Top 14 # Ví Dụ Về Chức Năng Kinh Tế Sản Xuất Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Giáo Dục Với Chức Năng Kinh Tế Sản Xuất

Do giáo dục tác động đến con người cho nên nó cũng có khả năng tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến các quá trình xã hội mà con người là chủ thể. Những tác dụng của giáo dục đối với các quá trình xã hội xét về mặt xã hội học được gọi là những chức năng xã hội của giáo dục. Có 3 loại chức năng xã hội của giáo dục : Chức năng kinh tế – sản xuất, chức năng – chính trị xã hội và chức năng tư tưởng – văn hoá.Mối liên hệ giữa giáo dục và sản xuất đươc hình thành trên sức lao động. Sức lao động xã hội chỉ tồn tại trên nhân cách con người. Giáo dục tái tạo nên sức mạnh bản chất của con người, vì vậy

Những chức năng này thể hiện vai trò của giáo dục đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội về tất cả các mặt. giáo dục được coi là phương thức tái sản xuất ra sức lao động xã hội. Giáo dục góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Giáo dục tạo ra nguồn nhân lực có tri thức, có kỹ thuật, có kỹ năng nghề nghiệp, phát triển kinh tế sản xuất. a) chức năng kinh tế-sản xuất Giáo dục xuất hiện từ khi có con người, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Lao động dù đơn giản đến đâu cũng cần có sự huấn luyện để con người biết lao động, có kinh nghiệm lao động. Lao động càng phức tạp, càng hiện đại càng đòi hỏi sự đầu tư vào huấn luyện nhiều hơn. Giáo dục đào tạo lại nguồn nhân lực đã bị lỗi thời, tạo nên sức lao động mới, đáp ứng kịp thời nguồn nhân lực thiếu hụt do nhiều nguyên nhân. Bằng con đường truyền thông, giáo dục phát triển ở con người những năng lực chung và năng lực riêng biệt, giúp con người nâng cao năng lực làm việc, thay đổi nghề nghiệp, thay đổi việc làm, góp phần phát triển kinh tế sản xuất. Giáo dục góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống cộng đồng. Giáo dục tham gia vào chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Bằng con đường truyền thông, giáo dục giúp mọi người nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, phát triển kinh tế gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo. Như vậy, giáo dục góp phần phát triển kinh tế sản xuất. Giáo dục thông qua con đường truyền thông, tham gia vào chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình. Giáo dục giúp cho mọi người nhận thức đúng đắn về dân số, sức khỏe sinh sản, giảm tỷ lệ tăng dân số, nâng Cao chất lượng cuộc sống, chất lượng giống nòi, góp phần phát triển sản xuất. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, chất lượng giáo dục gắn liền với chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa thì giáo dục phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong thời đại phát triển như bão táp của khoa học và công nghệ, nhân loại đang chuyển sang nền văn minh tin học, điện tử, sinh học. Khoa học-công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển lực lượng sản xuất gắn liền với sản xuất hàng hóa và thị trường, gắn liền với sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Giáo dục không phải là yếu tố phi sản xuất, giáo dục là yếu tố bên trong, yếu tố cấu thành của sản xuất xã hội. Không thể phát triển lực lượng sản xuất nếu như không đầu tư thỏa đáng cho nhân tố con người, nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất. Không thể xây dựng được quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa nếu như không nâng cao trình độ dân trí, doanh trí, trình độ tổ chức và quản lý của cán bộ và nhân dân. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, không một quốc gia nào muốn phát triển lại đầu tư ít cho giáo dục. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế hiện nay là cuộc chạy đua về khoa học công nghệ, chạy đua về giáo dục đào tạo, chạy đua về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành trung ương khóa 8 đã nhấn mạnh: ” Thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách, nhận thức sâu sắc giáo dục – đào tạo cùng khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển.” Để làm tốt chức năng này giáo dục đào tạo phải xây dựng được một xã hội học tập tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Chính vì vậy, giáo dục phải thực sự đi trước đón đầu thúc đẩy phát triển kinh tế sản xuất. Muốn nền sản xuất phát triển xã hội phát triển thì đòi hỏi giáo dục phải phát triển. Giáo dục phải đào tạo được một đội ngũ nhân lục lao động có trình độ đáp ứng kịp thời với yêu cầu của nền sản xuất đó. 1. Về mạng lưới trường, lớp Mạng