Top 3 # Vị Dụ Về Chức Năng Của Gia Đình Gdcd 10 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Chức Năng Cơ Bản Của Gia Đình Là Gì ? Khái Niệm Về Chức Năng Của Gia Đình

Chức năng cơ bản của gia đình là vai trò cơ bản của gia đình mà vai trò đó làm cơ sở cho toàn bộ sự hoạt động và phát triển của gia đình.

Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng mỗi con người, có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người. Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam thì gia đình có ba chức năng cơ bản: chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế. Chức năng sinh đẻ nhằm tái sản xuất ra con người, nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Nhờ có chức năng sinh để của gia đình mà xã hội không thể bị diệt vong. Chức năng giáo dục nhằm trang bị cho con người những tri thức cần thiết để phục vụ cuộc sống, phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Chức năng kinh tế của gia đình nhằm tạo ra những gia đình ấm no. Kinh tế gia đình phát triển thì nền kinh tế quốc gia mới hưng thịnh. Trong các chức năng trên, chức năng giáo dục đóng vai trò quan trọng. Ngoài ra, gia đình Việt Nam còn có chức năng quan tâm, chăm sóc, bảo vệ người cao tuổi.

Yêu cầu phản tố là gì ? Quy định về yêu cầu phản tố(09/11)

Yêu cầu của đương sự là gì ? Quy định về yêu cầu của đương sự(09/11)

Yếu tố nước ngoài là gì ? Quy định pháp luật về yếu tố nước ngoài ?(09/11)

Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là gì ?(09/11)

Ý thức pháp luật là gì ? Quy định về ý thức pháp luật(09/11)

Ý thức công dân là gì ? khái niệm ý thức công dân được hiểu thế nào ?(09/11)

Ý chí nhà nước là gì ? Khái niệm ý chí nhà nước hiểu thế nào cho đúng ?(09/11)

Xử phạt vi phạm hành chính là gì ? Quy định về xử phạt vi phạm hành chính(09/11)

Xử lý vi phạm pháp luật là gì ? Quy định về xử lý vi phạm pháp luật(09/11)

Xử lý vi phạm kỷ luật lao động là gì ? Quy định về xử lí vi phạm kỷ luật lao động(09/11)

Bộ máy nhà nước là gì ? Khái niệm về bộ máy nhà nước ?

Vi phạm pháp luật là gì ? Quy định về hành vi vi phạm pháp luật

Quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội là gì ? Quy định về quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội

Gdcd 10 Bài 12: Công Dân Với Tình Yêu, Hôn Nhân Và Gia Đình

Lý thuyết, Trắc nghiệm môn Giáo dục công dân 10

Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết

Bài: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình

A/ Lý thuyết môn GDCD 10 bài 12

– Tình yêu là sự rung cảm và quyến luyến sâu sắc giữa hai người khác giới. Ở họ có sự phù hợp về nhiều mặt … làm cho họ có nhu cầu gần gũi, gắn bó với nhau, tự nguyện sống vì nhau và sẵn sàng hiến dâng cho nhau cuộc sống của mình.

– Tình yêu chân chính là tình yêu trong sáng và lành mạnh, phù hợp với các quan niệm đạo đức tiến bộ của xã hội.

– Biểu hiện của tình yêu chân chính:

+ Có tình cảm chân thật, sự quyến luyến, gắn bó giữa một nam và một nữ.

+ Có sự quan tâm sâu sắc đến nhau không vụ lợi.

+ Có sự chân thành, tin cậy và tôn trọng từ cả hai phía.

+ Có lòng vị tha và sự thông cảm.

– Yêu đương quá sớm.

– Yêu một lúc nhiều người, yêu để chứng tỏ khả năng chinh phục bạn khác giới hoặc yêu vì mục đích vụ lợi.

– Có quan hệ tình dục trước hôn nhân.

– Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn.

– Thứ 1: Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ.

+ Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ là hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính.

+ Tự nguyện trong hôn nhân thể hiện qua việc cá nhân được tự do kết hôn theo luật định.

+ Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân bảo đảm về mặt pháp lý.

+ Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ còn thể hiện ở việc bảo đảm quyền tự do li hôn. Li hôn chỉ được coi là việc bất đắc dĩ, vì li hôn gây nhiều hậu quả xấu cho cả hai người, đặc biệt là đối với con cái.

