Top 13 # Ví Dụ Về Chức Năng Thực Hiện Của Thị Trường Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Thị Trường Là Gì? Các Chức Năng Của Thị Trường? Nêu Một Ví Dụ Về Bản Thân Em Vận Dụng Chức Năng Của Thị Trường

​ Câu 1Thị trường là gì?– Thị trường (trong kinh tế học và kinh doanh) là nơi người mua và người bán (hay người có nhu cầu và người cung cấp) tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ.

Khái Quát Cụ Thể:+ Thị trường là nơi chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ hoặc tiền tệ, nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và cầu về một loại sản phẩm nhất định theo các thông lệ hiện hành, từ đó xác định rõ số lượng và giá cả cần thiết của sản phẩm, dịch vụ. Thực chất, Thị trường là tổng thể các khách hàng tiềm năng cùng có một yêu cầu cụ thể nhưng chưa được đáp ứng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu đó.Theo marketing, thị trường bao gồm tất cả khách hàng hiện có và tiềm năng có cùng một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, có khả năng và sẵn sàng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu hoặc mong muốn đó.+ Thị trường là một tập hợp những người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau, dẫn đến khả năng trao đổi.+ Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán một thứ hàng hóa nhất định nào đó. Với nghĩa này, có thị trường gạo, thị trường cà phê, thị trường chứng khoán, thị trường vốn, v.v… Cũng có một nghĩa hẹp khác của thị trường là một nơi nhất định nào đó, tại đó diễn ra các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ. Với nghĩa này, có thị trường Hà Nội, thị trường miền Trung.+ Trong kinh tế học, thị trường được hiểu rộng hơn, là nơi có các quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa vô số những người bán và người mua có quan hệ cạnh tranh với nhau, bất kể là ở địa điểm nào, thời gian nào. Thị trường trong kinh tế học được chia thành ba loại: thị trường hàng hóa – dịch vụ (còn gọi là thị trường sản lượng), thị trường lao động, và thị trường tiền tệ.

Chức năng của thị trường:

Chức năng thực hiện:Hoạt động mua bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm cả thị trường. Thực hiện hoạt động này là cơ sở quan trọng có tính chất quyết định đối với việc thực hiện các quan hệ và hoạt động khác.Thị trường thực hiện : hành vi trao đổi hàng hoá ; thực hiện tổng số cung và cầu trên thị trường ; thực hiện cân bằng cung cầu từng thứ hàng hoá ; thực hiện giá trị ( thông qua giá cả ); thực hiện việc trao đổi giá trị …Thông qua chức năng của mình. Giá trị trao đổi là cơ sở vô cùng quan trọng để hình thành nên cơ cấu sản phẩm, các quan hệ tỷ lệ về kinh tế trên thị trường.

Chức năng thừa nhận:Hàng hoá được sản xuất ra, người sản xuất phải bán nó. Việc bán hàng được thực hiện thông qua chức năng thừa nhận của thị trường. Thị trường thừa nhận chính là người mua chấp nhận thì cũng có nghĩa là về cơ bản quá trình tái sản xuất xã hội của hàng hoá đã hoàn thành. Bởi vì bản thân việc tiêu dùng sản phẩm và các chi phí tiêu dùng cũng đã khẳng định trên thị trường khi hàng hoá được bán.Thị trường thừa nhận : tổng khối lượng hàng hoá ( tổng giá trị sử dụng ) đưa ra thị trường ; cơ cấu của cung và cầu, quan hệ cung cầu với từng hàng hoá ; thừa nhận giá thị sử dụng và giá cả hàng hoá, chuyển giá trị sử dụng và giá trị cá biệt thành giá trị sử dụng và giá trị xã hội ; thừa nhận các hoạt động mua và bán vv…Thị trường không phải chỉ thừa nhận thụ động các kết quả của quá trình tái sản xuất , quá trình mua bán mà thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế trên thị trường mà thị trường còn kiểm tra, kiểm nghiệm quá trình tái sản xuất quá trình mua bán đó.