lưới trường lớp của Bắc Ninh được quy hoạch theo hướng: Đảm bảo đủ các loại hình trường học để học sinh từ mầm non đến phổ thông có nhu cầu đều được ra lớp. Mỗi xã đều có từ 1 đến 2 trường mầm non, 1 đến 2 trường tiểu học và 1 trường THCS. Mỗi huyện đều có 1 trường THCS huyện, 3 đến 4 trường PTTH và 1 trung tâm giáo dục thường xuyên. Tỉnh có hệ thống trường sư phạm, trường THCN và trường dạy nghề. Hệ thống trường THCN và trường dạy nghề Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh góp phần không nhỏ vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh. Mạng lưới trường lớp của tỉnh Bắc Ninh hiện tại (với 133 trường mầm non, 147 trường tiểu học, 130 trường THCS, 29 trường PTTH, 8 trung tâm GDTX, 1 trường CĐSP, 2 trường THCN địa phương, 1 trường dạy nghề và 4 trường chuyên nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn) đã được bố trí theo đúng tinh thần của Luật Giáo dục, phù hợp với địa bàn dân cư, riêng đối với mầm non và tiểu học được chỉ đạo theo hướng gần dân, quy mô nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em đến lớp. 2. Quy mô phát triển giáo dục-đào tạo Những năm qua, thực hiện nghị quyết TW 2 khoá VIII, quy mô ngành giáo dục Bắc Ninh được mở rộng hàng năm nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu học tập của con em nhân dân. Học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, học sinh diện chính sách, học sinh vùng sâu, vùng xa đều đã được tạo điều kiện để đến lớp và được hưởng các chính sách xã hội, chính sách khuyến học của Đảng và Nhà nước. Ngành đã có những tham mưu về chính sách, về học phí nhằm khuyến khích mở rộng quy mô, thực hiện phổ cập giáo dục. Quy mô ngành học mầm non được mở rộng đáng kể hàng năm. Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi nhà trẻ được huy động ra lớp từ 25% năm 1997 lên 39,3% năm 2002. Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi mẫu giáo được huy động ra lớp tăng từ 60,4% năm 1997 lên 79,6% năm 2002, trong đó trẻ 5 tuổi ra lớp đạt 99%. Với bậc phổ thông tỷ lệ học sinh 6 tuổi vào lớp 1, tốt nghiệp tiểu học vào THCS, tốt nghiệp THCS vào THPT hàng năm đều tăng. 99,99% học sinh 6 tuổi được vào lớp 1 (tăng 0,3 so với năm 1997), 85,2% học sinh khuyết tật được ra lớp hoà nhập (tăng 37,3% so với năm 1997). Đặc biệt, quy mô THPT tăng rất nhanh, 83% học sinh tốt nghiệp THCS được vào PTTH các loại hình (tăng 23% so với năm 1997). Đến năm 2002, quy mô THPT toàn tỉnh tăng gấp 2,8 lần so với năm học 1996-1997. Thực hiiện chỉ đạo của Bộ GD-ĐT, ngành đã tích cực chỉ đạo mở rộng việc học 2 buổi/ngày ở mầm non và tiểu học, mở rộng học ngoại ngữ, học hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Học sinh tiểu học được học 2 buổi/ngày tăng từ 5,1% năm 1997 lên 63,6% năm 2002. Tỷ lệ học sinh từ tiểu học đến PTTH được học ngoại ngữ tăng dần hàng năm. Đến năm 2002 học sinh từ lớp 3 tiểu học và 100% học sinh THCS và PTTH đã được học ngoại ngữ, 100% học sinh cuối cấp THCS, PTTH được học hướng nghiệp. Tuy nhiên quy mô phát triển của giáo dục Bắc Ninh còn bộc lộ một số hạn chế. Do mạng lưới trường lớp chưa đáp ứng được yêu cầu phân luồng học sinh sau THCS nên bậc THPT chịu nhiều sức ép về quy mô và phát triển quá tải so với điều kiện hiện có, ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục. THPT còn tồn tại nhiều loại hình, phức tạp cho công tác quản lí chỉ đạo. Tỷ lệ học sinh bán công trong các trường THPT còn quá lớn vượt xa quy định của Bộ (năm học 2001-2002, tỷ lệ học sinh bán công trong trường công lập chiếm 34,3%). Quy mô đào tạo nghề cho người lao động còn rất nhỏ và mất cân đối. Sau khi phân cấp quản lí công tác dạy nghề cho ngành lao động thương binh và xã hội, việc phối hợp giữa ngành giáo dục và ngành lao động thương binh xã hội trong lĩnh vực đào tạo bồi dưỡng nghề cho người lao động còn thiếu sự chỉ đạo, chưa thường xuyên, hiệu quả thấp. Do quy mô của các trung tâm GDTX còn nhỏ, thiếu thốn về cơ sở vật chất, hệ thống các trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục cộng đồng chưa hình thành rõ nét nên tỷ lệ người lao động được đào tạo, bồi dưỡng nghề còn rất ít (mỗi năm mới chỉ có khoảng 3.000 người lao động được bồi dưỡng chuyên đề qua các trung tâm GDTX – chiếm tỷ lệ 0,8% tổng số người lao động trong độ tuổi). Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp PTTH vào các trường nghề hàng năm mới đạt xấp xỉ 4%. Đây là một khó khăn cho việc đào tạo, bồi đưỡng nguồn nhân lực và nguồn công nhân có tay nghề cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước./.