– Thứ 2: Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

+ Hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính là hôn nhân một vợ một chồng. Bởi vì, tình yêu là không thể chia sẻ được .

+ Bình đẳng trong quan hệ vợ chồng là nguyên tắc cơ bản trong gia đình mới .Sự bình đẳng không phải là sự cào bằng, chia đôi, mà là vợ chồng có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong mọi mặt của đời sống gia đình.

3/ Gia đình, chức năng của gia đình, các mối quan hệ gia đình

– Gia đình là một cộng đồng người chung sống và gắn bó với nhau bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.

– Chức năng duy trì nòi giống

– Chức năng kinh tế

– Chức năng tổ chức đời sống gia đình

– Chức năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái

– Quan hệ giữa vợ và chồng: Vợ chồng phải có trách nhiệm chung thủy, yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.

– Quan hệ giữa cha mẹ và con cái

+ Cha mẹ: Yêu thương, nuôi dưỡng, giáo dục con cái

+ Con cái: có nghĩa vụ yêu quí, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, vâng lời cha mẹ, phụng dưỡng, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.

– Quan hệ giữa ông bà và các cháu

+ Ông bà: Có trách nhiệm yêu thương, chăm sóc, giáo dục con cháu, làm gương cho con cháu noi theo.

+ Con cháu: Có bổn phận yêu thương, kính trọng phụng dưỡng ông bà.

– Quan hệ giữa anh, chị, em: Có trách nhiệm yêu thương, đùm bọc, tôn trọng, bảo ban, chăm sóc và giúp đỡ nhau trong cuộc sống.

B/ Trắc nghiệm môn GDCD 10 bài 12

Câu 1: Tình yêu đích thực diễn biến theo ba giai đoạn nào?

Câu 2: Những điều nào cần tránh trong tình yêu?

Câu 3: Để xây dựng một gia đình hạnh phúc các thành viên cần

Câu 4: Chức năng của gia đình là

Câu 5: Biểu hiện của tình yêu chân chính

Câu 6: Điều 37, Luật Hôn nhân và gia đình có nêu: Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con. Nội dung đó nói đến chức năng nào của gia đình?

Câu 7: Gia đình được xây dựng dựa trên mối quan hệ nào?

Câu 8: Ngày nay, trong xã hội xuất hiện thuật ngữ LGBT là nói đến tình yêu của những đối tượng nào?

Câu 9: Đối với tình yêu cá nhân, xã hội có trách nhiệm là?

Câu 10: Độ tuổi đủ tuổi kết hôn của nam và nữ là?

Với nội dung bài Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình các bạn học sinh cùng quý thầy cô cần nắm vững kiến thức về khái niệm về tình yêu, hôn nhân và gia đình, đặc điểm và quyền, nghĩa vụ của công dân đối với tình yêu và hôn nhân…

Như vậy là chúng tôi đã giới thiệu cho các bạn bài Các bạn học sinh một số tài liệu tham khảo như: Lý thuyết GDCD lớp 10 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình. Giải bài tập GDCD 10, Giải bài tập GDCD 10 ngắn nhất, Tài liệu học tập lớp 10.

Lý Thuyết, Trắc Nghiệm Gdcd 10 Bài 12: Công Dân Với Tình Yêu, Hôn Nhân Và Gia Đình

A. Lý thuyết

I. Kiến thức cơ bản

1. Tình yêu

a. Tình yêu là gì?

– Tình yêu là sự rung cảm và quyến luyến sâu sắc giữa hai người khác giới, phù hợp nhau về nhiều mặt, có nhu cầu gắn bó và tự nguyện hiến dâng cho nhau cuộc sống của mình.

– Tính xã hội của tình yêu:

+ Tình yêu phụ thuộc vào quan niệm xã hội

+ Kết quả tình yêu dẫn tới những vấn đề xã hội phải quan tâm.

+ Tình yêu cùng với sự phát triển xã hội sẽ càng thoát khỏi ham mê bản năng.

b. Thế nào là một tình yêu chân chính?

– Tình yêu chân chính là tình yêu trong sáng, lành mạnh, phù hợp với quan điểm đạo đức, tiến bộ xã hội.

– Biểu hiện:

+ Chân chất, quyến luyến, cuốn hút, gắn bó.

+ Sự quan tâm sâu sắc đến nhau, không vụ lợi

+ Sự chân thành, tin cậy và tôn trọng từ hai phía

+ Lòng vị tha thông cảm.

c. Một số điều cần tránh trong tình yêu nam nữ thanh niên.