Chức năng điều tiết, kích thích:Nhu cầu thị trường là mục đích của quá trình sản xuất . Thị trường là tập hợp các hoạt động của các quy luật kinh tế cả thị trường. Do đó, thị trường vừa là mục tiêu vừa tạo động lực để thực hiện các mục tiêu đó. Đó là cơ sở quan trọng để chức năng điều tiết và kích thích của thị trường phát huy vai trò của mình.Chức năng điều tiết và kích thích thể hiện ở chỗ:Thông qua nhu cầu thị trường, người sản xuất chủ động di chuyển tư liệu sản xuất, vốn và lao động từ ngành này qua ngành khác từ sản phẩm này sang sản phẩm khác để có lợi nhuận cao.Thông qua các hoạt động của các quy luật kinh tế của thị trường, người sản xuất có lợi thế trong cạnh tranh sẽ tận dụng khả năng của mình để phát triển sản xuất ngược lại những người sản xuất chưa tạo ra được lợi thế trên thị trường cũng phải vươn lên để thoát khỏi nguy cơ phá sản. Đó là những động lực mà thị trường tạo ra đối với sản xuất.Thông qua sự hoạt dộng của các quy luật kinh tế trên thị trường người tiêu dùng buộc phải cân nhắc, tính toán quá trình tiêu dùng của mình. Do đó thị trường có vai trò to lớn đối với việc hướng dẫn tiêu dùng.Trong quá trình tái sản xuất, không phải người sản xuất, lưu thông… chỉ ra cách chi phí như thế nào cũng được xã hội thừa nhận. Thị trường chỉ thừa nhận ở mức thấp hơn hoặc bằng mức xã hội cần thiết ( trung bình). Do đó thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với kích thích tiết kiệm chi phí, tiết kiệm lao động.

Chức năng thông tin:Trong tất cả các khâu ( các giai đoạn ) của quá trình tái sản xuất hàng hoá, chỉ có thị trường mới có chức năng thông tin.Trên thị trường có nhiều mối quan hệ : kinh tế, chíng trị, xã hội chúng tôi thông tin kinh tế là quan trọng nhất.Thị trường thông tin về : tổng số cung và tổng số cầu ; cơ cấu của cung và cầu ; quan hệ cung cầu đối với từng loại hàng hoá ; giá cả thị trường ; các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường, đến mua và bán, chất lượng sản phẩm, hướng vận động của hàng hoá; các điều kiện dịch vụ cho mua và bán hàng hoá, các quan hệ tỷ lệ về sản phẩm vv…Thông tin thị trường có vai trò quan trọng đối với quản lý kinh tế .Trong quản lý kinh tế, một trong những nội dung quan trọng nhất là ra quyết định .Ra quyết định cần có thông tin.Các dữ liệu thông tin quan trọng nhất là thông tin từ thị trường. Bởi vì các dữ kiện đó khách quan , được xã hội thừa nhận.Bốn chức năng của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi hiện tượng kinh tế diễn ra trên thị trường đều thể hiện bốn chức năng này. Vì là những tác dụng vốn có bắt nguồn tư bản chất thị trường, do đó không nên đặt vấn đề chức năng nào quan trọng nhất hoặc chức năng nào quan trọng hơn chức năng nào. Song cũng cần thấy rằng chỉ khi chức năng thừa nhận được thực hiện thì các chức năng khác mới phát huy tác dụng.Một trong những bí quyết quan trọng nhất để thành công trong kinh doanh là sự hiểu biết cặn kẽ tính chất của thị trường. Nhận biết được đặc điểm và sự hoạt động của từng loại thị trường, các yếu tố tham gia vào hoạt động của thị trường, từ đó thấy rõ đặc điểm hình thành và vận động của giá cả thị trường do đó cần phải nghiên cứu, phân loại các hình thái thị trường.

Câu 2Quy luật giá trị là gì?– Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.– Yêu cầu của quy luật giá trị:+ Theo quy luật này, sản xuất hàng hóa được thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần thiết, nghĩa là cần tiết kiệm lao động (cả lao động quá khứ và lao động sống) nhằm: đối với một hàng hóa thì giá trị của nó phải nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, tức là giá cả thị trường của hàng hóa+ Trong trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm bảo bù đắp được chi phí chí người sản xuất (tất nhiên chi phí đó phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết, chứ không phải bất kỳ chi phí cá biệt nào) và đảm bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng.– Sự tác động, hay biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị.Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung – cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó hình là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.

Tác động của quy luật giá trị:

– Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác lộng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung – cầu.* Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi, bán chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung; ngược lại cầu giảm vì giá tăng.* Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết định ngừng hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung tăng.* Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người ta thường gọi là “bão hòa”.Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng thường xuyên biến động liên tục.Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển sức lao động và tư liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.– Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.– Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người nghèo.Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.

