khi nói về vai trò của người lãnh đạo là xét ở hiệu quả quản lý của người đó và tác đụng của người đó trong hệ thống quản lý. Nếu trong một hệ thống tổ chức thì có người quản lý mà không có người lãnh đạo thì là một điều khó hình dung. Vì như vậy, vô hình trung ta đã tách hệ thống đó khỏi hệ thống lớn hơn. Nhưng, nếu xét về hoạt động của một tổ chức, cũng khó chấp nhận sự tồn tại song song của cả người lãnh đạo lẫn người quản lý. Như ở nước ta hiện nay, trong hệ thống tổ chức hành chính, ở các cơ quan Nhà nước đều tồn tại song song người bí thư chi bộ (lãnh đạo về chính trị) và người thủ trưởng cơ quan (người quản lý cao nhất ở cấp đó). Nhưng điều đó không có nghĩa là tồn tại song song người lãnh đạo và người quản lý. Vì trong tổ chức đó, mỗi người đều có chức năng riêng và phương thức tác động đến tố chức hoàn toàn khác nhau.

Từ đó, có thể thấy khía cạnh lãnh đạo, hay yếu tố lãnh đạo cửa người quản lý. Tức là khi nói đến sự lãnh đạo của người quản lý sẽ là nhấn mạnh đến các phẩm chất khác của anh ta ngoài tài năng (đương nhiên, tài năng là cái buộc phải có, nhưng nó chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ). Nhưng nếu chỉ xét ở tài năng, anh ta vẫn có thể trở thành người quản lý giỏi, nhưng hiệu quả và yếu tố tích cực của công việc sẽ giảm rất nhiều so với công sức và tài năng mà anh ta đã bỏ ra. Bởi lẽ, con người (đối tượng bị lãnh đạo, bị quản lý) có thể tiếp nhận những mệnh lệnh quản lý, tuân theo chúng và cũng có thể không tiếp nhận hay tiếp nhận không đúng với mức độ mà người lãnh đạo đòi hỏi.

Như vậy, lãnh đạo là một khía cạnh quan trọng của quản lý. Và như đã phân tích, khả năng lãnh đạo có hiệu quả là một trong những chìa khoá cho ai đó trở thành một nhà quản lý giỏi. Một nhà quản lý chỉ trở thành một nhà lãnh đạo có hiệu quả khi anh ta có đầy đủ nhưng phẩm chất của người lãnh đạo. Những phẩm chất đó là: khả năng nhận thức đầy đủ đối tượng quản lý, khả năng khích lệ, khả năng hành động nhằm tạo ra bầu không khí hữu ích (chẳng hạn như sự vui vẻ, tình anh em, tình gia đình…) cho sự hưởng ứng đáp lại và khơi dậy nhưng động cơ thúc đẩy hành động bên trong của mỗi con người nằm trong tổ chức đó.

Qua sự trình bày trên, có thể rút ra một cách khái quát, lãnh đạo như là sự tác động có nghệ thuật đến con người sao cho họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Và do vậy, lãnh đạo là sự chỉ dẫn, điều khiển, ra lệnh và đi trước. Chính yếu tố đi trước này đòi hỏi rất nhiều phẩm chất ưu việt của người lãnh đạo mà những người bình thường không thể có được. Trách nhiệm cơ bản của người lãnh đạo không hoàn toàn ở việc thực thi quyết định quản lý, mà là ở chỗ bảo đảm cho hoạt động đúng hướng, có sự hợp đồng giữa các bộ phận, các phòng, ban riêng lẻ hay các cá nhân trong tổ chức để tạo thành một tập thể thống nhất trong việc thực hiện mục tiêu đã đề ra. Ngoài ra, người lãnh đạo còn cần biết sử đụng những khả năng của các cán bộ dưới quyền mình để chuẩn bị cho những giải pháp quản lý tối ưu. Đây cũng là điểm khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý. Là người quản lý, việc tối quan trọng là sự nhận biết nội đung và tiến trình của công việc, thu thập thông tin và xử lý thông tin trước khi ra quyết định quản lý. Còn ở người lãnh đạo lại cần nắm rõ năng lực của từng cán bộ dưới quyền mà có sự sắp xếp, bố trí cũng như triển khai công việc có hiệu quả và khai thác được tối đa sức mạnh tiềm năng của mỗi con người nằm trong sự lãnh đạo của mình. Chính điều này đôi khi còn buộc người lãnh đạo không chỉ cần chú ý tới đặc điểm quan trọng của mỗi con người trong đời sống xã hội, mà còn phải lưu ý đến cả những chuyện riêng tư của họ. Từ đây có thể thấy, phẩm chất quan trọng nhất của người lãnh đạo là biết tìm cách tiếp xúc riêng với mỗi người cấp dưới, hoặc chung hơn là năng lực biết làm việc với con người.