– Yêu đương quá sớm, nhầm lẫn tình bạn với tình yêu

– Yêu một lúc nhiều người, hoặc vụ lợi trong tình yêu.

– Không quan hệ tình dục trước hôn nhân.

2. Hôn nhân

a. Hôn nhân là gì? Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn.

b. Chế độ hôn nhân ở nước ta hiện nay Thứ nhất: Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ

– Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ là hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính.

– Tự nguyện trong hôn nhân thể hiện qua việc cá nhân được tự do kết hôn theo luật định.

– Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân bảo đảm về mặt pháp lí.

– Hôn nhân tự nguyện và tiến bộ còn thể hiện ở việc đảm bảo quyền tự do li hôn.

Thứ hai: Hôn nhân một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng

– Hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính là hôn nhân một vợ một chồng, tình yêu là không thể chia sẻ được.

– Bình đẳng trong quan hệ vợ chồng là nguyên tắc cơ bản trong gia đình mới. Sự bình đẳng không phải là sự cào bằng, chia đôi…

3. Gia đình, chức năng của gia đình, các mối quan hệ gia đình và trách nhiệm của các thành viên.

a. Gia đình là gì?

Gia đình là một cộng đồng chung sống và gắn bó với nhau bởi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.

b. Chức năng của gia đình:

– Chức năng duy trì nòi giống

– Chức năng kinh tế

– Chức năng tổ chức đời sống gia đình

– Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái

c. Mối quan hệ và trách nhiệm của mỗi thành viên trong gia đình.

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái:

– Cha mẹ: Có trách nhiệm yêu thương, nuôi dưỡng, giáo dục và tạo điều kiện cho con học hành, con cái trở thành công dân có ích cho xã hội.

– Con cái: Có bổn phận kính trọng, hiếu thảo, giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình.

Quan hệ giữa ông bà và con cháu:

– Ông bà thương yêu, quan tâm chăm sóc, gương mẫu trong giáo dục các cháu.

– Cháu kinh trọng, hiếu thảo, yêu thương ông bà.

Quan hệ giữa anh, chị em: Thương yêu, tôn trọng, đùm bọc, bảo ban, giúp đỡ nhau trong cuộc sống.

B. Trắc nghiệm

Câu 1: Điều 37, Luật Hôn nhân và gia đình có nêu: Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con. Nội dung đó nói đến chức năng nào của gia đình?

A. Chức năng kinh tế.

B. Chức năng duy trì nòi giống.

C. Chức năng tổ chức đời sống.

D. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái.

Đáp án: D

Câu 2: Gia đình được xây dựng dựa trên mối quan hệ nào?

A. Quan hệ hôn nhân và quan hệ xã hội.

B. Quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.

C. Quan hệ hôn nhân và quan hệ cận huyết.

D. Quan hệ huyết thống và quan hệ xã hội.

Đáp án: B

Câu 3: Ngày nay, trong xã hội xuất hiện thuật ngữ LGBT là nói đến tình yêu của những đối tượng nào?

A. Đồng tính luyến ái nam và nữ.

B. Song tính luyến ái.

C. Người chuyển giới.

D. Cả A,B,C.

Đáp án: D

Câu 4: Đối với tình yêu cá nhân, xã hội có trách nhiệm là?

A. Không có trách nhiệm vì tình yêu mang tính cá nhân.

B. Hướng dẫn mọi người có quan niệm đúng đắn về tình yêu.

C. Chi phối tình yêu cá nhân.

D. Ngăn cản tình yêu cá nhân.

Đáp án: B

Câu 5: Biểu hiện của tình yêu chân chính là?

A. Có tình cảm chân thực, sự quyến luyến của những người yêu nhau.

B. Sự quan tâm đến nhau, không vụ lợi.

C. Sự chân thành, tin cậy và tôn trọng nhau.

D. Cả A,B,C.

Đáp án: D

Câu 6: Độ tuổi đủ tuổi kết hôn của nam và nữ là?

A. Nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi.

B. Nam từ đủ 18 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi.

C. Nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 16 tuổi.

D. Nam từ đủ 18 tuổi, nữ từ đủ 20 tuổi.

Đáp án: A

Câu 7: Chế độ hôn nhân ở nước ta hiện nay là?