Câu 4Cung, cầu là gì?– Cầu là nhu cầu có khả năng thanh toán, là số lượng hàng hóa, dịch vụ mà người mua muốn mua và sẵn sàng mua tại những mức giá khác nhau vào những thời điểm nhất định. Quy mô của cầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thu nhập, sức mua của đồng tiền, thị hiếu người tiêu dùng… trong đó giá cả là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.– Cung là tổng số hàng hóa ở thị trường hoặc có khả năng thực tế cung cấp cho thị trường, là số hàng hóa, dịch vụ mà người bán muốn bán và sẵn sàng bán ở những mức giá khác nhau vào những thời điểm nhất định. Quy mô cung thuộc vào các yếu tố như lượng, chất lượng các yếu tố sản xuất… trong đó, cũng như cầu, giá cả có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Mối quan hệ cung cầu:Cung và cầu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trên thị trường. Cầu xác định khối lượng, cơ cấu của cung về hàng hóa: Hàng hóa nào có cầu thì mới được cung ứng sản xuất, hàng hóa nào tiêu thụ được nhiều (cầu lớn) thì sẽ được cung ứng nhiều và ngược lại. Đối với cung thì cung cũng tác động, kích thích cầu: Những hàng hóa được sản xuất phù hợp với nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng sẽ được ưa thích, bán chạy hơn, làm cho cầu của chúng tăng lên.Không chỉ ảnh hưởng lẫn nhau, cung – cầu còn ảnh hưởng tới giá cả. Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị. Còn khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị. Giá cả cũng tác động tới cung và cầu, điều tiết làm cung, cầu trở về xu hướng cân bằng lẫn nhau.

5 Ví Dụ Về Lựa Chọn Thị Trường Mục Tiêu Cho Doanh Nghiệp

Thị trường mục tiêu là bộ phận thị trường phù hợp nhất với đặc điểm và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp, là bộ phận thị trường đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho nhà kinh doanh. Để xác định được thị trường mục tiêu, trước tiên doanh nghiệp cần phải phân đoạn thị trường. Vì vậy, bạn cần biết một số khái niệm cơ bản sau:

*Khái niệm phân đoạn thị trường

Phân đoạn thị trường là việc phân chia thị trường thành các bộ phận khác nhau, căn cứ vào kỹ thuật và tiêu thức phân đoạn nhất định (ví dụ phân đoạn theo yếu tố dân cư: tuổi tác, giới tính, thu nhập,…), sao cho cùng một đoạn thị trường khách hàng có cùng một đặc điểm tiêu dùng như nhau đối với sản phẩm.

Ví dụ phân đoạn theo tiêu thức nhân khẩu học, cụ thể ở đây là thu nhập: thị trường thường có 3 đoạn: thu nhập cao, thu nhập trung bình và thu nhập thấp.

*Khái niệm thị trường mục tiêu

Thị trường mục tiêu là tập hợp những khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp. Đang có nhu cầu hoặc sẽ có nhu cầu trong tương lai. Nhiệm vụ của các nhà làm marketing là thu hút sự chú ý của các đối tượng ở thị trường này.

Tiếp theo ví dụ trên: Chắc chắn rằng nhiều DN không thể phục vụ toàn bộ thị trường. Nếu họ có thế mạnh trong đoạn thu nhập thấp hơn là đoạn thị trường trung cấp và cao cấp … thì thị trường mục tiêu “rất có thể” là khách hàng thu nhập thấp, có nhu cầu về sản phẩm dịch vụ và có khả năng thanh toán.

Rất có thể ở đây là do để phân đoạn thị trường cần rất nhiều yếu tố: mức độ hấp dẫn của thị trường, quy mô và sự tăng trưởng rồi mới đến mục tiêu và khả năng của doanh nghiệp.

Đánh giá được mức độ hấp dẫn của từng thị trường (Bao gồm quy mô, sự phát triển, khách hàng mục tiêu, insight…, mức độ cạnh tranh)

Nắm rõ mục tiêu, mục đích của doanh nghiệp

BIết rõ khả năng (nguồn lực, điểm mạnh yếu của DN)

Doanh nghiệp nên quyết định lựa chọn thị trường mục tiêu. Có 5 nguyên tắc chính (mô hình chính) trong việc lựa chọn thị trường mục tiêu;

#1: Chọn đoạn thị trường ít cạnh tranh nhất để kinh doanh một sản phẩm thuận lợi nhất

Sau khi phân đoạn thị trường, doanh nghiệp chọn thị trường cạnh tranh thấp nhất và xâm nhập vào đó với một sản phẩm có lợi nhất.