Chu Văn Quý @ 00:10 09/03/2010 Số lượt xem: 292

Tính Năng Của Sản Phẩm Là Gì: Hô Biến Tính Năng Thành Lợi Ích Sản Phẩm ( Ví Dụ Thực Tế)

[gp-social]

Tính năng của sản phẩm là gì ? Lợi ích của sản phẩm là gì ?

Điều gì khiến khách hàng mua hàng. Tính năng hay … lợi ích ?

Rõ ràng … chúng khác nhau.

Nhưng hầu hết mọi người vô tình gán ghép tính năng là lợi ích sản phẩm. Chúng ta đang bán tính năng thay vì trao giá trị cho khách hàng của mình. Điều này khiến khách hàng không tìm thấy lý do tại sao phải mua sản phẩm đó từ bạn.

Tôi cũng từng như vậy.

Tôi liệt kê tất cả đặc tính sản phẩm. Dài bao nhiêu ? cao như nào ? cân nặng ra sao ? vật liệu gì ? thành phần cấu tạo nên sản phẩm ? .v.v.

Đó là sai lầm.

Bởi vì tất cả đã được in trên bao bì sản phẩm. Đừng tạo thêm sự tẻ nhạt cho khách hàng của bạn nữa. Họ không cần điều đó. Họ muốn biết sản phẩm của bạn có giải quyết được vấn đề của họ không ? Có làm họ hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn không ? Hoặc có giúp họ kiếm được nhiều tiền hơn không ?

Để trả lời câu hỏi: tính năng của sản phẩm là gì ? Làm thế nào chuyển đổi tính năng để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của khách hàng ?

Bạn hãy lẻn vào tâm trí khách hàng, chiếm lấy cảm xúc và hiện thực ước muốn của họ bằng cách biến tính năng thành lợi ích sản phẩm với câu hỏi “Thì sao nào” .

Sẵn sàng để bắt đầu ?

Hãy Nhớ Tính Năng Sản Phẩm Là Nhạt Nhẽo

Hãy tưởng tượng bạn là nhân viên điện máy. Trước mặt bạn là khách hàng cần tư vấn. Họ cần mua máy giặt. Nhưng trước đó họ không biết nhiều về nó.

Bạn sẽ nói gì với khách hàng ?

Bạn nói với khách hàng của bạn với giọng điệu đầy nhiệt huyết. Rằng đây là máy giặt cửa ngang và có lồng giặt bằng inox sản xuất tại Đức. Một hệ thống truyền động bằng bánh răng thế hệ mới. Một vỏ thép dày 3 mili được mạ sơn tĩnh điện 3 lớp. Tốc độ quay lên đến 2000 vòng/phút. Và được trang bị một màn hình cảm ứng hiển thị trực quan.

Khách hàng cảm thấy sao ?

Tẻ nhạt … đúng không ?

Điều đó xảy ra với tất cả mọi người. Cả bạn và tôi.

Trong cuộc trò chuyện trực tiếp. Bạn thuyết phục khách hàng bằng lời nói. Bạn nhoẻn miệng cười và nhún vai. Bạn vỗ về khách hàng bằng sự thông minh và hài hước của mình. .v.v. Tóm lại, ngôn ngữ hình thể được sử dụng tối đa.