Giữa người lãnh đạo và người quản lý trong một tổ chức, xét từ góc độ này, rõ ràng là không có sự phân cách. Bởi vì, xét cho cùng, nhiệm vụ của người quản lý và người lãnh đạo cùng đều nhằm duy trì và điều chỉnh cho hệ thống hoạt động bình thường và do vậy, tưởng là hai hoạt động khác nhau, nhưng chúng đều nằm trong một tiến trình thống nhất – tiến trình quản lý đối tượng. Vai trò của lãnh đạo ở đây được thể hiện chính trong vai trò của người quản lý như nhiều bài viết đã phân tích.

Tuy nhiên, ngoài những cái chung đó, ta còn thấy nét nổi bật của vai trò người lãnh đạo trong hệ thống chính là làm cho quyết định quản lý được thực hiện một cách tối ưu hơn, làm cho hệ thống tổ chức hoạt động được nhịp nhàng hơn, hiệu quả hơn và nhanh hơn về mặt thời gian để đạt tới mục tiêu. Chính điều này đã lý giải cho vấn đề là, trong một tổ chức, tại sao người quản lý giỏi mà hệ thống hoạt động lại chỉ bằng hoặc kém hơn hệ thống khác do người quản lý kém hơn nhưng lại có năng lực lãnh đạo tốt hơn. Nhất là hiện nay, trước sự phức tạp của nền kinh tế thị trường thì vai trò của người lãnh đạo càng to lớn. Bởi vì, người quản lý càng giỏi bao nhiêu thì tính năng động của anh ta càng tớn, chính vì thế mà anh ta càng dễ vượt rào bấy nhiêu và nhờ có năng lực lãnh đạo mà anh ta định hướng đúng con đường đi của mình và tuân thủ mọi điều luật do Nhà nước đề ra. Tức là ở anh ta đã biết kết hợp hài hoà giữa cộng đồng bé nhỏ của mình với cộng đồng lớn hơn về mặt hoạt động cũng như về mặt lợi ích.

Trong hệ thống quản lý xã hội người lãnh đạo luôn là người quản lý tổ chức của mình. Chính vì vậy mà khi đó và chỉ khi đó, vai trò của anh ta mới được thể hiện đầy đủ, tổ chức do anh ta quản lý hoạt động mới thực sự đạt hiệu quả tối đa. Như vậy, người lãnh đạo trong hệ thống quản lý luôn giữ vai trò nòng cốt cho các quyết định quản lý và các quan hệ quản lý. Vai trò này được thể hiện không chỉ ở khâu ra quyết định quản lý, mà nó còn xuyên suốt cả tiến trình thực hiện quyết định đó. Nếu không thấy rõ vai trò này, người quản lý sẽ dễ rơi vào chỗ mất phương hướng khi lựa chọn quyết định quản lý, cũng như con đường phát triển tiếp theo của đơn vị đó mình quản lý. Chính do có vai trò to lớn như vậy mà Đảng ta đã rất chú trọng đến khâu bồi dưỡng, cũng như tuyển chọn cán bộ lãnh đạo quản lý trong các cơ quan hành chính Nhà nước.

Tư Vấn Vai Trò Và Chức Năng Của Ban Lãnh Đạo Công Ty Tnhh Hai Thành Viên Trở Lên?