A. Tự nguyện và tiến bộ.

B. Một vợ, một chồng bình đẳng.

C. Tôn trọng lẫn nhau.

D. Cả A và B

Đáp án: D

Câu 8: Nơi đăng ký kết hôn là:

A. Khu phố ,thôn ấp nơi hai người yêu nhau sinh sống

B. Uỷ ban nhân dân quận, huyện nơi hai người yêu nhau sinh sống

C. Toà án nhân dân quận, huyện nơi hai người yêu nhau sinh sống

D. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi hai người yêu nhau sinh sống

“Để trở thành người có lương tâm, đối với mọi người, cần phải rèn luyện tư tưởng đạo đức cá nhân theo………..(1) ….tiến bộ, cách mạng, biến ý thức đạo đức thành ….(2)…. đạo đức trong đời sống, sinh hoạt hàng ngày.” A. (1) tư tưởng – (2) thói quen B. (1) tư tưởng – (2) tình cảm C. (1) quan niệm – (2) ý thức D. (1) quan điểm – (2) thói quen

Đáp án: D

Câu 10: Người có nhân phẩm là người:

A. có nhu cầu vật chất và tinh thần lành mạnh biết tôn trọng các chuẩn mực đạo đức tiến bộ, thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức đôí với xã hội.

B. có lương tâm trong sáng, biết tôn trọng các chuẩn mực đạo đức tiến bộ, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với mọi người.

C. có lương tâm trong sáng, có nhu cầu vật chất và tinh thần lành mạnh, thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức của mình đối với người khác và xã hội.

D. có lương tâm trong sáng, có nhu cầu vật chất và tinh thần lành mạnh, biết tôn trọng các chuẩn mực đạo đức tiến bộ, thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức của mình đối với người khác, với xã hội.

Đáp án: D

Comments

Sự Biến Đổi Chức Năng Của Gia Đình

Giải phóng văn chương khỏi chính nó là con đường đầy tiềm năng của văn học – như là một khoa học. Chính vì thế, các nghiên cứu liên ngành đã phát huy tích cực khả năng đánh giá văn chương trong tư cách một dữ kiện văn hóa học, xã hội học, triết học, mĩ học, nhân chủng học, dân tộc học… Xem xét sự biến đổi của gia đình trên cơ sở dữ liệu là tiểu thuyết viết về nông thôn Việt Nam đầu thế kỉ XXI, dưới góc nhìn xã hội học là một trường hợp như thế.

Từ quan điểm xã hội học, xét về bản chất, gia đình có bốn chức năng cơ bản: sinh sản, tình cảm, giáo dục, kinh tế. Do sự va chạm giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, sự chênh lệch giữa tốc độ biến đổi của cơ cấu xã hội và tốc độ biến đổi của gia đình, chức năng của gia đình Việt Nam có những biến đổi mạnh mẽ trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Vấn đề này được cảnh báo một cách khá gay gắt trong tiểu thuyết viết về nông thôn Việt Nam đầu thế kỉ XXI.

Đại bộ phận người dân Việt Nam vẫn cho rằng sinh con là một chức năng quan trọng của gia đình. Tuy nhiên, đã có một sự chuyển đổi nhận thức rất rõ về hôn nhân, tình dục, sinh sản và số con, nhất là trong các gia đình ở nông thôn Việt Nam. Truyền thống nông nghiệp lúa nước cùng những tình thế mưu sinh, đối mặt với các đe dọa từ thiên nhiên (thậm chí là từ các gia đình, dòng họ khác) đòi hỏi sự cố kết của cộng đồng cả về chất lượng và số lượng, trong đó có sức mạnh đến từ huyết thống. Quan niệm con đàn cháu đống, đông con nhiều cháu, ngoài ý nghĩa phúc hậu đức dày, còn thể hiện một cách sâu xa chiến lược sinh tồn của các gia đình nông thôn. Trên cơ sở đó, dường như việc dựng vợ gả chồng và quan hệ tình dục chủ yếu phục vụ chức năng duy trì nòi giống, tạo nguồn nhân lực. Thế nhưng, giờ đây tình dục không chỉ mang ý nghĩa là một phương cách của việc sinh sản mà còn là sự thể hiện của tình yêu (thế giới tinh thần) và nhu cầu sinh học của con người. Trong tiểu thuyết về đề tài nông thôn đầu thế kỉ XXI, ta bắt gặp rất nhiều mối quan hệ xung quanh chuyện thỏa mãn đời sống tình dục như là biểu hiện của những ẩn ức sinh ra từ sự kìm nén nhu cầu thân xác của con người. Nó phá vỡ những cương vực, giềng mối của gia đình truyền thống vốn định hình một cách bền bỉ sau lũy tre làng. Phải gặp những nhân vật như Loan, Nga, Vy, Cơ trong Gia phả của đất, Lưu cá ngựa, Hoa, Xoan, Duyên, lão Đàm, bà Hai Nhã trong Ngư phủ (Hoàng Minh Tường); Minh, Thao trong Thần thánh và bươm bướm (Đỗ Minh Tuấn); bà Mến và ông Quỹ Nhất, chị cả Thuần và ông Đồi trong Dòng sông Mía (Đào Thắng); những mối tình nhuốm màu sắc dục ở làng Tâm Đức của Trương Rô, cô Đào, Quản Mè, ông Sóng trong Trăm năm thoáng chốc (Vũ Huy Anh)… chúng ta mới thực sự nhận ra những đổi thay từ âm ỉ đến bùng phát của đời sống nông thôn Việt Nam.