Nhưng với văn bản viết, bạn không nhìn thấy phía bên kia chiến tuyến. Bạn không nhìn thấy khách hàng nuốt nước bọt hay nhăn mặt. Bạn không thấy họ cau mày hay ồ lên sung sướng. Bạn không thấy ánh mắt họ dáo dác nhìn xung quanh hay tập trung vào bạn. Bạn chỉ có thể sử dụng câu chữ để thu hút và làm hài lòng họ.

Vì vậy, bạn phải biến văn bản nhạt nhẽo thành nội dung sáng bóng và thực dụng. Bạn phải truyền đạt một hình ảnh mạnh mẽ. Và bạn phải biến các đặc tính trừu tượng của sản phẩm trở nên cụ thể trong trí tưởng tượng của khách hàng.

Tính cụ thể của sản phẩm minh chứng dựa trên khả năng cảm nhận bằng các giác quan cho dù không trực tiếp nhìn thấy sản phẩm.

Phải chăng đó là một nhiệm vụ quá sức ?

Không. Không khó như bạn nghĩ … nếu biết cách.

Bây giờ, phần quan trọng nhất của bài viết sẽ giúp bạn dụ dỗ và mê hoặc khách hàng bằng lợi ích sản phẩm. Hãy đọc lại mô tả sản phẩm của bạn và tự hỏi ” Thì sao nào “. Trả lời thành công câu hỏi đó có nghĩa là bạn không ngừng thu hút những con mắt tò mò của độc giả săm soi từng chữ trên văn bản của bạn. Bạn đang quyến rũ họ.

Tiếp tục nào …

Khách Hàng Quan Tâm Điều Gì Khi Mua Hàng ?

Tính năng và lợi ích sản phẩm khác nhau như thế nào ?

Tính năng sản phẩm là các đặc điểm lý tính. Mô tả về khối lượng, kích thước, màu sắc, vật liệu cấu thành lên sản phẩm.

Lợi ích sản phẩm là các đặc điểm cảm tính. Giúp cải thiện cuộc sống của khách hàng như: vui vẻ hơn, khỏe mạnh hơn, tiết kiệm tiền, kiếm được nhiều tiền hơn, … Lợi ích sản phẩm là lý do khiến khách hàng ra quyết định “xuống tiền” mua sản phẩm của bạn.

Bài viết bán hàng tốt phải kết hợp tính năng và lợi ích sản phẩm.

Đúng vậy.

Bởi vì khách hàng luôn tự hỏi: tại sao tôi phải mua sản phẩm này ? có lợi ích gì cho tôi không nếu tôi sở hữu nó ? sản phẩm này có giải quyết vấn đề tôi đang gặp phải không ? tôi có tiết kiệm được thời gian, tiền bạc nếu mua giải pháp này không? Tóm lại, khách hàng không quan tâm tính năng, thay vào đó là lợi ích sản phẩm.

Để hiểu rõ hơn chúng ta sẽ quay trở lại ví dụ trên.

Bạn đang là nhân viên bán hàng điện máy. Bạn muốn chuyển đổi tính năng thành lợi ích sản phẩm ?

Hãy hỏi ” Thì Sao Nào ? “

” Thì Sao Nào ” có thể hoạt động trong bất kỳ sản phẩm dịch vụ nào.

Một ví dụ tiếp theo về gói dịch vụ du lịch đảo Phú Quốc, kích cầu sau thời Covid-19.

Thật đơn giản, phải không ?

Bạn thấy đó, bất kỳ sản phẩm dịch vụ nào bạn đều có thể chuyển đổi từ tính năng thành lợi ích sản phẩm trong 1 nốt nhạc.

Bây giờ, quay lại bài viết bán hàng của bạn. Đặt câu hỏi “ Thì Sao Nào ? “ cho từng tính năng, bạn sẽ thu được lợi ích của sản phẩm đó.

Kết Nối Lợi Ích Sản Phẩm Với Nhu Cầu Của Khách Hàng Của Bạn

Bạn đã có tính năng sản phẩm ?

Bạn đã chuyển đổi từng tính năng đó thành lợi ích của sản phẩm ?

Nhưng … bạn vẫn không bán được hàng.

Vì sao ?