Thị trường ít cạnh tranh là những đoạn thị trường mà các đối thủ mạnh đã bỏ qua hoặc chưa có đối thủ. Bạn sẽ hưởng lợi thế là người tiên phong trong lĩnh vực, nắm đầu xu hướng xu thế.

Sản phẩm có lợi nhất là sản phẩm có lợi nhất cho khách hàng và cho cả doanh nghiệp ứng với thị trường đó.

Chiến lược kinh doanh của tập đoàn Viettel bắt đầu với những sản phẩm/dịch vụ viễn thông giá rẻ dành cho người thu nhập thấp. Một phân khúc thị trường ít cạnh tranh và có tiềm năng. Thực tế đã chứng minh ví dụ về lựa chọn thị trường mục tiêu ban đầu này là hoàn toàn chính xác.

Tại thị trường Việt Nam, Campuchia và các nước Đông Phi, Viettel đều giành thắng lợi lớn nhờ đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng viễn thông đến tận các vùng sâu, vùng xa- những nơi chưa được phủ sóng điện thoại, tấn công vào nhóm đối tượng còn lạ lẫm với việc sử dụng điện thoại di động nhưng lại có tiềm năng lớn trong tương lai- ngách thị trường mà đối thủ còn bỏ ngỏ.

Thành công của Viettel đã chứng minh rằng việc lựa chọn một phân khúc thị trường ít cạnh tranh với những ý tưởng kinh doanh táo bạo, kích thích nhu cầu của nhóm đối tượng ở thị trường đó là nguyên tắc tối ưu để thành công trong kinh doanh.

Nguyên tắc này cũng đặc biệt thích hợp với các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh mới bắt đầu tấn công vào thị trường.

Các startup nếu không phải có một nền tảng tài chính, sản phẩm cực kỳ vững chắc thì việc lựa chọn một thị trường ít cạnh tranh để kinh doanh một sản phẩm dễ bán là một quyết định khôn ngoan.

Ví dụ về startup thiết kế website Bất động sản ZLand:

Thiết kế website là một ngành gần như đã bão hòa với vô vàn các doanh nghiệp lớn nhỏ, cá nhân kinh doanh. Một số thương hiệu lớn như Haravan, Bigweb…là những đối thủ kỳ cựu. Tuy nhiên các đơn vị này thường tập trung vào ngành website bán hàng và tối ưu các tính năng, bố cục website cho nhà hàng, khách sạn, shop online…nhiều hơn.

Một thị trường nóng hổi còn đang bỏ ngỏ là thiết kế website Bất động sản. Ngành này có tiềm năng vô cùng lớn với tệp khách hàng đồ sộ, hơn 600.000 môi giới Bất động sản trên cả nước và số lượng còn tăng lên theo mỗi năm. Website cho ngành BĐS cần có nhiều tính năng chuyên biệt mà website bán hàng bình thường sẽ không đáp ứng được.

Trước tình hình đó, công ty thiết kế website BĐS ZLand đã được thành lập – tấn công vào thị trường ngách chuyên thiết kế website cho ngành Bất động sản.

Khi chưa đủ kinh nghiệm, tài chính và danh tiếng thì việc lựa chọn một sản phẩm thuận lợi để kinh doanh trên một thị trường ít cạnh tranh là sự lựa chọn hợp lý nhất.

Ví dụ về lựa chọn thị trường mục tiêu của một nhà hàng ăn gần trường Đại học Thương Mại:

Khu vực có nhiêu sinh viên và người dân sinh sống: nhu cầu về ăn uống cao

Ít có quán cơm bình dân, chủ yếu là quán lẩu, quán trà sữa, quán phục vụ đồ uống, có quán cơm nhưng giá khá cao.

Việc đánh giá đúng tiềm lực bản thân và tiềm năng thị trường đã giúp đơn vị kinh doanh này gặt hái được thành công lớn với hệ thống 3 cửa hàng kinh doanh phát đạt.