Xã hội hiện đại đem đến cho con người nhận thức rằng, thỏa mãn nhu cầu tình dục đã trở thành nhân tố chính làm tăng mức độ thỏa mãn – hạnh phúc trong đời sống hôn nhân, gia đình. Tuy nhiên, trượt qua ngưỡng giao thoa của truyền thống và hiện đại, khi đời sống tình dục trong hôn nhân không được thỏa mãn, nhiều người sẵn sàng chạy theo nhu cầu bản năng bất chấp mọi rào cản, kể cả đạo lí luân thường trong truyền thống văn hóa của người Việt. Về mặt luân lí, dĩ nhiên có nhiều mối quan hệ đáng chê trách, tuy nhiên, đằng sau câu chuyện ấy lại là những diễn biến tinh thần, cảm xúc, nhu cầu của con người đã không thể giữ mình trong nề nếp xưa cũ. Trong tiểu thuyết Cổng làng, Nguyễn Thanh Cải đã cho thấy quan hệ vụng trộm của cô Chút với Hấn xuất phát từ việc làm ăn chung bán cát sỏi, vật liệu xây dựng. Hấn nôn nóng muốn chiếm đoạt Chút, còn Chút ngoại tình với Hấn bởi có những cảm giác mới lạ, khác nhiều so với ông chồng dân tộc đang sống cạnh cô. Vấn đề vốn dĩ nhạy cảm, trước kia văn chương thường ít chú ý (hoặc né tránh), nhất là văn chương viết về nông thôn, thì nay được các nhà văn phơi bày trên trang giấy một cách công khai như là nhu cầu bộc lộ bản năng nguyên thủy của con người. Bản năng của con người thuộc về bản thể tự nhiên nhất, nằm ngoài vùng che chắn của ý thức. Chạm đến bản năng tức là chạm đến phần sâu kín nhất của con người. Không chỉ tập trung khai thác con người mang ý thức xã hội, các ngòi bút tiểu thuyết về đề tài nông thôn đầu thế kỉ XXI đã có ý thức dùng lớp vỏ bản năng (như một kí hiệu) để lạ hóa cả phương diện nghệ thuật lẫn tư tưởng khi khai thác con người ở mặt bản thể tự nhiên không dễ gì đoán biết được. Cái bày ra trên trang giấy, cái ám ảnh người đọc đâu chỉ là những quằn quại, rên xiết. Đằng sau mớ ngổn ngang, hỗn tạp của gối chăn, áo quần… ấy, nói như Văn Thị Phương Trang khi bàn về Hình tượng con người bản năng trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, dường như là “những tâm hồn rất trống rỗng, quấn lấy nhau trong khối cô đơn không thể nào chia sẻ”.