Vì đôi khi bạn bị mắc kẹt trong quá trình dịch chuyển từ tính năng thành lợi ích. Văn bản của bạn hời hợt. Những lợi ích thực sự chưa được đề cập. Bạn không kết nối được mong muốn sâu sắc nhất với khách hàng của bạn.

Vì vậy. Muốn bán hàng. Bạn cần kết nối từng lợi ích với nhu cầu cấp thiết của khách hàng tiềm năng.

Bạn cần tìm hiểu khách hàng của bạn cần gì ? những vấn đề nào họ gặp phải ? nỗi đau lớn nhất hiện tại của họ là gì ? họ đang mơ ước gì ? điều gì quan trọng nhất khiến họ mua hàng ? điều gì là trở ngại khiến họ phản đối mua sản phẩm của bạn ?

Nhưng tóm lại, tất cả câu hỏi đó đều nhằm mục đích tìm ra 5 nhu cầu cơ bản của khách hàng. Theo Maslow, nếu đáp ứng những nhu cầu này, bạn sẽ dễ dàng bán sản phẩm dịch vụ của mình.

Nhu cầu sinh lý

bao gồm sức khỏe, thức ăn nước uống, ngủ nghỉ, quần áo mặc, giải trí, nhu cầu đi lại.

Nhu cầu an toàn

về tính mạng và tài chính, bảo đảm sức khỏe và hạnh phúc của cá nhân

Nhu cầu xã hội

với các mối liên hệ tình bạn, sự thân mật, các mối liên kết trong gia đình.

Nhu cầu được tôn trọng

đó là lòng tự trọng, tự tin hoặc được công nhận địa vị trong xã hội.

Nhu cầu tự chủ

với mong muốn trở thành một người giỏi nhất. Tự chủ, tự do sáng tạo để thành công nhất trong lĩnh vực của họ.

Tất nhiên, không phải sản phẩm dịch vụ nào cũng đáp ứng tất cả 5 nhu cầu trên. Nhưng hãy chuyển đổi nhiều nhất có thể cho lợi ích sản phẩm của bạn.

Chúng ta hãy xem cách Macbook Pro của Apple đáp ứng các loại lợi ích khác nhau như thế nào ?

” Với bộ vi xử lý lõi tứ Intel Core i7 thế hệ thứ 10, MacBook Pro 13 inch sẵn sàng đảm nhận cả những nhiệm vụ khó khăn nhất. Vì vậy, khi bạn cung cấp năng lượng thông qua các công việc xử lý cấp độ như biên dịch mã, xếp nhiều bản nhạc trong một tác phẩm âm nhạc hoặc mã hóa video, bạn sẽ hoàn thành mọi việc nhanh hơn. Và lần đầu tiên, bạn có thể cấu hình 32GB bộ nhớ trên 13-inch MacBook Pro – lên đến 50 phần trăm nhanh hiệu suất khi bạn đang áp dụng sửa đổi để hình ảnh gigapixel trong Photoshop, khả năng để tải công cụ ảo hơn, và đáng kinh ngạc tính trôi chảy khi bạn đang chạy nhiều máy ảo. “

Tại sao nội dung này hoạt động hiệu quả ?

+ Macbook Pro đáp ứng nhu cầu tự chủ của khách hàng. Vì nó không chỉ đơn giản là nhanh và mạnh mẽ hơn mà ở đó khách hàng có khả năng tự chủ, tự do sáng tạo để tăng hiệu suất công việc lên đến 50%. Họ sẽ thành công hơn trong lĩnh vực của họ.

“Bộ xử lý Intel thế hệ thứ 10 có sẵn với đồ họa Iris Plus mới mạnh mẽ mang lại hiệu năng đồ họa nhanh hơn tới 80% so với thế hệ trước. Điều đó có nghĩa là chỉnh sửa video dễ dàng, kết xuất 3D nhanh hơn và chơi game mượt mà hơn.”

Tại sao nội dung này hoạt động hiệu quả ?

+ Bộ vi xử lý cùng hiệu năng đồ họa nhanh hơn 80% đáp ứng nhu cầu sinh lý ( giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng), giúp khách hàng có trải nghiệm chơi Game nhanh hơn và mượt mà hơn.