Tuy nhiên, việc lựa chọn thị trường này cũng có nhiều yếu điểm: (1) vì chỉ kinh doanh trên một đoạn thị trường nhất định nên doanh nghiệp khó mở rộng quy mô, (2) Nếu diễn ra biến động thị trường hoặc có đối thủ cạnh tranh mạnh hơn xâm nhập bạn sẽ chịu tổn thất lớn. Lời khuyên ở đây là hãy dùng mô hình phân đoạn này để làm “bàn đạp” mở rộng quy mô và phụ vụ nhu cầu đa dạng của thị trường trong giai đoạn tiếp theo.

# 2: Chuyên môn hóa theo thế mạnh, tiềm năng của doanh nghiệp

Việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu rõ chính mình, về những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức mà công ty đang phải đối diện. Mô hình phân tích SWOT là một công cụ rất hiệu quả để thực hiện công việc này.

Tiền thân của công ty sữa Vinamilk là xí nghiệp Liên hiệp Sữa – Cà phê- Bánh kẹo – một đơn vị quốc doanh được thành lập từ những năm 1976, sản xuất đa dạng các loại thực phẩm khô, sữa.

Khi Chính phủ mở cửa nền kinh tế, xác định thế mạnh của doanh nghiệp và tiềm năng của thị trường, năm 1992, Công ty Vinamilk Việt Nam chính thức được thành lập chuyên sản xuất sữa và các sản phẩm từ sữa.

Sau hơn 20 năm thành lập, hiện nay Vinamilk đã là doanh nghiệp chiếm thị phần lớn nhất trong thị trường sữa của Việt Nam. Với 14 nhà máy sản xuất trên cả nước và hệ thống phân phối rộng khắp 63 tỉnh thành, quyết định chuyên môn hóa theo thế mạnh của Vinamilk là ví dụ về lựa chọn thị trường mục tiêu thành công nhất.

Nếu vẫn đi theo định hướng kinh doanh cũ từ thời bao cấp, sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Vinamilk sẽ phải đối diện với nhiều thị trường có những đối thủ cạnh tranh kỳ cựu trong lĩnh vực cà phê, bánh kẹo mà không thể tập trung hết các nguồn lực để phát triển thế mạnh của mình.

Việc mạnh dạn từ bỏ những ngành không am hiểu để dốc toàn lực vào phát triển thế mạnh, trở thành người dẫn đầu trong lĩnh vực là một quyết định khôn ngoan.

(*) So với mô hình 1, mô hình 2 sẽ hạn chế rủi ro hơn nếu thị trường có sự biến động lớn hoặc cạnh tranh gay gắt. Vì nếu đoạn thị trường này gặp khó khăn bạn còn có phương án thay thế ở đoạn thị trường khác. Tuy nhiên, bạn cần có nhiều nguồn lực và tài chính hơn.

# 3: Ví dụ về lựa chọn thị trường mục tiêu chuyên môn hóa theo sản phẩm

Doanh nghiệp sẽ lựa chọn sản phẩm phổ biến và cung cấp cho tất cả các phân đoạn thị trường. Nguyên tắc này sẽ phù hợp với những sản phẩm có khả năng đáp ứng nhu cầu của tất cả đối tượng người dùng có nhiều đặc điểm khác nhau.

Các doanh nghiệp cung cấp mạng internet cho tất cả các đối tượng khách hàng. Người già người trẻ, nam hay nữ, thu nhập thấp hay cao, chỉ cần có nhu cầu sử dụng mạng internet thì đều có thể trở thành khách hàng của doanh nghiệp.

(*) Đây là một ví dụ rất điển hình cho những sản phẩm có thể phục vụ đại đa số người tiêu dùng. Tuy nhiên, với nhiều thị trường thì lựa chọn này khá rủi ro:

Vì mỗi đoạn thị trường lại có những nhu cầu khá khác biệt nhau: cố tối ưu hóa chỉ một sản phẩm cho tất cả các đoạn có vẻ là một lựa chọn cần nỗ lực cao.

Thứ hai, cạnh tranh: Bạn có chắc rằng tính năng của mình là tốt nhất ưu thế vượt trội hơn hẳn những lựa chọn khác. Hãy cân nhắc với mô hình phân đoạn này.

#4: Chuyên môn hóa theo phân đoạn thị trường

Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ làm đẹp cho các bà mẹ bỉm sữa. Sau đó lựa chọn thị trường tại Hà Nội làm thị trường mục tiêu. Từ đó phát triển thêm tất cả các dịch vụ như: giảm mỡ bụng, giảm béo, căng da, chữa rạn da, làm trắng da an toàn… cung cấp dầu gội cho bé, chăn, nệm, giường ngủ … tất cả sản phẩm chỉ phục vụ cho đoạn thị trường này.