Chức năng giáo dục là chức năng được tăng cường hơn bao giờ hết và trở thành một trách nhiệm nặng nề mà gia đình phải gánh vác, tuy nhiên, trong quá trình xã hội biến đổi nhanh chóng, gia đình đang nảy sinh nhiều xáo trộn về chức năng dưỡng dục con cái (với thế nhìn từ bên trong) và xã hội hóa (như một hoạt lực bên ngoài). Thế hệ trẻ mới cho dù có nhận được sự bảo trợ, dạy dỗ của bố mẹ nhưng họ vẫn bộc lộ những bất đồng thế hệ. Những bất đồng ấy được đẩy lên thành xung đột đến mức gay gắt. Trong Thần thánh và bươm bướm (Đỗ Minh Tuấn), xung đột này được đẩy đến đỉnh điểm khi thằng Giác lôi bát hương ra dọa đập vỡ. Bát hương là vật thiêng biểu thị lòng thành kính, sự biết ơn của người đời sau đối với người đời trước; đập vỡ bát hương trên ban thờ tổ tiên là một hành vi đại bất kính. Trong khi ông Cảnh hết mực coi trọng và gìn giữ nề nếp truyền thống, coi sóc gia tiên chu đáo thì thằng con lại lợi dụng chính tấm lòng của cha để thực hiện nhu cầu cá nhân. Sự xấc xược cũng như hành vi thất đức của thằng Giác là biểu hiện của lối sống lệch lạc, mất gốc. Đỗ Minh Tuấn đã cảnh báo về những vết nứt giáo dục gia đình nói riêng và sự băng hoại văn hóa truyền thống nói chung từ các nhân vật này. Gia đình Thao cũng vậy, ông bố và bà mẹ cui cút từ hai, ba giờ sáng nhặt hoa gạo, lá mít cho cậu con trai xưng thánh thực hiện hành động thiêng liêng, bí ẩn trong điện thờ. Thằng con dùng tất cả mánh khóe về tình dục, lợi dụng lòng tin mù quáng của người dân, sự “âm u, đui mù” tín ngưỡng để trục lợi. Nó trở nên vênh váo vì nghĩ rằng vợ chồng Thao được ăn theo danh thơm của thánh. Đã có lúc, Thao không chịu được sự huênh hoang của thằng Chấn, hét thẳng vào mặt nó: “Mày còn giở cái giọng mất dạy sỉ nhục tao lần nữa tao phá hết cái điện này cho mày ra chuồng xí mà xưng thánh” (Thần thánh và bươm bướm). Những xung đột thế hệ giữa các thành viên trong gia đình như một sự cảnh báo của nhà văn về sự đổ vỡ phần nào chức năng giáo dục của gia đình. Nó cũng cho thấy các mối quan hệ trong gia đình trở nên lỏng lẻo và trước sau cũng phải đối diện với các nguy cơ bị hủy hoại. Chúng ta thấy rõ nhất các xung đột trong tương quan về thế hệ, các giá trị cổ truyền và hiện đại. Cuộc sống của xã hội hiện đại, lối sống mới len lỏi đến từng ngõ ngách của làng quê, thẩm nhập tận những mối giềng sâu kín tưởng như bền chặt vĩnh viễn, phá vỡ nề nếp gia phong, đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam. Nhịp sống hối hả với vòng quay của công việc khiến những bữa cơm gia đình hiếm khi đông đủ. Cuộc sống tiện nghi với những phương tiện công nghệ cao đã tạo nên những “ốc đảo” ngay trong mỗi gia đình, khiến cho cá nhân sống khép kín. Thêm vào đó, lối sống thực dụng ích kỉ, đề cao cuộc sống hưởng thụ, cổ súy cho tư tưởng tự do phát triển cá nhân… cũng là nguy cơ làm mai một, xói mòn nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Về chức năng kinh tế và tâm lí – tình cảm, đối với gia đình truyền thống Việt Nam, người đàn ông được xem là trụ cột kinh tế của gia đình theo quan niệm “đàn ông xây nhà đàn bà xây tổ ấm”. Tuy nhiên, dưới lực cuốn của bánh xe hiện đại, quan niệm này ít nhiều đã thay đổi. Giờ đây, người phụ nữ cũng có vai trò quan trọng trong việc quyết định thu nhập và mức sống của gia đình. Người phụ nữ không còn quanh quẩn ở không gian ruộng vườn, bếp núc nữa. Họ đã dịch chuyển ra không gian xã hội với nhiều điều khác lạ, mới mẻ hơn nhưng cũng nhiều cám dỗ hơn. Nga (Thần thánh và bươm bướm) thậm chí lấn lướt cả chồng. Người đàn bà ấy nhìn đâu cũng ra lợi nhuận, những món hời và biến chồng thành công cụ kiếm tiền, ngay cả việc lợi dụng những mối quan hệ hay hoàn cảnh éo le của người khác để chiếm đoạt. Mưa trong tiểu thuyết Ma làng (Trịnh Thanh Phong) tự chủ, một mình nuôi con và làm giàu trên chính mảnh đất đã gây ra khổ đau cho cuộc đời cô. Đó còn là những người đàn bà làng chài của vùng Hải Thủy (Ngư phủ) vẫn làm chủ cuộc sống gia đình khi chồng nằm lại vĩnh viễn nơi biển cả…