Bài viết bán hàng tốt sẽ trộn lẫn các nhu cầu và lợi ích khác nhau mà bản thân khách hàng không nhận ra nó. Vì vậy, là một nhà sáng tạo nội dung bạn cần khôn khéo chuyển đổi tính năng sản phẩm thành lợi ích khách hàng. Sau đó, ánh xạ lợi ích sản phẩm thành nhu cầu cá nhân của họ.

Hãy nhớ, bạn chỉ có thể bán lợi ích thực sự cho khách hàng nếu bạn biết những mong muốn và ước mơ thầm kín của họ.

Đúng vậy.

Là nhân viên bán hàng bạn sẽ tập trung trí lực vào doanh số được giao. Nhưng coi mình là người cố vấn cho khách hàng, bạn sẽ tập trung hoàn toàn vào lợi ích sản phẩm.

Lợi ích sản phẩm đáp ứng càng nhiều nhu cầu của khách hàng, bạn càng dễ dàng bán sản phẩm . Có nghĩa là doanh số của bạn sẽ tăng đúng kỳ vọng.

Do đó, bạn không cần sử dụng thủ đoạn để bán được nhiều hàng hơn. Bạn không cần các chiêu trò bẩn thỉu trái lương tâm để tăng doanh số. Và bạn không cần lạm dụng sự bồng bột nhất thời của khách hàng để dụ dỗ họ mua hàng.

Vì thế, một bài viết bán hàng tốt cần:

Đi sâu – len lỏi vào tâm trí khách hàng.

Hiểu – đáp ứng nhu cầu và mong muốn của họ.

Chứng minh – giải thích chi tiết cách bạn giải quyết vấn đề của họ.

Đó là cách bạn viết bài bán hàng chuyên nghiệp.

Share this:

Twitter

Facebook

More

LinkedIn

Reddit

Tumblr

Pinterest

Pin

Share

0

Shares

Kinh Doanh Là Gì? Đặc Điểm, Phân Loại, Ví Dụ Về Kinh Doanh?

54133

Kinh doanh là hoạt động kinh tế của cá nhân hoặc tổ chức nhằm mục đính thu lợi nhuận. Kinh doanh bao gồm nhiều lĩnh vưc như tài chính, thông tin, tin tức, giải trí, sản xuất công nghiệp, bán lẻ, phân phối, vận tải,…

Đặc điểm của kinh doanh

– Trao đổi hàng hóa và dịch vụ

– Giao dịch trong nhiều giao dịch

Trong kinh doanh, việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ là một hoạt động diễn ra thường xuyên. Một sản phẩm / dịch vụ trước khi đến tay người tiêu dùng có thể trải qua nhiều giao dịch khác nhau.

– Lợi nhuận là mục tiêu chính

Việc kinh doanh được thực hiện với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận chính là phần thưởng cho các dịch vụ của một doanh nhân.

– Kỹ năng kinh doanh để thành công

Bất cứ ai muốn trở thành một doanh nhân giỏi đều cần phải có những phẩm chất và kỹ năng kinh doanh tốt để có thể điều hành doanh nghiệp.

– Rủi ro và sự không chắc chắn

– Người mua và người bán

Mỗi giao dịch kinh doanh đều có tổi thiếu một bên mua và một bên bán.

– Kết nối với sản xuất

Hoạt động kinh doanh có thể được kết nối với sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ. Trong trường hợp này, nó được gọi là hoạt động công nghiệp. Các ngành công nghiệp có thể là chính hoặc phụ.

– Tiếp thị và phân phối hàng hóa

– Ưu đãi về hàng hóa và dịch vụ

Trong kinh doanh phải có giao dịch về hàng hóa và dịch vụ. Hàng hóa có thể chia thành 2 loại sau:

Hàng tiêu dùng: Hàng hóa được sử dụng bởi người tiêu dùng cuối cùng để tiêu dùng được gọi là hàng tiêu dùng, ví dụ TV, Xà phòng, v.v.

Hàng hóa sản xuất: Hàng hóa được sử dụng bởi nhà sản xuất để sản xuất ra hàng hóa khác như máy móc, thiết bị, vv

– Đáp ứng mong muốn cảu con người

Doanh nhân là người đáp ứng mong muốn thỏa mãn mong muốn của con người thông qua việc tiến hành kinh doanh. Bằng cách sản xuất và cung cấp các mặt hàng khác nhau, các doanh nhân cố gắng thúc đẩy sự hài lòng của người tiêu dùng.