(*) Phân đoạn thị trường và lựa chọn theo mô hình chuyên môn hóa thị trường đòi hỏi đoạn thị trường doanh nghiệp chọn phải có sức mua tốt, khả năng chi trả cao hoặc khối lượng tiêu dùng lớn (có cả triệu phụ nữ đang mang thai và có nhu cầu làm đẹp, chăm sóc..).

Thêm một ví dụ các dịch vụ bất động sản du lịch: Đối với đoạn khách hàng cá nhân, khách hàng trung cấp họ sẽ không có nhiều lựa chọn – đa số khách hàng đều ở trong khách sạn và chọn những phòng có giá khác nhau phù hợp với túi tiền.

Còn đối với đoạn cao cấp: có khá nhiều biến thể để phục vụ khách hàng vip: chỉ riêng nơi ở đã gồm: nhà vườn, villa, căn hộ cao cấp hướng biển, biệt thự, resort… tất cả những biến thể của sản phẩm đều hướng tới phụ vụ một đoạn thị trường.

# 5: Ví dụ về lựa chọn thị trường mục tiêu bằng việc phủ sóng toàn bộ thị trường

Việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải có nguồn lực về tài chính, nhân sự, sản phẩm/dịch vụ, hệ thống phân phối vững chắc thì mới có thể thực hiện.

Một ví dụ rất điển hình:

Tập đoàn Vingroup tiền thân là công ty Technocom chuyên sản xuất mỳ gói tại Ukraina, đến nay thương hiệu Vingroup đã quá quen thuộc với người dân Việt Nam qua hệ thống nhà ở hạng sang Vinhomes, trường học Vinschool, bệnh viện Vinmec, siêu thị Vinmart, xe điện VinFast….

Chức Năng Của Tiền Tệ, Ví Dụ Cụ Thể?

Tiền là thứ dùng để trao đổi lấy hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn bản thân và mang tính dễ thu nhận (nghĩa là mọi người đều sẵn sàng chấp nhận sử dụng). Tiền là một chuẩn mực chung để có thể so sánh giá trị của các hàng hóa và dịch vụ. Thông qua việc chứng thực các giá trị này dưới dạng của một vật cụ thể (thí dụ như tiền giấy hay tiền kim loại) hay dưới dạng văn bản (dữ liệu được ghi nhớ của một tài khoản) mà hình thành một phương tiện thanh toán được một cộng đồng công nhận trong một vùng phổ biến nhất định. Một phương tiện thanh toán trên nguyên tắc là dùng để trả nợ. Khi là một phương tiện thanh toán tiền là phương tiện trao đổi chuyển tiếp vì hàng hóa hay dịch vụ không thể trao đổi trực tiếp cho nhau được.

Người ta cũng có thể nhìn tiền như là vật môi giới, biến việc trao đổi trực tiếp hàng hóa và dịch vụ, thường là một trao đổi phải mất nhiều công sức tìm kiếm, thành một sự trao đổi có 2 bậc.

Tiền thường được nghiên cứu trong các lý thuyết về kinh tế quốc dân nhưng cũng được nghiên cứu trong triết học và xã hội học Định nghĩa

Tiền ra đời từ nhu cầu kinh tế thực tế của loài người khi mà nền sản xuất đạt đến một trình độ nhất định và con người đã có thể tự do đi lại trong một phạm vi lãnh thổ tương rộng lớn. Khi đó, thay vì phải chuẩn bị hành lý cồng kềnh cho chuyến đi dài ngày, con người chỉ cần mang theo một lượng nhỏ kim loại quý hoặc tiền được ưa chuộng ở nhiều nơi để đổi cho mình những nhu yếu phẩm cần thiết. Từ đó các hoạt động thương mại đã ra đời, tiền tệ được quy ước và ban hành, quản lý bởi nhà nước. Đổi lại, nhà nước có quyền thu thuế thừ các hoạt động thương mại. Nói một cách chặt chẽ thì tiền chỉ là những gì mà luật pháp bắt buộc phải công nhận là một phương tiện thanh toán. Trong kinh tế học, có một số khái niệm về tiền.

* Tiền mặt: là tiền dưới dạng tiền giấy và tiền kim loại. * Tiền gửi: là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng thương mại nhằm mục đích phục vụ các thanh toán không dùng tiền mặt. Chúng có thể dẽ dàng chuyển thành tiền mặt. * Chuẩn tệ: là những tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền, chẳng hạn như trái phiếu, kỳ phiéu, hối phiếu, tiền tiết kiệm, ngoại tệ.