Cuộc sống của xã hội hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường – bên cạnh những mặt tích cực – ở một góc độ nào đó đã phá vỡ nề nếp gia phong, đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam, nhất là về tâm lí – tình cảm, về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Hình thái cố kết dựa trên huyết thống hay tương trợ làng xã bị phá vỡ bởi chính những con người trong gia đình, làng xã. Họ đã hấp thụ một bầu dưỡng khí khác mang màu sắc cá nhân, mang hơi hướng hiện đại. Từ bầu khí quyển ấy mọc ra những cá tính khác, thách thức lại những giá trị gia đình, cộng đồng, các luật tục (hoặc hủ tục) vốn đang chế ngự văn hóa nông thôn. Trở lại với cuốn tiểu thuyết đã được nhắc đến ở trên, Thần thánh và bươm bướm, chúng ta nhận ra sự đổ vỡ của chức năng tình cảm – vốn là một thành tố gắn kết gia đình. Cha con cãi lộn, đánh nhau đến thành thương tật (cha con Thao – Chấn đánh nhau, khiến Chấn bị gãy xương) là biểu hiện của sự băng hoại nghiêm trọng trong cấu trúc gia đình nông thôn trước sự thay đổi của xã hội. Hay trong Chuyện làng Cuội (Lê Lựu), sự cư xử giữa hai mẹ con Hiếu và vợ chồng Hiếu đã phơi bày mặt trái của cuộc sống hiện đại với những nhức nhối, xót xa từ trong giềng mối gia đình. Các cuộc đối thoại trong tác phẩm này đã cho thấy sự đảo lộn mọi tôn ti trật tự: vợ chồng không còn “phu thê tương kính”, mẹ con cũng không còn thứ bậc trên dưới. Người mẹ tần tảo một đời khổ đau đã phải dè dặt một cách rất khó khăn để mở lời “trình bày hoàn cảnh” với đứa con trai do mình sinh ra và nuôi nấng, trong khi thái độ và lời nói của anh ta đối với mẹ hết sức lạnh lùng, vô cảm. Cũng vì quyền lực và đồng tiền mà Hiếu đã táng tận lương tâm đẩy mẹ đến cái chết và làm mất hoàn toàn lòng tin ở thế hệ sau, nhất là con gái mình.

Đô thị hóa một mặt mang lại cho nông thôn luồng gió mới đầy sức sống, làm thay đổi bộ mặt cũ kĩ, trì trệ của làng quê Việt Nam vốn ngàn năm nghèo nàn lạc hậu, nhưng mặt khác cũng tác động tiêu cực không nhỏ đến con người thôn quê vốn thật thà chất phác. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến khoảng cách, thậm chí xung đột trong gia đình. Nhiều chuẩn mực bị đảo lộn trực tiếp tác động đến cấu trúc văn hóa nông thôn Việt Nam. Gia đình không còn cấu trúc bền vững như xưa. Thiếu tình cảm, thiếu tôn trọng, đại nghịch, bất kính, li hôn, ngoại tình, mại dâm, quan niệm tình yêu, tình dục lệch lạc… trở nên phổ biến. Sự tiếp nhận quá nhanh và thiếu chọn lọc một số sắc thái văn hóa từ đô thị đã làm xói mòn, thậm chí là triệt phá nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp lâu đời của văn hóa làng xã. Những lợi ích vật chất, thói vụ lợi làm tha hóa, “lưu manh hóa” một bộ phận cư dân nông thôn, làm vẩn đục môi trường văn hóa, xã hội, bào mòn và làm rạn nứt quan hệ gia đình nông thôn thuần phác. Cấu trúc xã hội, cấu trúc gia đình cùng những chức năng căn bản của nó đã bị thách thức, bị biến đổi. Trong nhịp điệu biến cải đó, có cái tốt lên, nhưng cũng nảy sinh nhiều điều nhức nhối, đó thực sự là lời cảnh báo đến lương tri của con người.