– Nghĩa vụ xã hội

Doanh nhân hiện đại có ý thức về trách nhiệm xã hội của họ. Kinh doanh ngày nay là định hướng dịch vụ hơn là định hướng lợi nhuận.

Các loại hình tổ chức kinh doanh cơ bản

Có nhiều loại hình kinh doanh khác nhau, nhưng có ba loại chính đó là

Có những lĩnh vực kinh doanh nào? (Phân loại ngành kinh doanh)

– Kinh doanh tài chính:

Bao gồm các chủ thể nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, hộ gia đình, cá nhân… đóng góp quỹ tiền tệ vào Ngân sách nhà nước, Bảo hiểm, Tín dụng thông qua hình thức phân phối tổng sản phẩm xã hội sử dụng theo mục đích nhất định từ việc đầu tư và quản lý nguồn vốn nhằm thu lợi nhuận.

– Thông tin, tin tức, giải trí:

Phương thức truyền thông đưa những thông tin, hình ảnh tới quần chúng bao gồm các quyền sở hữu trí tuệ, nhà sản xuất, xưởng phim…

– Kinh doanh bất động sản:

Là sàn giao dịch của các nhà kinh doanh với các dự án lớn nhỏ mục đích thu lợi từ việc cho thuê, bán nhà đất và các mục hạ tầng.

– Sản xuất công nghiệp:

Công nghiệp là một ngành kinh tế hoạt động với quy mô lớn sản xuất hàng hóa vật chất chế biến, chế tạo công nghệ thúc đẩy mạnh mẽ áp dụng khoa học kỹ thuật sản xuất trên dây truyền đa dạng mặt hàng gồm các phần mềm, máy móc, động cơ…. sau đó bán ra đem lại doanh thu.

– Nông lâm ngư nghiệp:

Đây là hệ thống liên kết vòng tròn mô hình Nông nghiệp -Lâm nghiệp – Ngư nghiệp cùng phát triển hỗ trợ tương tác trong các nông trường, trang trại, nông trại, ruộng lương… mô hình này thu lợi từ việc cung cấp lương thực, thực phẩm, cây trồng tới người tiêu thụ.

Có nhiệm vụ lưu thông, sản xuất thực hiện vận chuyển người và hàng hóa từ nơi này đến nơi khác như vận tải đường bộ, vận tải hàng không, vận tải đường thủy và thu lợi nhuận từ phí vận chuyển.

– Bán lẻ & phân phối:

Dịch vụ này là một trung gian cung cấp hàng hóa từ nơi sản xuất tới người tiêu dùng. Hiện nay dịch vụ rất chi là phổ biến, có vô vàn công ty, doanh nghiệp, tư nhân thành lập nâng cao chất lượng chăm sóc khách hàng tốt nhất, đáp ứng mọi yêu cầu từ khách hàng.

– Kinh doanh dịch vụ

– …

Cung cấp các dịch vụ và hàng hóa vô hình, thu lợi bằng cách tính giá sức lao động hoặc các dịch vụ đã cung cấp cho chính phủ, các lĩnh vực kinh doanh khác hoặc khách hàng như trang trí nội thất, làm đẹp, tạo mẫu tóc, trang điểm, thẩm mỹ, giặt là, kiểm soát dịch bệnh, côn trùng..

Ví dụ về kinh doanh

Kinh doanh vận tải đường thủy; Kinh doanh dịch vụ cầm đồ; Sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu xe ô tô; Kinh doanh dịch vụ bưu chính; Kinh doanh thức ăn thuỷ sản; thức ăn chăn nuôi; Kinh doanh dịch vụ xử lý vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật; Kinh doanh phân bón; Kinh doanh dịch vụ phẫu thuật thẩm mỹ; Kinh doanh dịch vụ kiểm định trang thiết bị y tế; Kinh doanh dịch vụ karaoke, vũ trường; Kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu; Kinh doanh vàng; Kinh doanh dược; Kinh doanh bất động sản; Xuất khẩu gạo; Đại lý bảo hiểm,…

Ví dụ về kinh doanh hộ gia đình

Ví dụ 1: Gia đình em một năm sản xuất được 2 tấn thóc, số thóc để ăn và để giống là 1 tấn, số thóc còn lại để bán. Vậy số thóc bán ra thị trường là: 2 tấn – 1 tấn = 1 tấn

Ví dụ 2: Chị B chăn nuôi gia cầm và lợn thịt. Mỗi năm chị cho xuất chuồng 500kg lợn, 100kg gia cầm. Giá bán dao động trong khoảng 20 đến 25 ngàn đồng/1kg lợn và 30 đến 35 ngàn đồng/1kg gia cầm.