Ví Dụ Về Thực Phẩm Chức Năng Và Dinh Dưỡng Dược Có Bằng Chứng Khoa Học Cụ Thể

Các nghiên cứu gần đây cho thấy thành phần OPCs (oligomeric proanthocyanidins, chất chống oxi hóa tự nhiên) trong nước ép nam việt quất ngăn chặn sự bám dính của vi khuẩn lên thành tế bào của đường tiết niệu. Một thí nghiệm lâm sàng năm 1994 bởi các nhà nghiên cứu trường Y Harvard ở Boston đã so sánh 153 phụ nữ cao tuổi tiêu thụ 10 ounce (~284 g) nước ép nam việt quất mỗi ngày hoặc sử dụng giả dược có bổ sung màu, hương vị và vitamin C. Nghiên cứu này đã chứng minh hiệu quả của nước ép nam việt quất. Những phụ nữ uống nước ép nam việt quất giảm một nửa nguy cơ có vi khuẩn trong nước tiểu và chỉ có một phần tư số người bị bệnh vẫn còn tiếp tục bị nhiễm vi khuẩn sau hơn một tháng.

Ngũ cốc ăn sáng và bơ thục vật có hàm lượng cholesterol thấp

Một số công ty đã đưa ra thị trường ngũ cốc ăn sáng như là thực phẩm chức năng khi được bổ sung inulin (oligosaccharide hay còn gọi là chất xơ hoà tan) hoặc psyllium (vỏ hạt mã đề). Theo một nghiên cứu tại đại học Milan của Ý thì tổng cholesterol trong máu giảm 7,9% và tổng triglycerides giảm 21,2 % ở những người đàn ông trẻ tuổi sử dụng một khẩu phần 50 g ngũ cốc ăn sáng được tăng cường thêm 18% inulin chỉ trong bốn tuần. Vi khuẩn trong phân tăng có thể giải thích cho tác dụng hạ lipid máu. Đại học Sydney của Úc nghiên cứu về một loại ngũ cốc ăn sáng có chứa 50 g chất xơ hòa tan như là psyllium, yến mạch và lúa mạch cho thấy rằng, so với ngũ cốc từ lúa mì, thì nó làm giảm đáng kể loại lipoprotein có tỷ trọng thấp (LDL, cholesterol xấu) và hàm lượng cholesterol trong máu ở những người đàn ông trung niên bị bệnh cao cholesterol và đang áp dụng chế độ ăn kiêng ít chất béo bão hoà.

Bơ thực vật giàu sterol thực vật ban đầu được xem như là chất bổ sung chế độ ăn uống. Thế nhưng trên thị trường Hoa Kỳ hiện nay, nó được xem như là thực phẩm chức năng và đã được viện Thực phẩm và Dinh dưỡng TNO của Hà Lan chứng minh là làm giảm nồng độ cholesterol trong máu ở những người có lượng cholesterol trong máu cao. Một nghiên cứu khác được tiến hành tại đại học Kuopio của Phần Lan cho thấy rằng ester stanol thực vật có tính chất tương tự như sterol thực vật mặc dù cấu trúc hóa học thay đổi và không có khả năng hấp thụ. Nó được chứng minh là sẽ làm giảm LDL từ 10 đến 15 % khi sử dụng ba phần bơ thực vật mỗi ngày trong một chế độ ăn uống ít chất béo. Việc tiêu thụ những sản phẩm bơ thực vật này được ước tính sẽ làm giảm 25% nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