Hội đồng thành viên gồm các thành viên, là cơ quan quyết định cao nhất của công tyTNHH

Hỏi: Em cần hỏi về vai trò và chức năng của ban lãnh đạo công ty trách nhiệm hữu hạn 2 trở lên anh (chị) có thể giải đáp cho em được không? (Kim Ngân – Bắc Ninh)

Điều 46 quy định cơ cấu tổ chức công ty TNHH 2 thành viên trở lên bao gồm: Hội đồng thành viên, Chủ tịch thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Chức năng và của các chức danh trên như sau:

Thứ nhất, Hội đồng thành viên (Điều 47 Luật Doanh nghiệp):

1. Hội đồng thành viên gồm các thành viên, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Thành viên là tổ chức chỉ định người đại diện theo uỷ quyền tham gia Hội đồng thành viên. Điều lệ công ty quy định cụ thể định kỳ họp Hội đồng thành viên, nhưng ít nhất mỗi năm phải họp một lần

2. Hội đồng thành viên có các quyền và nhiệm vụ sau đây:

a) Quyết định chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty;

b) Quyết định tăng hoặc giảm vốn , quyết định thời điểm và phương thức huy động thêm vốn;

c) Quyết định phương thức đầu tư và dự án đầu tư có giá trị trên 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty;

d) Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và chuyển giao công nghệ; thông qua hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty;

đ) Bầu, , bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký và chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và người quản lý khác quy định tại Điều lệ công ty;

e) Quyết định mức lương, thưởng và lợi ích khác đối với Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và người quản lý khác quy định tại Điều lệ công ty;

g) Thông qua báo cáo tài chính hàng năm, phương án sử dụng và phân chia lợi nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty;

h) Quyết định cơ cấu tổ chức quản lý công ty;

i) Quyết định thành lập công ty con, chi nhánh, văn phòng đại diện;

k) Sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty;

l) Quyết định tổ chức lại công ty;

m) Quyết định giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty;

n) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.

Thứ hai, Chủ tịch Hội đồng thành viên (Điều 49 Luật Doanh nghiệp):

1. Hội đồng thành viên bầu một thành viên làm Chủ tịch. Chủ tịch Hội đồng thành viên có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty.

2. Chủ tịch Hội đồng thành viên có các quyền và nhiệm vụ sau đây:

a) Chuẩn bị hoặc tổ chuẩn bị chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội đồng thành viên;

b) Chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu họp Hội đồng thành viên hoặc để lấy ý kiến các thành viên;

c) Triệu tập và chủ trì cuộc họp Hội đồng thành viên hoặc tổ chức việc lấy ý kiến các thành viên;

d) Giám sát hoặc tổ chức giám sát việc thực hiện các quyết định của Hội đồng thành viên;

đ) Thay mặt Hội đồng thành viên ký các quyết định của Hội đồng thành viên;

e) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.

3. Nhiệm kỳ của Chủ tịch Hội đồng thành viên không quá năm năm. Chủ tịch Hội đồng thành viên có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.

4. Trường hợp Điều lệ công ty quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật thì các giấy tờ giao dịch phải ghi rõ điều đó.

5. Trường hợp vắng mặt thì Chủ tịch Hội đồng thành viên uỷ quyền bằng văn bản cho một thành viên thực hiện các quyền và nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp không có thành viên được uỷ quyền hoặc Chủ tịch Hội đồng thành viên không làm việc được thì các thành viên còn lại bầu một người trong số các thành viên tạm thời thực hiện quyền và nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên theo nguyên tắc đa số quá bán.

Thứ ba, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc (Điều 55 Luật Doanh nghiệp):

1. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ của mình.

2. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các quyền và nhiệm vụ sau đây:

a) Tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng thành viên;

c) Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty;

d) Ban hành quy chế quản lý nội bộ công ty;

đ) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên;

e) Ký kết hợp đồng nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng thành viên;

g) Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức công ty;

h) Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Hội đồng thành viên;

i) Kiến nghị phương án sử dụng lợi nhuận hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh;

k) Tuyển dụng lao động;

l) Các quyền và nhiệm vụ khác được quy định tại Điều lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký với công ty theo quyết định của Hội đồng thành viên

Khuyến nghị:

Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.

Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.

Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.