Ví dụ 3: Anh T ở vùng trung du Bắc Bộ, anh trồng chè. Mỗi năm thu hoạch 2000kg chè các loại, anh bán 90% ra thị trường, 10% để lại chế biến gia công dùng cho gia đình.

Các hình thức sở hữu doanh nghiệp

– Doanh nghiệp tư nhân

Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.

– Công ty trách nhiệm hữu hạn

Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân được pháp luật thừa nhận ( Luật Doanh nghiệp). Chủ sở hữu công ty và công ty là hai thực thể pháp lý riêng biệt. Trước pháp luật, công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, chủ sở hữu công ty là thể nhân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng với quyền sở hữu công ty.

Công ty trách nhiệm hữu hạn có không quá 50 thành viên cùng góp vốn thành lập và công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác trong phạm vi nghĩa vụ tài sản của công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.

– Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hình thức đặc biệt của công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu; chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp.

– Công ty cổ phần

Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, ngưòi sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.

Công ty hợp danh được pháp luật ghi nhận là một hình thức của công ty đối nhân, trong đó có ít nhất 2 thành viên (đều là cá nhân và là thương nhân) cung tiến hành hoạt động thương mại (theo nghĩa rộng) dưới một hãng chung (hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty.

Chức Năng Của Tiền Tệ, Ví Dụ Cụ Thể?

Tiền là thứ dùng để trao đổi lấy hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn bản thân và mang tính dễ thu nhận (nghĩa là mọi người đều sẵn sàng chấp nhận sử dụng). Tiền là một chuẩn mực chung để có thể so sánh giá trị của các hàng hóa và dịch vụ. Thông qua việc chứng thực các giá trị này dưới dạng của một vật cụ thể (thí dụ như tiền giấy hay tiền kim loại) hay dưới dạng văn bản (dữ liệu được ghi nhớ của một tài khoản) mà hình thành một phương tiện thanh toán được một cộng đồng công nhận trong một vùng phổ biến nhất định. Một phương tiện thanh toán trên nguyên tắc là dùng để trả nợ. Khi là một phương tiện thanh toán tiền là phương tiện trao đổi chuyển tiếp vì hàng hóa hay dịch vụ không thể trao đổi trực tiếp cho nhau được.

Người ta cũng có thể nhìn tiền như là vật môi giới, biến việc trao đổi trực tiếp hàng hóa và dịch vụ, thường là một trao đổi phải mất nhiều công sức tìm kiếm, thành một sự trao đổi có 2 bậc.

Tiền thường được nghiên cứu trong các lý thuyết về kinh tế quốc dân nhưng cũng được nghiên cứu trong triết học và xã hội học Định nghĩa

Tiền ra đời từ nhu cầu kinh tế thực tế của loài người khi mà nền sản xuất đạt đến một trình độ nhất định và con người đã có thể tự do đi lại trong một phạm vi lãnh thổ tương rộng lớn. Khi đó, thay vì phải chuẩn bị hành lý cồng kềnh cho chuyến đi dài ngày, con người chỉ cần mang theo một lượng nhỏ kim loại quý hoặc tiền được ưa chuộng ở nhiều nơi để đổi cho mình những nhu yếu phẩm cần thiết. Từ đó các hoạt động thương mại đã ra đời, tiền tệ được quy ước và ban hành, quản lý bởi nhà nước. Đổi lại, nhà nước có quyền thu thuế thừ các hoạt động thương mại. Nói một cách chặt chẽ thì tiền chỉ là những gì mà luật pháp bắt buộc phải công nhận là một phương tiện thanh toán. Trong kinh tế học, có một số khái niệm về tiền.

* Tiền mặt: là tiền dưới dạng tiền giấy và tiền kim loại. * Tiền gửi: là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng thương mại nhằm mục đích phục vụ các thanh toán không dùng tiền mặt. Chúng có thể dẽ dàng chuyển thành tiền mặt. * Chuẩn tệ: là những tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền, chẳng hạn như trái phiếu, kỳ phiéu, hối phiếu, tiền tiết kiệm, ngoại tệ.