Thanh thực phẩm giúp phòng chống bệnh động mạch vành

Một công ty dược phẩm đã phát triển một loại thanh thực phẩm có bổ sung một số chất có tác dụng chữa bệnh để quản lý chế độ ăn uống của người bị bệnh về mạch máu. Thanh thực phẩm này có bán ở các hiệu thuốc trên toàn nước Mỹ và chủ yếu chứa protein đậu nành, ngoài ra còn có L-arginine cũng như một hàm lượng thích hợp của vitamin C, E, B6, B12, niacin và axit folic cho những người có bệnh động mạch vành. L-arginine là một axit amin cần thiết cho việc sản xuất oxit nitric (NO), một chất có tác dụng làm giãn mạch. Một nghiên cứu lâm sàng về thanh thực phẩm cho các bệnh nhân bị bệnh động mạch chi dưới, được tiến hành tại đại học Stanford của Mỹ, cho thấy rằng thanh thực phẩm này cải thiện đáng kể (66%) khoảng cách đi bộ mà không bị đau và làm tăng (23%) tổng khoảng cách đi bộ cho những bệnh nhân dùng hai thanh mỗi ngày trong hai tuần so với bệnh nhân dùng giả dược. Ngoài ra, hiệu quả được duy trì trong suốt 10 tuần sử dụng hai thanh mỗi ngày. Vấn đề được quan tâm là liệu thanh thực phẩm có chứa 3 g chất L-arginine này có thể cung cấp nhiều lợi ích hơn là tiêu thụ một lượng arginine tương đương được sản xuất dưới dạng viên chế phẩm bổ sung vào chế độ ăn uống hay không. Mặc dù liều sử dụng này (dưới dạng viên nén hoặc viên nang) cần đến 8 đến 12 viên nén hoặc viên nang mỗi ngày, nhưng sử dụng hai thanh/ngày có thể sẽ làm tăng cân, tăng lượng chất béo và có thể gây nhàm chán khẩu vị.

Trứng được làm giàu axit béo không bão hoà

Hiện tại đã có loại trứng trên thị trường được tăng cường lượng axit béo không bão hoà có chức năng như là các chất bổ sung dinh dưỡng dưới dạng thực phẩm. Thay vì thêm axit béo không bão hoà trực tiếp vào trứng, lợi ích dinh dưỡng thu được bằng cách cho gà ăn đa dạng các loại dầu như dầu cá, dầu thực vật hoặc axit docosahexaenoic (DHA) từ tảo. Phương pháp này đem lại hiệu quả về chi phí cho người tiêu dùng để có được các axit béo omega-3 trong chế độ ăn uống hơn là sử dụng cá nước lạnh.

Một nghiên cứu tiến hành tại đại học New England của Úc cho thấy rằng những người sử dụng bảy quả trứng giàu axit béo không bão hoà mỗi tuần có hàm lượng axit béo không bão hoà omega-3 và cholesterol tỷ trọng cao (HDL, cholesterol tốt) trong máu tăng đáng kể so với những người không sử dụng. Dù những người tiêu dùng này có sự tăng cân và tăng HDL đáng kể, tuy nhiên nếu chỉ thêm một quả trứng mỗi ngày vào chế độ ăn thì có lẽ sẽ không dẫn tới sự thay đổi trọng lượng và hàm lượng HDL như vậy.

Đồ uống có chứa probiotic

Một loại đồ uống bổ sung dinh dưỡng có chứa Lactobacillus casei, Streptococcus thermophilus và Lactobacillus bulgaricus đã được bán như là một chất bổ sung chế độ ăn với công bố khuyến cáo về cấu trúc/chức năng như sau : “Sản phẩm này với sự kết hợp độc đáo của các loại vi sinh vật, trong đó có L. casei, đã được chứng minh lâm sàng là có thể hỗ trợ hệ miễn dịch tự nhiên của bạn.” Một loại vi khuẩn probiotic được cấp bằng sáng chế là L. casei ssp. GG, được chứng minh là có khả năng tạo ra miễn dịch dịch thể tối ưu trong hệ thống miễn dịch và làm tăng miễn dịch đối với virut tiêu chảy rota gây bệnh ở trẻ em. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác được thực hiện bởi viện Nghiên cứu Dinh dưỡng và Thực phẩm TNO cho thấy không có ảnh hưởng đến hoạt động của tế bào diệt tự nhiên (natural killer cell), sự thực bào hay quá trình sản sinh cytokine ở nam giới khỏe mạnh khi uống sữa đã nuôi cấy bằng một chủng khác của cùng loài vi sinh vật.

Rõ ràng là các công ty thực phẩm và dược phẩm đang quyết tâm nghiên cứu và phát triển thực phẩm chức năng và các dinh dưỡng dược khác. Họ cũng đã chứng minh rằng một cơ sở khoa học vững chắc về hiệu quả của các sản phẩm này kết hợp với tiếp thị tốt sẽ dẫn tới sự chấp nhận của người tiêu dùng đối với nhiều loại sản phẩm khác nhau. Tương lai sẽ rộng mở cho các sản phẩm thực phẩm chức năng này.

http://www.chiro.org/nutrition/FULL/Functional_Foods.shtml